Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bình luận về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.75 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang phát triển theo xu hướng công nghiệp hoá – hiện đại
hoá theo từng giai đoạn thời gian và đã xây dựng nên được thành nhất định.
Đóng góp vào sự phát triển của đất nước phải kể đến công cuộc cải cách hệ
thống thuế do Nhà nước thực hiện. Thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của
ngân sách quốc gia, đồng thời cũng là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước
đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Nhìn nhận vai trò của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với người
có thu nhập cao trong thời gian qua, có thể thấy đây chính là công cụ tài
chính trong việc tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện công
bằng xã hội và điều tiết có hiệu quả, đưa kinh tế phát triển theo đúng mục
tiêu, đúng định hướng. Vấn đề này là vấn đề được Đảng và Nhà nước hết
sức quan tâm và với việc ban hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân thay thế
cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành theo
hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, thu hẹp sự khác
biệt giữa đối tượng nộp thuế là người Việt Nam và người nước ngoài… đã
cho thấy vai trò của Thuế thu nhập cá nhân trong đời sống. Để thực hiện
được thu thuế cá nhân thì việc quy định tìm hiểu về đối tượng chịu thuế thu
nhập cá nhân là điều cần thiết. Với đề tài: “Bình luận về đối tượng chịu thuế
thu nhập cá nhân”, em xin được phân tích làm rõ theo một số khía cạnh theo
quan điểm cá nhân.

NỘI DUNG
I/ Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân và pháp luật thuế thu
nhập cá nhân
1. Những vấn đề chung về thuế thu nhập cá nhân (TNCN)
Thuế TNCN là một trong những loại thuế nằm trong hệ thống thuế của
mỗi quốc gia, đối tượng đánh thuế của thuế thu nhập của mỗi cá nhân, xét

1



theo tính chất thuế TNCN là loại thuế trực thu thì người nộp thuế TNCN
đồng thời cũng là người chịu thuế. Căn cứ vào đối tượng nộp thuế TNCN thì
đây là loại thuế trực tiếp vào thu nhập nhận được của các nhân. Bên cạnh
những đặc điểm chung của thuế, thuế TNCN còn có những nét đặc trưng cơ
bản sau:
- Thuế TNCN có đối tượng nộp thuế chỉ là các cá nhân có thu nhập chịu
thuế phát sinh.
- Thuế TNCN được tính trực tiếp và thu nhập thực tế phát sinh của mỗi
cá nhân, nên thuế TNCN thường gây tâm trạng khó chịu cho đối tượng nộp
thuế.
- Thuế TNCN có mục tiêu chủ yếu là tăng thu cho ngân sách nhà nước
và điều hoà thu nhập dân sư bảo đảm công bằng xã hội. Thuế TNCN đánh
trực tiếp vào cá nhân có thu nhập mà thông thường mức thuế áp dụng theo
biểu thuế lưỡng tiến từng phần nên khả năng điều tiết thu nhập dân cư rất
cao.
- Thuế TNCN có tính ổn định không cao bởi nó phụ thuộc vào hiệu quả
của nền linh tế thu nhập dân cư hàng năm.
Vai trò của thuế TNCN được thể hiện một cách rõ nét thông qua hoạt
động thu thuế của nhà nước:
- Thuế TNCN là một trong những loại thuế tạo nguồn thu ngày càng lớn
cho ngân sách nhà nước. Thuế TNCN là một trong những loại thuế đóng
góp vào ngân sách nhà nước tương đối lớn và trong tương lai thì loại thuế
này còn gia tăng nhiều hơn.
- Thuế TNCN là công cụ chủ yếu điều chỉnh, phân phối lại thu nhập của
tầng lớp dân cư. Trong xã hội, thu nhập của mỗi người còn khác xa nhau rất
nhiều vì thế nhằm quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với thuế thì Nhà nước ta
phải thông qua thuế thu nhập cá nhân điều tiết một phần của những người có
thu nhập cao để trợ cấp cho những đối tượng nói trên.


2


- Thuế TNCN là công cụ để nhà nước có thể kiểm soát được thụ nhập cá
nhân. Thông qua đó nhà nước có cơ sở trong hoạch định các mục tiêu, chính
sách kế hoạch phát triển xã hội.
2. Pháp luật về thuế TNCN
Pháp luật thuế TNCN là một bộ phận trong hệ thống pháp luật thuế của
các quốc gia. Là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
nhà nước thực hiện quyền thu thuế thu nhập đối với các cá nhân có thu nhập
chịu thuế phát sinh nhằm tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Với những đặc điểm nhất định, pháp luật về thuế điều chỉnh một cách
chặt chẽ và hiệu quả việc thu thuế của nhà nước:
- Pháp luật thuế TNCN điều chỉnh uqan hệ thu nộp thuế giữa nhà nước
với các cá nhân có thu nhập chịu thuế phát sinh.
- Pháp luật thuế TNCN có nguồn khá đa dạng không chỉ bao gồm các
văn bản pháp luật quốc gia mà còn cả quy phạm pháp luật quốc tế trong
nhiều hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà các quốc gia đã ký kết.
- Pháp luật thuế TNCN được xây dựng trên nguyên tắc lợi ích, công bằng
và khả năng nộp thuế.
- Pháp luật thuế TNCN thường có tính ổn định không cao, chịu chi phối
của nhiều yếu tố, thường được người dân quan tâm tác động đến đời sống xã
hội.
II/ Đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân
1. Khái quát về đối tượng chịu thuế TNCN
Để thực hiện việc thu thuế cá nhân ta phải xác định được cái đối tượng
nộp thuế thu nhập cá nhân ở đây chính là thu nhập chịu thuế. Khác với đối
tượng nộp thuế là các chủ thể cá nhân nộp thuế theo quy định tại Điều 2
Luật thuế TNCN năm 2007, ta cần phân biệt xác định đối tượng chịu thuế

thu nhập là các khoản thu nhập mà các cá nhân thu nhập được từ các hoạt
động khác nhau được quy phạm pháp luật liệt kê một cách cụ thể tại Điều 4
3


Luật Luật thuế TNCN năm 2007, bao gồm có mười loại thu nhập chịu thuế
TNCN sau:
-

Thu nhập từ kinh doanh.

-

Thu nhập từ tiền lương, tiền công.

-

Thu nhập từ đầu tư vốn.

-

Thu nhập từ chuyển nhượng vốn.

-

Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản.

-

Thu nhập từ trúng thưởng.


-

Thu nhập từ bản quyền.

-

Thu nhập từ nhượng quyền thương mại.

-

Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở
hữu hoặc đăng ký sử dụng.

-

Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở
hữu hoặc đăng ký sử dụng.

2. Phân tích đối tượng chịu thuế TNCN

a, Thu nhập chịu thuế mang tính chất thường xuyên
Đối với nhóm thu nhập này thì bao gồm thu nhập chịu thuế từ kinh doanh
và thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công.
* Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh
- Cá nhân cư trú:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật thuế TNCN năm 2007: “Thu
nhập chịu thuế từ kinh doanh được xác định bằng doanh thu trừ các khoản

chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế từ kinh doanh
trong kỳ tính thuế.”. Việc quy định cách xác định như trên đã cho thấy pháp
luật tạo điều kiện cho các chủ thể có thể giảm bớt mức thuế phải nộp bằng
việc cho trừ các chi phí hợp lý trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đồng
thời Điều 10 Luật thuế TNCN năm 2007 cũng đã quy định một cách chi tiết
4


thế nào là chi phí hợp lý liên quan đến kinh doanh để các đối tượng nộp thuế
được phép trừ đi khi tính thuế phải nộp. Theo thông lệ ở các nước thì các
khoản khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế bao gồm cả: chi phí nghề nghiệp,
hoàn cảnh bản thân… song Luật thuế TNCN của Việt Nam lại không quy
định như vậy. Vì để đóng góp được thuế cho Nhà nước thì phải đủ để chi trả
cho cá nhân trước đã, đây chính là một bất cập của luật thuế Việt Nam. Tuy
nhiên, ta thấy rằng trên thực tế, các khoản chi phí liên quan nó tồn tại dưới
các dạng khác nhau vì hoạt động kinh doanh là hoạt động mang tính chất đa
dạng, phong phú, điều này dẫn đến nhiều cá nhân kinh doanh lợi dụng việc
trừ các chi phí liên quan để trừ vào doanh thu thực của hoạt động kinh
doanh nhằm giảm đi số thuế thực phải nộp theo quy định pháp luật.
Pháp luật thuế TNCN đã có sự dự liệu đối với cá nhân tham gia hoạt
động kinh doanh cùng nhau thì có ba cách tính số thuế phải nộp: “Tính theo
tỷ lệ vốn góp của từng cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh; Tính theo
thoả thuận giữa các cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh; Tính bằng số
bình quân thu nhập đầu người trong trường hợp đăng ký kinh doanh không
xác định tỷ lệ vốn góp hoặc không có thoả thuận về phân chia thu nhập giữa
các cá nhân” Đây là một quy định nhằm tránh trường hợp nhiều cá nhân
cùng tham gia hoạt động kinh doanh nhưng chỉ nộp thuế chỉ có một người.
Vì thế mà khi đăng ký kinh doanh các cá nhân phải ghi rõ tỷ lệ vốn góp để
tạo điều kiện cho công tác thu thuế của nhà nước.
Ngoài ra, nhằm hạn chế hiện tượng trốn thuế của các cá nhân thực

hiện hoạt động kinh doanh, pháp luật thuế đã quy định việc cơ quan có thẩm
quyền có quyền “ấn định doanh thu, tỷ lệ thu nhập chịu thuế để xác định thu
nhập chịu thuế phù hợp với từng ngành, nghề sản xuất, kinh doanh theo quy
định của pháp luật về quản lý thuế.”. Việc ấn định này vừa giúp cho cơ
quan thu thuế có thể thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả hơn, tuy nhiên
điểm hạn chế của quy định này là đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải có
chuyên môn về việc xác định doanh thu của một hoạt động kinh doanh để
5


tránh trường hợp các chứng từ không đầy đủ nhằm ngụy biện cho doanh thu
thật của cá nhân.
Thuế suất được tính dựa vào biểu thuế luỹ tiến từng phần để xác định
mức phần trăm (%) mà cá nhân cư trú phải nộp, cụ thể tại Điều 22 Luật thuế
TNCN năm 2007.
- Cá nhân không cư trú:
Đối với cá nhân nước ngoài, thì pháp luật thuế cũng có những quy định
khác biệt so với các cá nhân cư trú. Sở dĩ có sự khác biệt ấy cũng là đặc
điểm của hai đối tượng nộp thuế về mặt cư trú cũng như cách thức hoạt
động kinh doanh thương mại. Theo Điều 25 Luật thuế TNCN năm 2007:
“Doanh thu là toàn bộ số tiền phát sinh từ việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ
bao gồm cả chi phí do bên mua hàng hoá, dịch vụ trả thay cho cá nhân
không cư trú mà không được hoàn trả.”. Nếu như cá nhân Việt Nam hoạt
động kinh doanh phải được trừ đi các khoản chi phí hợp lý để tính ra thu
nhập tính thuế thì thu nhập chịu thuế của cá nhân không cứ trú đối với hoạt
động kinh doanh thì không áp dụng các khoản trừ chi phí này. Điểm khác
biệt nữa là trường hợp nếu hợp đồng không bao gồm thuế thu nhập cá nhân
thì doanh thu cá nhân không cư trú phải quy đổi thành toàn bộ số tiền mà cá
nhân ấy nhận được dưới bất cứ hình thức nào. Quy định có phần không hợp
lý vì nếu thế thì vô hình dung cá nhân cư trú sẽ phải nộp thuế nhiều hơn rất

nhiều so với mức thuế ban đầu phải nộp.
Thực tế, nhà nước không áp dụng việc trừ các chi phí liên quan cũng
như các khoản như bảo hiểm cho cá nhân không cư trú thì mức thuế suất đối
với chủ thể này lại thấp hơn so với cá nhân cư trú: 1%, 5% và 2% đối với
từng hoạt động khác nhau.
* Thu nhập từ tiền lương, tiền công
- Cá nhân cư trú

6


Quy định về đối tượng chịu thuế này được cụ thể tại Khoản 2 Điều 3
Luật thuế TNCN năm 2007 và các khoản tiền lương, tiền công nhận được
theo quy định này đều được tính vào kì tính thuế. Dựa vào mức lương nhận
được khi cá nhân nhận được từ tổ chứu trả cho thì cũng đồng nghĩa với việc
thu nhập này phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Với quy định “các khoản có
tính chất tiền lương, tiền công” (điểm a Khoản 2) vẫn còn mang tính chất
mơ hồ, chưa rõ ràng để cơ quan thu thuế có thể thực hiện công tác thu thuế,
đồng thời người dân cũng không xác định được khoản thu nhập nào của
mình là đối tượng chịu thuế cá nhân theo tính chất là tiền công, tiền lương.
-Cá nhân không cư trú:
Quy định tại Điều 26 Luật thuế TNCN năm 2007 đã quy định tương đối
cụ thể. Điểm khác biệt ở của đối tượng chịu thuế này đối với cá nhân không
cư trú là “không có sự phân biệt nơi trả thu nhập” tức là nếu cá nhân làm
việc tại Việt Nam nhưng được công ty nước ngoài trả tiền lương, tiền công
thì vẫn được xem đấy là thu nhập chịu thuế TNCN của Việt Nam. Đây chính
là sự ràng buộc pháp luật đối với các cá nhân làm việc tại Việt Nam, nhằm
tạo nguồn thu cho ngân sách đồng thời cũng là một cách để nhà nước quản
lý thu nhập của cá nhân không cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời nhà
nước cũng quy định thu nhập tính thuế trong nhóm này đối với cá nhân

không cư trú phải nhân với thuế suát 20%. Mức thuế tương đối cao so với
cái loại thuế suất khác mà cá nhân không cư trú phải nộp song cũng phù hợp
với mức tiền lương, tiền công mà họ nhận được so với mức trả lương, công
của người dân Việt Nam.
b, Thu nhập chịu thuế mang tính chất không thường xuyên
Đối với nhóm thu nhập này thì bao gồm thu nhập chịu thuế từ đầu tư
vốn, từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng, bản
quyền, nhượng quyền thương mại, thừa kế.
- Cá nhân cư trú:
7


Về các loại thu nhập này Luật thuế TNCN thì được quy định cụ thể từ
Điều 12 đến Điều 18 Luật thuế TNCN năm 2007. Sở dĩ nói các đối tượng
chịu thuế này thuộc nhóm thu nhập có tính chất không thường xuyên vì các
khoản thu nhập này không phải cá nhân nào cũng có, cũng như việc thực
hiện các hoạt động để tạo ra thu nhập này rất ít. Nó mang tính nhất thời
nhiều hơn là trong quãng thời gian liên tục. Có thể thấy rằng, các khoản thu
chịu thuế thu nhập cá nhân từ việc trúng thưởng, bản quyền, nhượng quyền
thương mại hay thừa kế, quà tặng đều phải vượt trên 10 triệu đồng thì mới
được xem là thu nhập chịu thế. Với quy định một mốc giá trị cụ thể để thuận
tiện cho việc phát sinh việc nộp thuế. Quy định thế có phần hợp lý vì theo
tâm lý chung của con người thì những thu nhập mang tính chất may mắn,
hay được tặng cho riêng thì không muốn trích phần để nộp thuế, qua đó thấy
được quy định những loại thu nhập phù hợp để thành đối tượng chịu thuế
TNCN là rất quan trọng. Vì nếu như không quy định rõ ràng giá trị như thế
thì vô hình dung cá nhân nộp thuế phải “vừa nhận vừa nộp” dù là giá trị vật
chất nhỏ.
Còn đối với thu nhập chịu thuế từ việc chuyển nhượng vốn, bất động
sản hay đầu tư vốn thì được liệt kê một cách cụ thể các loại thu nhập tại

khoản 2, 3, 4 Điều 3 Luật thuế TNCN năm 2007. Nhà nước cũng đã quy
định cách xác định thu nhập chịu thế bằng các công thức tính cụ thể đối với
từng thu nhập:
TN chuyển nhượng vốn= giá bán- giá mua.
TN chuyển nhượng bất động sản= giá chuyển nhượng BĐS- giá mua
BĐS và các chi phí liên quan.
TN từ đầu tư vốn = tổng số các khoản thu nhập từ tiền lãi cho vay, lợi tức
cổ phần, thu nhập từ đầu tư vốn dưới hình thức khác.
Khác với thuế suất đối với nhóm đối tượng chịu thuế mang tính chất
thường xuyên thuế suất với các đối tượng chịu thuế thuộc nhóm này được

8


tính theo biểu thuế toàn phần quy định tại Điều 23 Luật thuế TNCN năm
2007 với các mức thuế khác nhau.
- Cá nhân không cư trú:
Với những đặc trưng riêng của cá nhân không cư trú vì thế đối tượng
chịu thuế của họ cũng được pháp luật quy định một cách riêng biệt nhằm
điều chỉnh cho phù hợp với những thu nhập mà họ có được từ Điều 27 đến
Điều 31 Luật thuế TNCN năm 2007. Đối với thuế thu nhập là trúng thưởng,
thừa kế hay là quà tặng thì thu nhập chịu thuế phải nhân với thuế suất 10%
và cũng có mức giá trị vượt quá là 10 triệu đồng như cá nhân cư trú. Song
đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản và đầu
tư vốn thì có sự khác biệt thể hiện qua cách xác nhận thu nhập trước khi
nhân với thuế suất. Cụ thể như sau:
TN chuyển nhượng vốn=(tổng số tiền nhận được bằng việc chuyển
nhượng vốn) X thuế suất 0,1%.
TN chuyển nhượng bất động sản= (thu nhập từ chuyển nhượng BĐS)
X thuế suất 10%.

TN từ đầu tư vốn= (tổng số tiền nhận được bằng việc đầu tư vốn) X
thuế suất 5%.
Ta thấy rằng, các cá nhân nước ngoài đầu tư vào nước ta đang có
chiều hướng tăng cao, đây chính là các đối tượng nộp thuế đem lại nguồn
thu cho ngân sách nhà nước rất nhiều. Việc phân định khác nhau giữa các
đối tượng như vậy, giúp cho công tác quản lý thu thuế thu nhập được sát sao
hơn, từ đó tiến tới việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với nền kinh
tế đang không ngừng biến động kéo theo sự thay đổi đáng kể của thu nhập
cá nhân.
3. Các quy định khác về thu nhập chịu thuế TNCN
Về các thu nhập được miễn thuế thì được quy định rõ tại Điều 4 Luật
thuế TNCN năm 2007. Với quy định này cho thất tính nhân đạo của Luật
tuy nhiên nếu không quản lý chặt chẽ thì sẽ tạo kẽ hở cho các cá nhân trốn
9


thuế thông qua việc kê khai nhà ở không đúng. Với quy định thu nhập từ
thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ….
(khoản 4 Điều 4) cho thấy sự bất hợp lý, không tạo được sự công bằng giữa
các đối tượng cùng nhận được thừa kế, điều này cũng dẫn đến tâm lý ỷ lại,
dựa vào tài sản thừa kế để trốn thuế cũng như thực hiện việc chuyển nhượng
bất động sản mà không phải nộp thuế.
III/ Nhận xét và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
1. Nhận xét:
Ở các nước đều quy định các khoản thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho
việc đánh thuế thu nhập cá nhân bao gồm cả các khoản thu nhập từ kinh
doanh và thu nhập không từ kinh doanh. Thông thường các khoản thu nhập
chịu thuế phải là những khoản thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát ính, có
tính phổ biển và nhà nước phải kiểm soát được. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia
khác nhau thì các khoản thu nhập chịu thuế được pháp luật quy định khác

nhau. Sở dĩ vì thến là do:
- Mỗi một quốc gia có thể khẳng định quyền đánh thuế của mình dựa
trên các tiêu chí khác nhau như đánh thuế theo quốc tích, theo phạm vi lãnh
thổ, theo yếu tố cư trú của đối tượng nộp thuế.
- Dựa trên cơ sở thu nhập phát sinh để đánh thuế thu nhập vì thế phải
kiểm soát được các khoản thu nhập phát sinh của đối tượng nộp thuế.
- Từ thực trạng nền kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia mà nhà nước để
ra các loại thu nhập chịu thuế.
Trong những năm vừa qua, việc thực thi pháp luật thuế TNCN đã đạt
được những thành quả nhất định, đơn zử theo số liệu dự toán ngân sách năm
2007 thì số thu từ thuế thu nhập cá nhân cao nhiều gấp 3 lần tổng số các loại
thuế về đất. Đồng thời việc hướng đến các chủ thể có thu nhập cao để Đánh
thuế là sự chuẩn bị cần thiết trước khi khai thuế TNCN một cách toàn diện.
Nhưng bên cạnh những mặt đã làm được thì pháp luật thuế TNCN còn
những bất cập rõ nét. Đối với Việt Nam nói riêng, thì khả năng kiểm soát
10


thu nhập và kiểm soát chi phí chi tiêu của đối tượng chịu thuế còn chưa tốt,
chưa thể điều tiết đới với khoản thu nhập khác ngoài các thu nhập là lương.
Nói cách khác, pháp luật thuế TNCN đối với người có thu nhập cáo của Việt
Nam đánh chủ yếu vào tiền lương và một số khoản khác. Mặc dù đã từng
bước mở rộng và cụ thể hoá thu nhập chịu thuế nhưng quy định hiện hành
về thu thuế của Việt Nam vẫn còn mắc phải những vướng mắc nhất định khi
áp dụng thực tế. Thậm chí người có thu nhập tương đối phải chịu một phần
đáng kể so với là người có thu nhập cao vì chủ yếu họ là thu nhập ngoài
lương. Về thời điểm xác định thu nhập chịu thuế, có đối tượng thì có quy
định nhưng có đối tượng thì không thấy đề cập đến điều này gây bất cập cho
người xác định thu thuế.
2. Kiến nghị hoàn thiện

Ta thấy với những quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân năm
2007, bên cạnh đã ghi nhận được những quy định cụ thể, chi tiết về đối
tượng chịu thuế, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định, chính vì thế
ngày 6.5.2011 vừa qua Bộ tài chính đã có thông báo về việc đưa ra Quốc hội
sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 vào năm 2012 để khắc phục
những hạn chế về các quy phạm pháp luật. Từ đó, nhằm hoàn thiện hơn hệ
thống pháp luật về thuế TNCN nói chung và đối tượng chịu thuế nói riêng
như sau:
Thứ nhất, nhằm bao quát và đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của
luật thuế TNCN cần quy định hầu hết các khoản thu nhập đều là thu nhập
chịu thuế. Tuy nhiên ta sẽ phân loại các loại thu nhập thành ít nhóm hơn là
số lượng 10 nhóm hiện nay. Ví dụ như : Thu người lao động (bao gồm tiền
lương, tiền cồn, tiền thù lao, các thu nhập khác nhận được từ cung cấp các
dịch vụ lao động); Thu nhập kinh doanh (bao gồm từ hoạt động sản xuất
kinh doanh, cung ứng hàng hoá, dịch vụ); Thu nhập từ vốn đầu tư (bao gồm
các khoản thu nhập từ tiền lãi như trái phiếu, chứng khoán hay phát sinh đầu

11


tư dưới mọi hình thức động sản hay bất động sản); Các loại thu nhập khác
(bao gồm tiền thưởng, quà tặng…).
Thứ hai, mua bán nhà đất phải nộp thuế TNCN, pháp luật thuế đất đai
sẽ bỏ quy định thu thuế chuyển quyền sử dụng đất như hiện nay. Đồng thời
cần quy định việc thanh toán thông qua ngân hàng để tránh trường hợp trốn
thuế và quản lý nghiêm chỉnh hơn. Pháp luật thuế TNCN cũng nên để ý đến
các đối tượng là hộ nông dân đầu tư sản xuất trên đất đai thuế lại vượt mức
được giao, những hộ có tài sản cho thuê.
Thứ ba, về thu nhập chịu thuế nên chăng cần mở rộng nhiều hơn như
thu thuế TNCN đối với khoản tiền tiết kiệm tại ngân hàng với mức giá trị

tiền gửi vượt lên một mốc nhất định hay đánh thuế với thu nhập từ quyền
mua cổ phiếu không dùng tiền mặt.
Thứ tư, về các khoản khấu trừ, thuế suất và biểu thuế thì nên xem xét
lại để không gây chênh lệch quá nhiều giữa công dân Việt Nam với các nhân
không cư trú để việc xác định các thu nhập chịu thuế có phần thống nhất
hơn. Việc không khấu trừ chi phí sinh hoạt, các chi phí khác để tạo ra thu
nhập, nhằm xác định thu nhập chịu thuế đối với người thu nhập cao và thuế
thu nhập doanh nghiệp.
Thứ năm, nhằm nâng cao tính tự chủ, tự nguyện nộp thuế của các đối
tượng nộp thuế thì cần triển khai rộng rãi công tác tuyên truyền phổ biến
việc nộp thuế là góp phần làm giàu cho ngân sách nhà nước, tạo ra nguồn
thu lớn để có được nguồn kinh phí xây dựng đất nước.
Thứ sáu, việc thu thuế TNCN đối với người dân cũng phải thực hiện
việc điều tiết nền kinh tế xã hội, phải đảm bảo được yêu cầu bình đẳng, công
bằng, đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra giám sát.
Thứ bảy, pháp luật thuế phải đảm bảo tính tương đồng phù hợp với
luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế.

12


KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu và xây dựng pháp luật thuế thu nhập cá nhân của bối
cảnh kinh tế xã hội nước ta hiện nay có nhiều thuận lợi, phù hợp với chính
sách phát triển dân đồng tình ủng hộ và phù hợp với trào lưu các chủ thể
quốc tế. Tuy chỉ là một bộ phần trong hệ thống pháp luật thuế của nước ta
nhưng qua những phân tích trên, chúng ta không thể phủ nhận được vai trò
to lớn của pháp luật thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là đối tượng chịu thuế
của nó. Với tư cách là công cụ hữu hiệu để điều tiết kinh tế, điều tiết thu
nhập, thực hiện công bằng xã hội, đẩy mạnh kinh tế trong nước, chúng ta

cần tiếp tục cải cách hệ thống thuế nói chung là hệ thống thuế thu nhập cá
nhân nói riêng để thuế thu nhập trở thành một công cụ sắc bén của nhà
nước, là động lực thúc đẩy tiến tới mục tiêu làm giàu quốc gia.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật lao động thuế
Việt Nam, Nxb.CAND, 2007.

2. Luật thuế thu nhập cá nhân 2007.
3. Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8 tháng 9 năm 2008 quy định
chi tiết một số điều của luật thuế thu nhập cá nhân Chính phủ.
4. Nguyễn Thanh Hoa, Tính công bằng trong pháp luật thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2006.
5. Trần Thị Mai Thu, Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân và hướng
hoàn thiện, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2007.
6. Trần Vũ Hải, Thực trạng pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt

Nam hiện nay và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí luật học, sô
10/2007.
7. Lê Thị Thuỷ, Những vấn đề đặt ra khi thực thi Luật thuế thu nhập
cá nhận ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 5/2009.

14



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

2

I/ Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân và pháp luật

2

thuế thu nhập cá nhân
1. Những vấn đề chung về thuế thu nhập cá nhân (TNCN)

2

2.

3

Pháp luật về thuế TNCN

II/ Đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân

4

1. Khái quát về đối tượng chịu thuế TNCN


4

2. Phân tích đối tượng chịu thuế TNCN

4

a, Thu nhập chịu thuế mang tính chất thường xuyên

4

b, Thu nhập chịu thuế mang tính chất không thường xuyên

8

3. Các quy định khác về thu nhập chịu thuế TNCN

10

III/ Nhận xét và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

10

1. Nhận xét

10

2. Kiến nghị hoàn thiện

11


KẾT LUẬN

14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

15

15



×