Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Lạm phát trong nền kinh tế quốc dân, nguyên nhân thực trạng và những giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.27 KB, 35 trang )


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

LỜI NĨI ĐẦU
Lạm phát thường xuyên và dai dẳng là một hiện tượng mới bẩm sinh ở các
nước tư bản, nó được coi như một con quỷ ghê gớm nhất trên trái đất, ít nhất là

OB
OO
KS
.CO

xét về triển vọng chính sách kinh tế vĩ mơ. Tuy nhiên lạm phát cũng có tính
chất hai mặt của nó. Kích thích nền kinh tế phát triển nếu tốc độ tăng của nó
phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và ngược lại nếu tốc độ tăng lạm phát
cao nó sẽ gây ra những biến động kinh tế hết sức nghiêm trọng: Như biến dạng
cơ cấu sản xuất về việc làm về địa vị... Và lạm phát thường xẩy ra sau các cuộc
khủng hoảng lớn về kinh tế và xã hội.

Ngày nay, xu hướng quốc tế hố, tồn cầu hoá ở nhiều lĩnh vực của đời
sống đang được diển ra trên phạm vi tồn thế giới thì vấn đề lạm phát nó khơng
cịn giới hạn trong các nước tư bản mà nó đã đến với các nước đang phát triển
cũng như các nước ở thế giới thứ ba. Riêng các nước xã hội chủ nghĩa mà cụ
thể là Việt Nam, cuối những năm 80 đã trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế khá
nghiêm trọng, sản xuất sút kém giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là
thời kỳ 1986 - 1988, nền kinh tế nước ta vẫn hoạt động theo cơ chế kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp, hàng hố sản xuất có hạn mà nhu cầu thì lại rất cao
nhưng địi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền, tổng cầu luôn vượt tổng
cung, nền kinh tế luôn ở trạng thái mất cân đối, lạm phát tăng ở mức ba con số.
Thời kỳ 1989 - 1991 nền kinh tế chuyển hướng mạnh theo cơ chế thị


KIL

trường, Nhà nước đã ban hành các chính sách quản lý mới nền kinh tế như: Tự
do giá cả, thả nổi tỷ giá, chính sách lãi suất cao, cắt giảm nhiều khoản chi tiêu
ngân sách....nhờ đó mà nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, lạm phát
phi mã bị chặn lại. Thời kỳ 1992 - 1995 nền kinh tế về cơ bản thốt khỏi tình
trạng khủng hoảng và đi dần vào thế ổn định, nguyên nhân chủ yếu gây nên lạm
phát cao ở nước ta vẫn là sự bành trướng cung ứng tiền tệ qua lớn để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của xã hội nếu khơng tính đến những ngun nhân có tính
khách quan như: Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, mất



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
cân đối cơ cấu, phụ thuộc nhiều các yếu tố bên ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ
của Liên Xô.
Từ năm 1996 đến nay, do nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp kém, cơ cấu
kinh tế mất cân đối, đang trong trạng thái chuyển dịch, đầu tư tăng nhanh. Vì

KIL
OB
OO
KS
.CO

vậy có thể ổn định kinh tế ở một mức nhất định, lạm phát có thể giảm xuống ở
mức có thể chấp nhận được. Và thực tề là xu hướng giảm phát đã xảy ra gây
tình trạng thiểu phát, đây cũng là biển hiện của nền kinh tế trì trệ khủng hoảng.
Vậy muốn ổn dịnh đất nước cả về kinh tế xã hội để đẩn bảo quyền lợi và nghĩa
vụ của mối người dân thì vấn đề tăng trưởng kinh tế và chống lạm phát phải

được thực hiện một cách thống nhất làm thế nào đạt được hiệu quả cao nhất thì
địi hỏi chúng ta phải nghiên cứu một cách khoa học, vấn đề này để hiểu được
thế nào là lạm phát chống lạm phát làm như thế nào? Cần có những giải pháp
gì để khắc phục cả về mặt ngấn hạn và dài hạn duy trì mức lạm phát ở mức nào
cho hợp lý? thiểu phát có gây ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế hay không?...



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

NỘI DUNG
I-/

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT

1.

Khái niệm:

KIL
OB
OO
KS
.CO

Lạm phát là một hiện tượng chung của nền kinh tế hàng hoá, là căn bệnh
nẩy sinh khi quy luật lưu thông tiền tệ không được tơn trọng. Lạm phát thường
phát sinh do tình trạng thiếu hụt ngân sách, đặc biệt là do các cuộc chiến tranh,
những biến động lớn về kinh tế khi Nhà nước TBCN khơpng có khả năng bù
đắp những chi phá ngày càng tăng của mình bằng thuế khố, cơng trái..... nên

phải tăng cường phát hành tiền giấy, tình hình đó làm cho tiền giấy mất giá hết
sức nhanh chóng so với vàng, hàng hố và ngoại tệ. Vì vậy vấn đề chống lạm
phát vẫn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế vĩ mơ của mối
quốc gia. Có nhiều nhà kinh tế ở các quốc gia khác nhau đã đưa ra nhiều lý
thuyết để chuẩn đoán và các giải pháp khắc phục. Vậy lạm phát là gì? Trên
quan điểm lý luận của C-Mac Lenin thì lạm phát là tình trạng tiền giấy tràn đầy
các kênh lưu thơng tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế thực tế làm cho tiền tệ
mất giá, là phương tiện để phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội có
lợi cho giai cấp thống trị dưới chế độ TBCN

là phương pháp để tăng cường

bóc lột lao động biểu hiện lạm phát là giá cả tăng một cách tự phát, nhất là các
giá cả hàng tiêu dùng thông thường. Nội dung lạm phát là sự liên tục tăng lên
của mức giá trung bình theo thời gian. Lạm phát có thể biểu hiện một cách cụ
thể như sau: Lạm phát do khổi lượng tiền thực tế trong lưu thông tăng nhưng
sản xuất và lưu thơng hàng hố khơng tăng hoặc do khối lượng tiền thực tế
trong lưu thông vẫn giữ nguyên nhưng sản lượng hàng hoá giảm xuống làm cho
tiền dư thừa, gây ra lạm phát. Đây là những ngun nhân cơ bản gây ra sự phát
triển khơng bình thường của lưu thông tiền tệ. Sự quá thừa dấu hiệu giá trị trong
lưu thông đã làm cho tiền tệ mất giá so với vàng, so với hàng hoá và ngoại tệ.
Tiền tệ mất giá so với vàng bởi do đặc trưng cơ bản của lưu thơng tiền giấy là
có thể chứa một khối lượng đồ sộ tiền giấy đi vào lưu thông làm cho lợng vàng



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
mà một đơn vị tiền giấy làm đại diện giá trị giảm xuống. Tiền tệ mắt giá so với
hàng hố có nghĩa sức mua của tiền tệ giảm sút đối với tất cả hàng hoá. Bởi vì
giá trị của một đơn vị tiền giấy giảm thì giá trị hàng hố biểu hiện ở tiền giấy

tăng lên. Trong lạm phát giá cả hàng hố cũng có thể tăng khơng cùng tốc độ

KIL
OB
OO
KS
.CO

với nó là do quan hệ cung cầu và mức độ thiết yếu của thứ hàng hố đó, cịn
mất giá so với ngoại tệ nghĩa là giá trị tiền tệ ở các nước có lạm phát bị hạ thấp
so với giá trị tiền tệ ở các nước khác thể hiện ở sự thay đổi tỷ giá hối đối. Lạm
phát xảy ra ln gắn liền với phân phối lại thu nhập quốc dân, nó làm cho giai
cấp cơng nhân bị thiệt hại hơn cả vì khi tiền giấy bị mất giá, giá cả tiêu dùng
tăng nhanh hơn tiền lương danh nghĩa, nó cũng ảnh hưởng tiêu cực đến cả
những người sản xuất nhỏ vì giá cả sản phẩm của họ tăng lên chậm hơn so với
giá cả sản phẩm của các xí nghiệp. Ngồi ra tiền tiết kiệm của họ cũng bị mất
giá, lạm phát còn ảnh hưởng đến hồn cảnh của những người có thu nhập ổn
định: Viên chức, giáo viên... Theo quan điểm của C-Mác. Lạm phát được chia
thành hai thời kỳ:

Thời kỳ lạm phát tiệm tiền là thời kỳ mà trong đó tốc độ mất giá của tiền
giấy nhỏ hơn tốc dộ tăng tiền giấy, bởi vì một bộ phận tiền giấy phát hành thay
tiền đúc rút ra khỏi lưu thông không phải là tiền thừa. Đồng thời trong thời kỳ
đầu lạm phát, mua bán chịu hàng hoá giảm do nhu cầu vay tiền giảm, khi nhu
cầu tiền mặt tăng lên, giá tiền giấy đã lớn hơn tốc độ tăng tiền giấy trong lưu
thông. Xét về mặt lý luận, nhân dân chưa phát hịên ra lạm phát, vấn đề thực
hiện việc tích luỹ tiền tệ do đó phát hành tiền tăng nhưng giá tiền vẫn chưa tăng.
Thời kỳ lạm phát cơng khai thì tốc độ mất giá tiền giấy tăng nhanh hơn tốc
độ tăng tiền giấy trong lưu thơng. Vì trong lạm phát sản xuất phát triển khơng
đều, có xí nghiệp mạnh lên và có xí nghiệp phá sản dẫn đến khối lượng sản

phẩm cung ứng trong xã hội giảm, mất cân đối tăng lên giữa khối lượng tiền
giấy và khối lượng hàng hố trong lưu thơng. Khi khối lượng tiền giấy tăng lên
với tốc độ đột biến nó cũng làm cho cán cân thanh toán quốc tế bị biến động.
Theo quan điểm của Mac thì bất cứ một sự lạm phát tiệm tiền nào cũng dẫn đến



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
lạm phát cơng khai. Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại thì lạm phát xảy ra
khi mức chung về giá và chi phí tăng lên, còn giảm phát là khi mức chung về
giá và chi phí giảm xuống. Như vậy lạm phát xẩy ra khi hàng loạt các loại hàng
hoá đều tăng giá hoặc cũng có thể chỉ một hay một nhóm nào đó tăng gây lên sự

KIL
OB
OO
KS
.CO

biến động của mức giá chung. Mức giá chung trong điều kiện có lạm phát
thường mang tính cục bộ đối với từng hàng hố, Theo quan điểm của các nhà
kinh tế hội Việt Nam cho rằng lạm phát là một vấn đề không mấy xa lạ đối với
nền kinh tế hàng hoá, và hầu hết quảng đại quần chúng đều có thể chứng kiến
hay trải qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ khác nhau. Nhưng hiểu chính xác
lạm phát là gì thì khơng dễ Ngay cả các nhà kinh tế học cũng có những qquan
điển rất khác nhau về lạm phát. Xét về nội dung thì có thể chia q trình phát
triển của khái niệm lạm phát thành các giai đoạn sau:

Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước lạm phát được coi là sự phát
hành của nhiều tiền mặt dẫn đến tình trạng giảm giá trị đồng tiền tức là giá cả

tăng lên "lạm phát là sự tràn ngập các luồng lưu thông, những đồng bạc giấy
thừa gây ra sự mất giá của đồng tiền ". Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau
nhưng tập trung vào hai điểm cơ bản: Một là phát hành quá nhiều tiền giấy vi
phạm quy luật lưu thông tiền tệ. Hai là thể hiện chủ yếu nhất hoặc hiệu quả trực
tiếp nhất của lạm phát là sự mất giá đồng tiền và cũng là sự tăng lên của giá cả.
Xuất xứ của định nghĩa này từ đâu và có gì đúng sai hoặc khơng thích hợp?.
Trước hết định nghĩa này xuất phát từ lý thuyết về số lượng tiền cần thiết trong
lưu thơng, nó được tính theo cơng thức sau đây:
∑ xp
S=

(1)

V

S: Số tiền cần thiết trong lưu thông
P: Giá trị đơn vị của hàng hoá
X: Lượng hàng hoá



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
V: Số vịng quay của đồng tiền
∑ xp: Biểu thị tổng giá cả
Vậy số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng giá cả chia cho số
vòng quay của đồng tiền

KIL
OB
OO

KS
.CO

Con số vòng quay của đồng tiền (V): Đối với một người, một gia đình hoặc một
xí nghiệp kinh doanh người ta đã đề xuất cách tính. Nhưng trong tồn bộ nền
kinh tế qc dân thì V là "một con số mơ hồ" do vậy S cũng là "một con số mơ
hồ". Bỏ qua thực tế trên và coi như công thức (1) được hồn tồn xác định,
người ta dựa vào đó để nêu lên định nghĩa về chỉ số lạm phát α (Tỷ lệ lạm phát)
S - S
α=

. 100% (2)

S

S: Là lượng tiền đã phát hành

S - S: Là số tiền phát hành quá mức cần thiết và chỉ số lạm phát chính là tỷ
lệ giữa số tiền phát hành quá mức cầu cần thiết so với lượng tiền cần thiết. Bằng
toán học ta cũng có thể chứng minh được rằng, nếu giữ ngun vịng quay của
đồng tiền (V) thì lượng tiền phát hành tăng lên bao nhiêu phần trăm, chỉ số giá
cả tăng lên bấy nhiêu phần trăm như vậy tỷ lệ lạm phát cũng là tỷ lệ tăng giá.
Giai đoạn hai: Từ sau năm 1890 đến những năm trước 1950, lạm phát
được coi là tình trạng cầu lớn hơn cung, dưới góc độ tài chính đó là chi lớn hơn
thu thì lúc này chỉ số lạm phát được tính theo cơng thức sau:
Chi - Thu

α =

. 100%


Thu

Theo quan điểm này, cứ xuất hiện chênh lệch chi lớn hơn thu thì xảy ra
lạm phát, và vì có nhiều hình thức thu chi khác nhau: Thu chi ngân sách, thu
chi tiền mặt, tín dụng nên cũng có nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát: Lạm
phát ngân sách, tiền tệ, tín dụng...



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Như vậy khái niệm ở giai đoạn này chính là đi vào nguyên nhân trực tiếp
nhất trong khái niệm lạm phát của giai đoạn thứ nhất. Vấn đề này có nguyên
nhân lịch sử của nó, đó là từ lúc phơi thai của chiến tranh thế giới lần thứ nhất
cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới II. Các nước gây chiến tranh cũng như

KIL
OB
OO
KS
.CO

các nước tham chiến đều tăng chi tiêu lên gấp bội. Nhưng sau chiến tranh đó bị
tàn phá nặng nề về người và của, sản xuất ngừng trệ nguồn thu giảm nghiêm
trọng. Cho nên chênh lệch thu chi trong giai đoạn này ở nhiều nước đã gây lên
khủng hoảng về tài chính và tiền tệ, thâm hụt ngân sách nghiêm trọng. Để bù
đắp thâm hụt ngân sách chính phủ của các nước này chẳng còn cách nào khác là
phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt, làm cho lượng tiền giấy ngày càng tăng, gây
ra sự mất giá của đồng tiền và lạm phát xảy ra.


Với quan niệm lạm phát thực chất là chênh lệch thu chi thì biện pháp
chống lạm phát chủ yếu ở đây là tăng thu giảm chi làm cân bằng ngân sách.
Tăng thu chủ yếu nhờ chính sách thuế, chính sách khuyến khích sản xuất, chính
sách đầu tư để thu hút vốn vay, phát hành công trái hoặc xin viện trợ... Cịn
giảm chi chủ yếu nhờ chính sách tiêu dùng xã hội, chính sách tiết kiệm bắt
buộc, giảm quân đội, giảm biên chế hành chính, tinh giảm bộ máy nhà nước và
hạn chế đầu tư...

Giai đoạn 3: Từ những năm 1950 đến năm 1972

Trong giai đoạn này lạm phát được đồng nhất với sự tăng giá. Cho đến nay
một số tạp chí trên thế giới vẫn sử dụng khái niệm này. Như chúng ta đã biết
năm 1986 chỉ số lạm phát ở Việt Nam là 700% điều đó có nghĩa là chỉ số giả cả
cuối năm 1986 gấp 7 lần chỉ số giá cả đầu năm 1986. Như chúng ta đã biết vấn
đề giá cả là một vấn đề rất phức tạp, nó ln ln biến động. Tất cả các vấn đề
phức tạp về kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, đối nội, đối ngoại đều liên quan
đến vấn đề giá. Như vậy việc tăng giá không chỉ do nguyên nhân phát hành tiền
quá mức, do chênh lệch cung cầu hay bội chi mà nó cịn mang nhiều nguyên
nhân khác mang ý nghĩa phi tài chính, phi tiền tế như sự ảnh hưởng của tình



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
hình chính trị-xã hội hay do sự tác động của các công ty độc quyền. Khi chúng
nâng cao giá cả sản phẩm của mình.
Như vậy tiến bộ của giai đoạn thứ ba là nêu nên được vấn đề mấu chốt
nhất của vấn đề lạm phát là vấn đề tăng giá mà trước đó người ta chỉ coi nó như

KIL
OB

OO
KS
.CO

một hiện tượng hay một hậu quả của lạm phát.

Giai đoạn thứ tư: Từ năm 1972 đến nay. Đây là giai đoạn có nhiều sự kiện
đáng ghi nhớ

Khi tiền vàng bị rút khỏi lưu thông, chấm dứt việc đổi tiền tín dụng lấy
vàng thì lạm phát có tính chất phổ biến và kinh niên, nó thường xảy ra cùng với
sự suy thoái của sản xuất do khủng hoảng gây ra, với nạn thất nghiệp tăng lên là
một hiện tượng mới của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa từ những năm 60 và nó
được gọi là lạm phát suy thoái. Những xu hướng này đặc biệt thể hiện rõ trong
điều kiện của cuộc khủng hoảng sâu sắc những năm 74-75, khi mà khối lượng
sản xuất giảm sút và nạn thất nghiệp tăng lên mạnh mẽ đã kéo theo tình trạng
giá cả và lạm phát tăng lên khơng gì ngăn cản nổi. Lo sợ những hậu quả phá
hoại về kinh tế-xã hội của lạm phát, nhà nước đế quốc chủ nghĩa đang cố gắng
điều chỉnh nó. Tuy nhiên tính khơng ổn định thường xun của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, kể cả trong lĩnh vực tài chính tín dụng của nó, cuộc khủng hoảng
của hệ thống tiền tệ đang làm cho lạm phát trở thành một hiện tượng kinh niên
của thế giới tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Và suy cho
cùng, nó phá vỡ những cơ sở của chủ nghĩa tư bản và làm cho các mâu thuẫn
đối kháng về kinh tế -xã hội ngày càng trở nên gay gắt.

Tóm lại, ta có thể đi đến khái niệm lạm phát như sau:Lạm phát là hiện
tượng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế
thực tế làm cho tiền bị mất giá so với tồn bộ sản phẩm hàng hố, vàng và ngoại
tệ và thể hiện là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian. mức
giá trung bình thường lấy mức giá cả của những mặt hàng tiêu dùng làm cơ sở

và muốn được lạm phát phải tính được chỉ số giá tiêu dùng. Cơng thức tính có
thể được viết như sau:



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Ip=∑
∑ip. d
Trong đó: Ip chỉ số giá tiêu dùng của cả giỏ hàng hoá
ip: Chỉ số giá cả của từng loại hàng hoá trong giỏ hàng hố đó.
d: Tỷ trọng mức tiêu dùng trong từng loại hàng hố nhóm hàng hố trong giỏ.

KIL
OB
OO
KS
.CO

Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Khác với chỉ số
gia tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn(giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động của
giá cả đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Ở Việt Nam hiện
nay, chỉ số được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng(tính theo
hàng năm, quý, tháng).
2. Tỷ lệ lạm phát.

Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô
và sự biến động của nó phản ánh xu hướng và quy mơ của lạm phát.
Tỉ lệ lạm phát được tính theo cơng thức:
gp=(Ip/Ip-1-1). 100%
Trong đó:


gp: tỷ lệ lạm phát(%)

Ip: chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu
Ip-1: chỉ số giá cả thời kỳ trước đó.

Khi lạm phát xảy ra thì đồng nghĩa với việc tăng lên của chỉ số giá cả, nên
mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua khối lượng hàng
hoá cần thiết đã dự định. Như vậy thực chất của mức cầu tiền là cầu về cán cân
tiền tệ thực tế

Nhưng trong thực tế thì lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh hơn cả do vậy tỉ
lệ lạm phát cũng được tính bằng mức tăng lượng cung tiền danh nghĩa trừ đi
mức tăng nhu cầu tiền thực tế.

Theo lý thuyết định lượng đơn giản nói rằng:Do thu nhập thực tế và lãi
suất thường chỉ thay đổi nhỏ một vài phần trăm mỗi năm nên nhu cầu thực tế
thường cũng chỉ thay đổi một cách chậm chạp. Khi lượng tiền danh nghĩa tăng
nhanh, về cơ bản nó kéo theo sự tăng nhanh của giá cả để đảm bảo mức cung



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
tiền thực tế chỉ thay đổi một cách chậm chạp tương ứng với những thay đổi về
nhu cầu tiền tệ. Lập luận cơ bản của lý thuyết định lượng về tiền tệ là ở chỗ các
biến số thực tế thường thay đổi một cách chậm chạp do đó những thay đổi rất
lớn trong một biến danh nghĩa(lượng tiền danh nghĩa)phải kéo theo những thay

KIL
OB

OO
KS
.CO

đổi rất lớn trong các đại lượng danh nghĩa khác(giá cả và tiền lương)để duy trì
lượng cung tiền thực tế tại những giá trị cân bằng của chúng.
3. Quy mô lạm phát.

Trong thực tế tư bản chủ nghĩa, người ta thường phân biệt lạm phát lan dần
biểu hiện ở sự tăng giá cả liên tục và thường xuyên và lạm phát lan nhanh trong
đó giá cả tăng lên vùn vụt và nhảy vọt. Tùy theo quá trình lạm phát bao trùm
khu vực này hay khu vực khác của thế giới tư bản chủ nghĩa mà lạm phát được
chia thành lạm phát thế giới bao trùm một nhóm nước và lạm phát cục bộ chỉ
phát triển trong phạm vi một nước. Và tuỳ theo mức độ của tỉ lệ lạm phát mà
người ta chia lạm phát thành ba loại sau:lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và
siêu lạm phát.

a. Lạm phát vừa phải.

Xảy ra khi giá cả tăng lên chậm ở mức một con số hay ở mức dưới
10%/năm. Hiện ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa đang có lạm phát vừa
phải. Trong điều kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường xấp xỉ bằng
mức tăng tiền lương hoặc cao hơn một chút. Do vậy đồng tiền không bị mất giá
hoặc mất giá không lớn. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động
đáng kể đối với nền kinh tế.
b. Lạm phát phi mã

Xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một
năm. Khi loại lạm phát này hình thành một cách vững chắc sẽ gây ra những biến
dạng kinh tế nghiêm trọng; khi các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số

giá hoặc theo một đồng ngoại tệ mạnh nào đó, nếu lạm phát xảy ra với sự tăng
lên rất nhanh của chỉ số giá cả làm cho đồng tiền mất giá so với các chỉ số giá
hoặc đồng ngoại tệ đó sẽ làm cho các chủ doanh nghiệp, các chủ hợp đồng... có



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
thể ″phất″ lên và trái lại cũng có các chủ doanh nghiệp, các ngành nghề suy sụp
thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh.
c. Siêu lạm phát
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vượt xa

KIL
OB
OO
KS
.CO

lạm phát phi mã, ở mức trên 300%. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh
siêu lạm phát điển hình trong lịch sử siêu lạm phát thế giới giá cả tăng từ một
đến mười triệu lần. Siêu lạm phát xảy ra thường gây ra những thiệt hại nghiêm
trọng và sâu sắc. Nó phá vỡ quy luật lưu thơng tiền tệ, lưu thơng hàng hố gặp
nhiều khó khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế trì trệ khơng thể phát
triển được.

Ở Việt Nam điển hình điển hình của loại siêu lạm phát là thời kỳ 19861988 lạm phát đã ở mức 3 con số và ở mức cao. Đây là giai đoạn đặc trưng của
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.

II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.


Từ cuối những năm 80, Việt Nam đã trải qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế
nghiêm trọng, sản xuất sút kém, giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là
thời kỳ 1986-1988 nền kinh tế vẫn hoạt động theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập
trung, hàng hoá sản xuất khan hiếm về số lượng, sút kém về số lượng nhưng
nhu cầu lại rất cao, đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền nên tổng cầu
luôn tăng vượt tổng cung, nên kinh tế luôn ở trạng thái mất cân bằng, lạmphát
luôn ở mức 3 con số(năm1986 774% năm 1988 giảm xuống 308 %). Trong tình
hình bất ổn định như vậy, lạm phát càng tăng cao thì lịng tin của người dân vào
đồng tiền càng giảm sút. Xuất phát từ yêu cầu cấp bách phải ổn định nền kinh tế
chính phủ đã đưa ra hai thay đổi lớn trong lĩng vực tiền tệ đó là đưa tỷ giá hối
đoái lên ngang giá thị trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương nhằm mục
tiêu đưa lại giá trị thực cho đồng tiền Việt nam. Và kết quả là đã góp phần đẩy
lùi lạm phát và khủng hoảng, khơi phục lịng tin trong nhân dân đối với đồng



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
tiền. Từ đó các quan hệ thị trường đã được hình thành và làm cơ sở để từng
bước mở rộng quan hệ hành hoá trên phạm vi quốc tế.
Đến giai đoạn 1989-1991, nền kinh tế chuyển hướng mạnh sang cơ chế thị
trường , các chính sách đổi mới quản lý như thực hiện tự do hố giá cả, thả nổi

KIL
OB
OO
KS
.CO

tỷ giá chính sách lãi suất, cắt giảm mạnh nhiều khoản chi tiêu ngân sách....Đặc
biệt là cải cách chính sách thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất

cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác dụng tích cực trong việc mở
rộng và tập trung kịp thời các nguồn thu cho ngân sách nhà nước, từ đó đã cắt
nhanh được cơn sốt lạm phát cao (từ 308% năm 1988 xuống 68% năm 1991) và
số thu trong năm 1991 so với 1990 là 32, 4 %.

Thời kỳ 1992-1995, nền kinh tế về cơ bản thốt khỏi tình trạng khủng
hoảng và đi dần vào thế ổn định. Chỉ số giá cả hành hoá và dịch vụ dao động
xung quanh mức 12%/năm nhưng ta vẫn chưa có khả năng kiểm sốt lạm phát
theo mong muốn. Năm 1992, lạm phát ở mức 17, 5% đến năm 1993 thì giảm
xuống cịn 5,3% (trong khi mức dự kiến là từ 10-13%). Nguyên nhân của sự
giảm phát này là do giữa năm 1993 hàng Trung Quốc tràn sang việt nam với giá
cả rất rẻ so với hàng hoá nội địa và cũng do nền kinh tế nước ta đang trong xu
hướng giảm phát. Đến năm 1994, trận lũ lụt ở ĐBSCL xảy ra gây tổn thất nặng
nề đối với nền nông nghiệp nước ta đặc biệt là nguồn lúa, do vậy mà giá cả
lương thực đã tăng vọt lên đồng thời giá thực phẩm cũng tăng cao, đẩy lạm phát
tăng lên 14, 4%, và ảnh hưởng cả sang năm 1995.

Đến năm 1996, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một thời kì mới-cơng
nghiệp hố và dự kiến có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kiềm chế lạm phát, ổn
định nền kinh tế để duy trì tốc độ tăng trưởng cao là mục tiêu đặc biệt coi trọng.
Công cụ chủ yếu để kiềm chế lạm phát vẫn là thực thi một chính sách tiền tệ
hợp lí: tăng lượng cung ứng tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và
sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn các cơng cụ chính sách tiền tệ, kiên quyết
khơng bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Với các chính sách
trên tỉ lệ lạm phát đã giảm xuống một cách đáng kể. Năm 1996, chỉ số lạm phát



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
là 4, 5% được coi là mức thấp nhất kể từ 1987. Trong năm đã xuất hiện dấu hiện

giảm phát (từ tháng 5 dến tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng đều mang dấu âm)... cụ
thể là theo số liệu của tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 giảm 0,
6%, so với tháng 3/1997 đây là tháng thứ hai chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm.

KIL
OB
OO
KS
.CO

Trong đó nhóm hàng lương thực giảm mạnh nhất tới 2, 8%, giá thực phẩm giảm
1%, giá các nhóm hàng phi lương thực - lương thực tương đối ổn định. Giá
vàng tiếp tục giảm 1, 1%, giá đô la lại taưng 1% so với tháng 3/1997.
Nhìn chung từ tháng 4 năm 1997 chỉ số giá tiêu dùng tăng 1, 6% so với
tháng 4/1996 bình quân tăng 0, 13%/tháng. Đây là mức tăng thấp nhất so với 4
tháng đầu năm 1997. Và so với cả khoảng thời gian 12 tháng liên tục cùng kì
của nhiều năm trước.

Với số liệu thực tế như vậy, một số nhà phân tích kinh tế đã đưa ra một vài
nhận xét sau:

+Thể hiện sức mua xã hội, trong đó 80% là nơng thơn giảm sút, quan hệ tỉ
giá cánh kéo dỗng ra bất lợi cho nơng thơn, hàng hố ứ đọng, thị trường kém
sôi động, nhiều lĩnh vự sản xuất kinh doanh và hoạt động văn hoá - du lịch trầm
hẳn xuống. Sang năm 1997 hiện tượng giảm phát lại xuất hiện ở 6 tháng đầu
năm.

+ Xu hướng giảm phát này diễn ra từ tháng 3/1997 sớm hơn năm 1996
(vào tháng 5) và có nhiều k/n sẽ kéo dài trong những tháng tiếp theo. Do vậy
thợc trạng giảm phát trên cần được đánh giá, phân tích một cách thận trọng

nhằm hạn chế những tác động ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.
Các nhà kinh tế cũng cho rằng, với chỉ số giá tiêu dùng tăng như trên,
thơng thường chỉ thích ứng với các nước có nền kinh tế phát triển. Cịn đối với
các nước chưa phát triển, nhất là đối với nước ta đang trong giai đoạn đầu tạo
lập và phát triển nền kinh tế thị trường thì đó chưa hồn tồn là nhân tố tích cực
và phù hợp. Vậy ngun nhân chính của tình hình trên là như thế nào?
Thứ nhất, trong những tháng đầu năm, nhiều mặt hàng nông sản bước vào
thời kỳ thu hoạch chính vụ, lưu lượng trên thị trường dồi dào, song tiến độ mua



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
vào mua vào hết sức chậm chạp đã làm cho giá các loại nông sản giảm khá
nhanh và liên tục, chính nguyên nhân này đã góp phần làm cho sức mua của dân
cư giảm rõ rệt, nhịp độ tăng trưởng diễn ra một cách trầm lặng. Hàng hố nơng
sản chủ yếu ở đây là lúa, gạo và hạt điều thơ vẫn nằm trong tình trạng khó tiêu

KIL
OB
OO
KS
.CO

thụ. Mà khó khăn chủ yếu là sự thiếu vốn cũng như đầu ra bị hạn chế của các cơ
sở sản xuất và chế biến, xuất khẩu. Bởi trong khi chỉ số giá tiêu dùng trong 12
tháng liên tục (Từ tháng 4/1996 đến 4/1997) chỉ tăng 1, 6%, 4 tháng đầu năm
tăng 1, 5%. Thế mà lãi suất vốn vay ngân hàng vẫn duy trì ở mức trên
1%/tháng. Như vậy liệu họ vay vốn làm ăn có mang lại hiệu quả và đảm bảo
khả năng thanh toán được hay khơng? Vì vậy hiện nay vẫn tồn tại một nghịch lí
là ngân hàng thừa vốn với khối lượng lớn mà các doanh nghiệp lại thiếu vốn

trầm trọng.

Thứ 2 là việc kiểm sốt nhập khẩu cịn thiếu chặt chẽ, kiên quyết nên đã
dẫn đến tình trạng hàng ngoại tràn ngập, cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất
trong nước, làm cho các doanh nghiệp vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Mặc dù ngay từ dầu năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về
danh mục mặt hàng xuất khẩu và công tác điều hành nhập khẩu quy định rõ các
danh mục và số lượng hàng hoá nhập khẩu. Song trên thực tế hàng ngoại vãn
chiếm một thị phần đáng kể như:xi măng, phân bón, giấy, sắt thép.....
Thứ ba là những tháng đầu năm, giá cả thị trường thế giới cũng có những
biến động bất lợi cho ta. Ngồi giá gạo thì giá cà phê cũng là một thiệt thịi lớn
cho nơng dân. Từ cuối tháng, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng mạnh, giá
cà phê Robustal xuất khẩu của Việt nam đạt trên 1400USD/tấn. Nhưng hầu hết
sản lượng cà phê thu hoạch năm 1996/1997 đã được tiêu thụ khi giá cà phê
trong nước còn thấp. Số cịn lại khơng nhiều, đến cuối tháng 3 giá cà phê trong
nước giảm liên tục 700 - 1000 đồng/kg.

Mặt hàng cao su cũng khơng kém khó khăn, mức giá xuất khẩu giảm
xuống nhiều, lượng cao su tồn kho ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc lên đến
10000tấn. Ngồi ra những ngun nhân chính ở trên, ta cũng pphải thừa nhận



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
một thực tế là hàng hoá sản xuất trong nước chất lượng chưa cao, mẫu mã kiểu
dáng chưa đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng và giá bán chưa phù hợp với túi
tiền ngươì tiêu dùng nhất là ở mảng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ.
Trước tình hình đó, chính phủ đã đề ra nhiều biện pháp chỉ đạo mạnh mẽ

KIL

OB
OO
KS
.CO

để kích cầu như: Nới lỏng cơ chế liên ngân hàng; cung ứng tiền mặt càn thiết để
tăng dữ trữ ngoại tệ của Nhà nước để hỗ trợ vốn cho các công ty lương thực
mua hết lúa, hàng hố của nơng dân khơng thấp dưới giá sàn; điều chỉnh hạ lãi
suất cho vay và đơn giản hoá các thủ tục cho vay; tạo điều kiện dễ dàng cho các
doanh nghiệp, các hộ sản xuất tiếp cận vay vốn ngân hàng.

Những biện pháp trên đã đem lại hiệu quả thiết thực trong 6 Tháng cuối
năm 1997 khơng cịn hiện tượng giảm phát; chỉ số giá tăng 2, 5%. Trong đó đó
lương thực khơng cịn mang dấu âm (như những tháng đầu năm). Tuy nhiên tỷ
lệ lạm phát vvẫn ở mức 3, 6% (thấp hơn năm 1996 - 4, 5%) đây là mức thấp
nhất trong 10 năm đổi mới. Nếu kiềm chế lạm phát ở mức Quốc hội cho phép
10% là rất tốt nhưng mức lạm phát quá thấp sẽ đẩy nền kinh tế vào tình trạng
giảm phát thì đó là kết quả khơng hay. Về những phương diện đối ngoại tỷ giá
giữa VND/USD nửa cuối năm 1997 giảm nhiều so với tỷ giá chính thức +10%.
Tóm lại mức lạm phát năm 1997 thực hiện thấp hơn nhiều so với mục tiêu
chỉ đạo (3, 6% /10%) trong khi đó mức độ mất giá của VND/USD lớn hơn
nhiều so với mức chỉ đạo (13. 950đ / 11. 175đ) nói lên việc điều hành chính
sách tiền tệ năm 1997 tuy có nhiều cố gắng song chưa đạt yêu cầu của Nhà
nước. Đến 6 tháng đầu năm 1998 chỉ số hàng hoá - dịch vụ tăng 6%. Sáu tháng
năm 1999 tăng 1, 6% so với tháng 12 năm trước. Nhìn chung trong 2 năm trở lại
đây thị trường kém sơi động, giá khơng có đột biến nhưng vận động ở mức
thấp, tuy có tác dụng tốt là cải góp phận cải thiện đời sống nhưng lại làm cho
sản xuất lưu thơng gặp nhiều khó khăn cụ thể là nơng sản tiêu thụ khó khăn,
cơng nghiệp thì thị trường và sức mua bị thu hẹp, nhiều sản phẩm sản xuất cầm
chừng. Sáu tháng đầu năm 1999 giá cả vận động chịu ảnh hưởng của nhiều

nhân tố kiềm chế tăng giá nhưng cũng có những nhân tố đẩy giá thị trường tăng.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Để nhìn nhận một cách tổng quát nền kinh tế ta từ năm 1997 đến nay ta có
bảng thống kê của tổng cục Thống kê về chỉ số giá như sau:
1996

1997

1998

1999

KIL
OB
OO
KS
.CO

Năm
Chỉ số giá cả

4, 5%

3, 6%

9, 2%


Quý I

4, 3

2, 1

2, 9

Quý II

-0, 1

-0, 8

3, 1%

Quý II

-0, 4

0, 9

0, 6

Quý V

0, 7

1, 4


2, 6

6-7%

(Dự kiến)
2, 9

Số liệu trên đây đã cho ta thấy nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng
giảm phát mạnh. Trong đó 9 tháng đầu năm 99 chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so
với cuối năm 1998, 7 tháng liền kể từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1999 nền kinh tế
liên tục bị thiểu phát giá hàng hoá giảm liên tục, hàng hoá tồn kho của các
doanh nghiệp ở mức cao hơn chưa từng thấy như: xi măng, than đá, thép xây
dựng, đường kính, mía...

Như vậy thiểu phát là gì? đó là một hiện tượng kinh tế xảy ra khi mức cung
tiền tệ nhỏ hơn mức cầu tiền tệ làm cho đồng tiền lên giá và từ đó làm cho chỉ
số giá cả chung giảm xuống (chỉ số giá cả âm). Theo lí luận của các nhà kinh tế
thì thiểu phát cịn nguy hiểm hơn lạm phát bởi nó kìm hãm sự tăng trưởng kinh
tế, gây tình trạng khủng hoảng thừa. Vì vậy trong khi lạm phát có chiều hướng
lắng xuống thì nguy cơ thiểu phát lại dâng lên, điều này địi hỏi Chính Phủ phải
có những biện pháp thiết thực dể có thể hạn chế nó ở mức thích hợp nhất.
Sau hơn 10 năm đổi mới mà nền kinh tế nước ta đã trải qua 3 tình thế, lạm
phát phi mã; lạm phát hai chữ số với cường độ thấp và thiểu phát 7 tháng liền của
đầu năm 1999. Đây là một hiện tượng kinh tế và xã hội khơng bình thường ở nước
ta.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
III. NGUN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT VÀ THIỂU PHÁT.

1.

Nguyên nhân gây ra lạm phát.
Nguyên nhân khách quan ở đây là do nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông

nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, lại gánh chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến

KIL
OB
OO
KS
.CO

tranh lớn: chống Pháp và chống Mỹ cho nên nhu cầu chi tiêu lớn trong khi
nguồn thu ngân sách lại có hạn. Và vì vậy mà sự bành trướng cung ứng tiền tệ
quá lớn (bằng cách in tiền) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu xã hội đã gây nên tình
trạng lạm phát.

Nguyên nhân chủ quan do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư tăng không hợp lý
làm cho sản xuất tăng chậm, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ đảm bảo 80-90%
quỹ tiêu dùng xã hội. Trong khi lại phụ thuộc nhiều vài nước ngoài đặc biệt là
nguồn viện trợ của Liên Xô đã giảm đáng kể.

Mặt khác, bộ máy hành chính quá cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Vì
vậy mà nền kinh tế kém phát triển, ln trong tình trạng mất cân đối, thâm hụt
ngân sách cao. Do đó phải bù ngân sách bằng cách phát hành tiền quá mức cho
phép gây nên tình trạng lạm phát lên tới mức 2-3 con số.

Chính sách đổi tiền và tăng giá là một chính sách phá giá đồng tiền. Từ
những năm 80 đến những năm gần đây, Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh giá với

mức quá lớn, không đồng bộ. Sự điều chỉnh đã không mang lại hiệu quả lại cịn
gây tình trạng giá cả tăng vọt và buộc phải chấp nhận cơ chế trượt giá trong việc
thu mua nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Thời kỳ này nhiều ngành,
nhiều địa phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Tình hình
này đã gây ách tắc sản xuất, thị trường rối ren và làm tăng bội chi ngân sách.
Việc bng lỏng quản lí ngoại thương, thị trường ngoại hối cũng gây tác
hại lớn cho ngân sách và lưu thông tiền tệ. Trong lĩnh vực xuất khẩu đã phát
sinh hiện tượng tranh mua, tranh bán hay tuỳ tiện tăng giá hay dìm giá của một
số địa phương.
Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vốn là nền kinh tế đi từ chế độ công hữu
tràn lan sang nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, mệnh lệnh và khép kín.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Cho nên nó đã làm cho Việt Nam có một nền kinh tế kém phát triển. Chi phí sản
xuất tăng lên, tách rời với nhu cầu và cô lập với thị trương thế giới. Do vậy
không tạo được môi trường sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp các công
ty...

KIL
OB
OO
KS
.CO

Mặt khác nền kinh tế vốn đã yếu kém chậm phát triển về mọi mặt, hiệu quả
đầu tư khơng cao, chưa có chọn lọc. Q ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất cho nó. Vì vậy làm nền kinh tế
mất cân đối, chưa khai thác hết tiềm năng của đất nước, nếu có lại sử dụng kém

hiệu quả ; chưa huy động được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân. Và đặc biệt là do sự chủ quan duy ý chí, giáo điều dập khn
của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những năm qua chưa biết đưa lí
luận để áp dụng vào thực tiễn đất nước
2.

Nguyên nhân gây ra thiểu phát lạm phát

Những tưởng tránh được cơn bão lạm phát những năm cuối thập kỷ 90 đất
nước ta sẽ đi vào sự phát triển phồn vinh thịnh vượng, thực tế kinh tế những
năm qua có dấu hiệu đáng mừng tăng trưởng qua các năm luôn phát triển.
Năm 92: 8, 6%. Năm 93: 8, 1%. Năm 94: 8, 8% Năm 95: 9, 34%.
Kỳ họp quốc hội khoá VIII Đảng ta đã xác định mục tiêu tăng trưởng kinh
tế từ nay đến năm 2000 là 9-10%. Nếu cứ đà tốc độ phát triển như trên thì mục
tiêu trên sẽ chỉ là nhứng con số bình thường có thể thực hiện được, song sự thực
lại trở lên phũ phàng hơn. Nền kinh tế nước ta cứ từ tụt dốc, đất nước khơng
cịn phải đối mặt với cơn bão lạm phát nữa, mà lại gặp phải những vấn đề còn
nguy hiểm hơn lạm phát đó là thiểu phát, kẻ thù số một của sự phát triển kinh
tế. Theo số liệu thống kê năm 99 này mức lạm phát chỉ có 0, 2% nền kinh tế trở
lên trì trệ

Vậy đâu là nguyên nhân đưa đến thiểu phát: Theo các nhà nghiên cứu kinh
tế nguyên nhân của thiểu phát rất nhiều. Song tổng kết lại thì chỉ có một vài
ngun nhân chủ yếu sau:



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
- Thứ nhất: Trong những tháng qua sức mua của xã hội rất thấp tổng vốn
đầu tư dể phát triển kinh tế xã hội chỉ đạt 37, 5% kế hoạch năm. Trong đó vấn

đầu tư của ngân sách Nhà nước là 41% vốn tín dụng đạt 40% cấp phát vốn cho
dầu tư phát triển 38, 1%. Tổng phương tiện thanh toán tăng 7, 5% so với tháng

KIL
OB
OO
KS
.CO

12 năm 98, nhưng nguồn vốn huy động tăng 8, 9%

- Thứ hai: ảnh hưởng của cơn bão tài chính tiền tệ trong khu vực Đơng
Nam á và các nước trên thế giới đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế nước ta.
Cuộc khủng hoảng đã làm tỉ giá của các đồng tiền các nước trong khu vực so
với USD giảm xuống (Đồng tiền của họ mất giá ) làn cho tỷ giá đồng tiền nước
bạn so với đồng tiền nước ta cũng giảm mạnh sự sút giảm này dẫn đến hàng hoá
của nước bạn trở lên rất rẻ. Một nơi có quá hàng cao, một nơi có quá hàng thấp
tất yếu sẽ dẫn đến hàng hoá nước bạn thâm nhậm vào thị trường nước ta. Chính
vì vậy các mặt hàng như dầu thô hàng may mặc, gạo, cà fê, cao su..Thời gian
qua đã giảm liên tục ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường trong nước
- Thứ ba: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại nhiều chỉ tiêu đạt mức tăng
trưởng thấp hơn so với kì năm trước, dựng cơ bản triển khai chậm, khối lượng
xây dựng cơ bản thực hiện ước bằng 305 kế hoạch năm. Vốn đầu tư nước ngoài
ước bằng 63% so với cùng kỳ năm trước, chi ngân sách Nhà nước tính đến 15\5
bằng 31, 3% dự tốn năm ; tổng phương tiện thanh tốn trong năm tháng tuy có
tăng hơn cùng kỳ năm trước nhưng chỉ bằng 407 kế hoạch cả năm. Tỷ lệ thất
nghiệp còn lớn (Hà Nội 9%, Hải Phịng 8, 3%, Thành Phố Hồ Chí Minh 75, Đà
Nắng 6, 3%). Tình hình trên đã tác động làm cho sức mua không tăng, làm giảm
áp lực tăng giá thị trường xã hội


- Thứ tư: Thị trường trong nước trầm lặng, hàng hố tiêu thụ khó khăn
như lúa gạo. Tính đến hết tháng 5\1999 đường của các nhà máy sản xuất còn
tồn kho lên tới 255. 000 tấn, gấp ba lần tồn kho cùng kỳ, than còn tồn kho trên 2
triệu tấn, xi măng trên 21 vạn tấn... Thị trường thế giới kém sôi động, làm cho
thị trường xuất khẩu lương thực, cao su, hàng may mặc gặp khó khăn, kim
ngạch xuất khẩu giảm, giá xuất khẩu một số mặt hàng có lợi thế đều giảm hơn



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
năm 1998, gạo 31USD / tấn, giá cao su bằng 83, 7% cùng kỳ. Giá thế giới giảm,
tác động làm cho giá thị trường nội địa giảm sút. Mặt khác do nhập lậu một số
mặt hàng như đường, trứng gia cầm với số lượng lớn từ Trung Quốc và Thái
Lan đã gây khó khăn cho các ngành sản xuất trong nước đặc biệt là các hộ gia

mùa

KIL
OB
OO
KS
.CO

đình, các doanh ngiệp chăn ni sản xuất trứng, ảnh hưởng đến người trồng

- Thứ năm:Trước đây các nhà kinh tế thế giới đã tổng kết về lãi suất ngân
hàng với nội dung như sau: ứng với nền kinh tế khủng hoảng thiếu, lạm phát
phi mã hoặc siêu lạm phát ; lãi suất ngân hàng hơi cao. ứng với nền kinh tế năng
động lãi suất ngân hàng thấp ; Đối với nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng thừa và
thiếu phát. Nhờ vậy có thể nói nguyên nhân gây tình trạng thiếu phát là do sự

tác động của lãi suất ngân hàng. Vậy do đâu mà lãi suất giảm?

Xu hướng giảm phát kéo dài từ năm 1996 đến 9 tháng đầu năm 1999, làm
cho chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so với cuối năm 1998, 7 tháng liền kể từ
tháng 3 đến tháng 9 năm 1999 nền kinh tế liên tục bị thiếu phát. Giá cả hàng
hoá giảm liên tục, hàng hoá của các doanh nghiệp tồn kho ở mức cao chưa từng
thấy. Trước tình hình kinh tế như vậy nhiều doanh nghiệp không vay vốn ngân
hàng thương mại, bởi có vốn cũng khơng thể đẩy mạnh sản xuất để tạo thu nhập
cho doanh nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động. Nhiều ngân hàng
thương mại nhất là NHTM quốc doanh nhận tiền gửi của nhân dân và doanh
nghiệp vẫn tăng lên nhưng cho vay không hết các ngân hàng thương mại quốc
doanh đầu tư hàng tỷ đồng vào phát hành trái phiếu kho bạc Nhà nước thời hạn
một năm, và công trái xây dựng tổ quốc thời hạn 5 năm mặc dù lãi suất thấp.
Theo dự báo năm tài chính này, một số ngân hàng thương mại sẽ bị lỗ nhất là
NHTM cổ phần

Trước tình hình đó, các ngân hàng buộc phải hạ lãi suất cho vay của mình
để tiêu thụ vốn. Việc làm này đã diễn ra tại các NHTM trước khi thống đốc
NHNN công bố hạ lãi suất cho vay theo phanr ứng dây truyền, các ngân hàng
thương mại đồng loạt hạ lãi suất tiền gửi để chống lỗ với các mức độ khác nhau.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Các ngân hàng thương mại quốc doanh hạ lãi suất huy động vốn nhanh hơn các
ngân hàng thương mại cổ phần. Đến đầu tháng 10/1999 lãi suất tiền gửi khơng
kỳ hạn chỉ cịn 0, 3% trên tháng so với lãi suất 0, 8% trên tháng đầu năm 1999;
lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng chỉ còn 0, 5% trên tháng so với 0, 75% trên

KIL

OB
OO
KS
.CO

tháng vào đầu năm 1999. Tính ra giảm 34, 5%. Hai mức lãi suất trên ngang
bằng với lãi suất thời kỳ bao cấp ở miền Bắc nước ta trong những năm đấu của
thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70.

Có thể nói, lãi suất ngân hàng là tấm gương phản chiếu thực trạng nền kinh
tế của một quốc gia hoặc lãnh thổ ở từng thời điểm. Khi nền kinh tế khủng
hoảng nhất là nền kinh tế thiếu phát thì các cơng cụ của chính sách tiền tệ do
thống đốc NHNN diều hành trở lên kém hiệu quả, trong đó có lãi suất ngân
hàng

IV. ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA:
1.

Ảnh hưởng của lạm phát

Bốn mục tiêu kinh tế cơ bản của mọi quốc gia (Kinh tế tăng trưởng cao,
lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh tốn có số dư ) được các nhà kinh tế
thế giới ví như bốn đỉnh của một tứ giác - Tứ giác kinh tế. Bởi vậy chúng có vị
trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế. Trong đó mục tiêu tăng
trởng knh tế cao và lạm phát thấp là những mục tiêu có tầm quan trọng hàng
đầu. Và đặc biệt là đối với nước ta, tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu quan
trọng nhát bởi hai lí do:

Thứ nhất: Điễm xuất phát về kinh tế của nước ta rất thấp, mặc dù tốc độ
GDP vẫn tăng nhưng chậm, nước ta là một trong vài chục nước có GDP bình

qn đầu người thấp nhất thế giới chỉ bằng 1/2 của Trung Quốc, 1/3 Indonesia,
1/4 Philippin...

Vì vậy nếu nước ta khơng tăng trưởng kinh tế cao thì chẳng những không
rút ngắn được khoảng cách so với các nước khác mà còn đứng trước một nguy
cơ lớn - nguy cơ tụt hậu xa hơn nửa ddối với khu vực và thế giới. Từ đó dẫn đến



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
nguy cơ chệch hướng diễn biến hồ bình và tiêu cực sẽ tăng lên..làm cho xã họi
mất ổn định.
Thứ hai: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao có tác dụng quyết định các mục
tiêu cịn lại về kinh tế. Tăng trưởng kinh tế cao và tạo ra nhiều hàng hoá, tạo

KIL
OB
OO
KS
.CO

tiền đề cho cân bằng tổng cung và tổng cầu, do đó có điều kiện kiềm chế lạm
phát. Kinh tế tăng trưởng cao sẽ làm cho tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế tăng,
chẳng những nâng cao mức sống mà còn tạo thêm nhiều chỗ làm mới góp phần
giải quyết tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm do tốc độ tăng dân số ở
nước ta còn cao. Tăng trưởng kinh tế cao cũng sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu của
tiêu dùng, nhu cầu tích luỹ đấu tư, giảm bớt nhập siêu, tiến tới thăng bằng cán
cân thanh tốn

Vì vậy nền kinh tế tăng trưởng cao là mục tiêu quan trọng nhất thì lạm phát

là mục tiêu quan trọng thứ hai bởi vì lạm phát chẳng những tác động trực tiếp
tiêu dùng, đời sống người tiêu dùng mà còn tác động lớn tới người sản xuất, đến
tốc độ tăng trưởng kinh tế Vậy lạm phát tác động đến tăng trưởng kinh tế như
thế nào?

Giữa lạm phát và tăng trưởng có một mối quan hệ đặc biệt và được thể
hiện ở chỗ: Nếu quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, quan hệ giữa
tăng trưởng và cán cân thanh tốn nhìn chung là quan hệ thuận, lúc ngược chiều
khó nhận biết. Và thực chất của mối quan hệ này như thế nào thì đã có nhiều ý
kiến xung quanh vấn đề này. Có ý kiến cho rằng để nền kinh tế tăng trưởng với
tốc độ cao địi hỏi phải có lượng vốn đầu tư lớn tức là tiền mặt rung ra thị
trường trong khi sản phẩm thu hồi chậm, tất yếu sẽ dẫn đến lạm phát cao, lạm
phát cao sẽ tác động kính thích tăng trưởng kinh tế. Lại có ý kiến cho rằng: Để
nền kinh tế tăng trưởng cao thì phải kiềm chế được lạm phát ở mức độ thấp
Ta biết rằng lạm phát cao do nhiều nguyên nhân song nguyên nhân chủ
yếu là trong lưu thông, tiền mặt nhiều hơn hàng. Lúc đó sẽ xảy ra các tình hình:
Tiền mặt giống như hịn than “nóng” ai cũng muốn “đẩy” nhanh ra khỏi túi
mình, chuyển thành hàng hố hoặc vật q, gây tâm lí đầu cơ tích trữ mà khơng



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
dồn tiền cho đầu tư phát triển. Do đó kinh tế tăng trưởng thấp, khơng tăng hoặc
có thể giảm sút.
Tiền ra khỏi ngân hàng thì nhiều mà quay lại thì ít, tiền lưu thơng lớn, giá
cả hàng hoá tăng cao, thị trường lại thiếu tiền mặt. Ngân sách luôn bội chi.

KIL
OB
OO

KS
.CO

Ngân hàng buộc phải phát hành tiền cho kênh tín dụng bù đắp cho bội chi ngân
sách càng tạo thêm vịng xốy lạm phát

Lạm phát cao tất yếu dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền cho vay đều cao, làm
cho các nhà sản xuất khơng giám vay để phát triển kinh tế

Người có tiền gửi tiết kiệm bị thiết thòi lớn do lãi suất âm(lãi suất tiết kiệm
nhờ ngân hàng tăng giá)

Lạm phát cao còn hạn chế khả năng phát hàng cổ phiếu, trái phiểu của
doanh nghiệp vì trong trường hợp này lợi tức cổ phiếu, trái phiếu phải cao,
doanh nghiệp không thể chịu đựng được . Như vậy lạm phát cao sẽ làm tốc độ
tăng trưởng kinh tế thấp, và từ sự phân tích trên ta thấy mục tiêu điều tiết vĩ mơ
trong những năm tới vẫn phải đưa lên hàng đầu yêu cầu giảm lạm phát. Chúng
ta phải đi theo con đường tăng trưởng cao và lạm phát thấp mới rút gắn được
khoảng cách, mới đỡ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Lạm phát thấp thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển thị trường vốn trong nước.
2.

Ảnh hưởng của thiểu phát trong nền kinh tế:

Hiện tượng giảm phát kéo dài từ những năm 1986 đến nay đã gây ra thiểu
phát, làm ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế

Trong 9 tháng đầu năm 1999, đặc biệt là từ tháng ba đến tháng 8 hiện
tượng giảm phát diễn ra liên tục, số lạm phát dưới mức một con số (0, 2%) thấp
hơn so với mục tiêu dề ra (10%) rất nhiều. Từ đó gây ra tình trạng người có vốn

tự có khơng muốn dồn tiền vào dầu tư phát triển mà chuyển sang cho vay để
hưởng lãi “đúp” bao gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất do thiểu phát, tiền lên giá.
Tiền để trong “hịm” cũng có lãi là vì thế. Người khơng có vốn thì khơng giám
đi vay để đầu tư phát triển, vì sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, do giảm giá,
nên lợi nhuận sẽ thấp, lại còn phải trả lãi suất tiền vay nên khơng có lợi nhuận,



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
thậm chí cịn bị lỗ. Tiền gửi vào ngân hàng thì nhiều nhưng cho vay khơng hết,
tất yếu hàng hố sẽ ứ đọng vốn, tạo nên một nghịch lý: Nhu cầu tăng trưởng thì
thiếu vốn, trong khi ngân hàng và đầu tư vốn lại ứ đọng. Mà nguyên nhân chủ
yếu vẫn là trong lưu thông, tiền mặt ít hơn hàng hố gây ra một hiện tượng kinh

KIL
OB
OO
KS
.CO

tế - xã hội khơng bình thường. Các doanh nghiệp kinh doanh cầm chừng, thậm
chí cịn bị thua lỗ, hàng hoá ứ đọng ở mức cao chưa từng thấy. Tính đến hết
tháng 5-1999, đường của các nhà máy sản xuất còn tồn kho trên 255. 000 tấn
gấp 3 lần tồn kho cùng kỳ, than còn tồn kho trên 2 triệu tấn, xi măng trên 21
vạn tấn, lúa gạo tiêu thụ rất khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ đạt
41% so với kế hoạch. Một số loại bị giảm như: Gạo giảm 21, 7 %, lạc nhân
giảm 21, 4 %, hạt điều giảm 41, 4 %... , giá xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế
đều sút giảm: Giá gạo giảm xuống. Như vậy thiểu phát làm lạm phát thấp cũng
làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp (thuận chiều) nhưng nếu trong điều kiện
kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao mà lạm phát ở mức q thấp thì cũng khơng

khác gì trường hợp thiểu phát.

Từ sự phân tích trên ta thấy rằng lạm phát và thiểu phát đều tác động mạnh
đến nền kinh tế, nó kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, hạn chế mở rộng quy
mô sản xuất, sản lượng giảm gây ra các hiện tượng tiêu cực trong xã hội: đầu tư
có tích chữ, độc quyền... Như vậy "liều lượng" lạm phát như thế nào là vừa, là
hợp lý để vừa có tác dụng kích thích vừa khơng hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh
tế?
V.

BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC

1.

Biện pháp khắc phục lạm phát:

Về mặt lí luận thì giải pháp chung được lựa chọn để khác phục thường là:
a- Một là: Đối với cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã hầu như đều gắn
chặt với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, có mức độ thâm hụt ngân sách
cao, và có tốc độ tăng lương danh nghĩa cao. Vì vậy giảm mạnh tốc độ tăng
cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu ngân sách và kiểm sốt có hiệu quả việc



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
tăng lương danh nghĩa chắc chắn sẽ chặn đứng và đẩy lùi lạm phát. Thực chất
của giải pháp trên là tạo ra cú sốc cầu, đẩy nền kinh tế đi xuống dọc theo đường
Philip ngắn hạn và có sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp. Tức là
lúc này nó gây ra một mức độ suy thoái và thất nghiệp nhất định. Nếu biện pháp


KIL
OB
OO
KS
.CO

trên được duy trì thì nền kinh tế sẽ tự điều chỉnh và sau một thời gian giá cả sẽ
đạt ở mức lạm phát thấp hơn và sản lượng trở lại tiềm năng
PC3

gp

GP PC2

PC1

O

U*

U

H - Đường Phillips ngắn hạn

b- Hai là: Đối với lạm phát vừa phải, kiềm chế và đẩy từ từ xuống thấp
hơn cũng đòi hỏi áp dụng các chính sách nói trên tuy nhiên hậu quả kéo theo là
suy thoái và thất nghiệp- cái giá quá đắt nên về lâu dài, phải chăm lo mở rộng
sản lượng tiềm năng bằng nguồn vốn trong và ngoài nước để đảm bảo nâng cao
sản lượng, mức sống vừa ổn định, giá cả một cách vững.


Cái giá phải trả của lạm phát khơng tương xứng với lợi ích đem lại của
chúng. Vì vậy mà các quốc gia thường chấp nhận lạm phát ỏ mức thấp và xử lí
ảnh hưởng của nó bằng việc chỉ số hố các yếu tố chi phí: tiền lương. lãi suất,
giá vật tư... đó là cách tốt nhất để hạn chế thiệt hại của lạm phát.

Trên thực tế ở Việt Nam chúng ta dã làm gì để chống lạm phát. Chỉ thị số
43-TTG của thủ tướng chính phủ đã được Quốc hội thơng qua ngày 22-1-1996.


×