Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực vĩnh yên vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.72 KB, 89 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống giáo dục quốc dân nước ta hiện nay thì giáo dục mầm
non được coi là bậc học quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ. Lịch sử giáo dục mầm non ghi nhận
giáo dục mầm non là khâu đầu tiên trong quá trình đào tạo nhân cách con
người Việt Nam, với mục tiêu là “Giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mĩ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách chuẩn bị cho
trẻ vào lớp 1” (Điều 21 - Luật giáo dục 2005). Lứa tuổi mầm non là lứa tuổi
bình minh của cuộc đời. Đây là độ tuổi mà các tố chất thể lực trở nên hết sức
quan trọng để về sau trẻ có thể phát triển lành mạnh, hài hịa và tồn diện.
Ơng cha ta có câu:
“Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ lúc hãy còn trẻ thơ”
Lúc mới sinh ra, tất cả trẻ em đều được cha mẹ nuôi dưỡng trong tổ
ấm, đến một độ tuổi nào đó mới ra đời, mới hịa nhập vào với cộng đồng. Tổ
ấm của trẻ em là gia đình, là mơi trường văn hóa, được tạo dựng nên trên cơ
sở tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của những người ruột thịt trong gia
đình - gọi là văn hóa gia đình.
A.C Makarenko đã nói: “Những gì bố mẹ làm cho con trước 5 tuổi đó
là 90% kết quả của quá trình giáo dục”. Điều này đã khẳng định được vai trị
to lớn của bố mẹ hay nói cách khác là vai trị của giáo dục gia đình đối với sự
phát triển của trẻ nhỏ.
Văn hóa gia đình là một môi trường đặc biệt rất phù hợp với sự phát
triển của trẻ thơ. Trước hết vì đó là mơi trường an tồn, trong đó đứa trẻ lớn
lên bên cạnh những người ruột thịt, luôn được yêu thương ấp ủ; môi trường
đó tạo nên ở trẻ cảm giác an tồn về mặt tâm lí. Do trẻ ln được chăm sóc



Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nên tạo ra ở trẻ cảm giác an toàn về mặt thể chất. Nhờ có cảm giác an tồn đó,
đứa trẻ mới cảm thấy yên tâm, mới vui tươi hồn nhiên, mới mạnh dạn thăm
dị, thử nghiệm, tìm cách tác động đến sự vật xung quanh để phát huy những
khả năng về sinh lí và tâm lí đang sinh sơi nảy nở.
Văn hóa gia đình là một mơi trường đặc biệt, an tồn, phong phú cả về
thể chất lẫn tâm lí trong đó trẻ được nuôi dưỡng và dạy dỗ theo phương thức
gia đình với sự giáo dục mang tính chất tích hợp và đậm màu sắc nghệ thuật.
Đây chính là tính ưu việt của giáo dục gia đình mà khơng một thiết chế xã hội
nào có thể thay thế được. Trong giáo dục gia đình với nội dung phong phú đã
xây dựng và bồi đắp cho trẻ cả về đức, trí, thể, mĩ chuẩn bị nền tảng vững
chắc cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Những điều trẻ học được từ sự giáo
dục của gia đình sẽ quyết định đến sự phát triển toàn diện của trẻ và theo trẻ
đến hết cuộc đời. Vậy khi ở nhà gia đình cần giáo dục trẻ những nội dung gì?
Đây khơng phải vấn đề mới song không phải bất cứ giáo viên nào cũng có
cách nhìn nhận đúng đắn về nó. Để kết quả giáo dục trẻ trong gia đình được
tốt rất cần sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường. Bởi vậy nhận thức của giáo
viên mầm non về nội dung giáo dục gia đình cho trẻ mẫu giáo sẽ là kim chỉ
nam, là điều kiện thuận lợi để việc giáo dục trẻ trong gia đình được tốt nhất,
giúp trẻ phát triển toàn diện.
Với tư cách là một giáo viên mầm non trong tương lai, nhận thức được

tầm quan trọng của vấn đề nêu trên tơi muốn góp một phần cơng sức của
mình vào việc nâng cao hiểu biết của giáo viên mầm non về nội dung chăm
sóc và giáo dục trẻ trong gia đình đặc biệt là trẻ mẫu giáo. Vì vậy tơi chọn đề
tài “Tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ
mẫu giáo trong gia đình khu vực Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc”.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Đã có rất nhiều các nhà giáo dục, tâm lí cũng như các văn bản pháp luật
của nhà nước nghiên cứu về nội dung giáo dục trẻ mầm non trong gia đình và
các khía cạnh của nó.
Theo Aixtot- Nhà giáo dục Hy Lạp cổ đại, ơng đánh giá rất cao vai trị
của gia đình trong việc giáo dục trẻ em nhất là giáo dục ban đầu. Theo J. A.
Coomenxki “Muốn giáo dục trẻ em phải dựa vào đặc điểm phát triển về mặt
tâm lí và sinh lí của trẻ để giáo dục trẻ”.
Ở Việt Nam mục tiêu cao cả của giáo dục gia đình được thể hiện ở
chương IV- Quan hệ giữa cha mẹ và con, Điều 34- Nghĩa vụ và quyền của
cha mẹ trong luật hơn nhân và gia đình: “…giáo dục để con phát triển lành
mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia
đình, cơng dân có ích cho xã hội”.
Theo PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết [8, 25] : Gia đình có ảnh hưởng tuyệt
đối trong q trình phát triển của trẻ thơ, sống trong mơi trường giáo dục của

gia đình trẻ được thỏa mãn mọi nhu cầu về thể chất lẫn tinh thần để lớn lên
phát triển khỏe mạnh hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con
người.
Tác giả Vũ Mạnh Quỳnh [6, 17] cũng đã khẳng định: Với trẻ thơ, gia
đình là mơi trường thuận lợi để hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục
bằng tình cảm huyết thống nên khơng một tổ chức xã hội nào có thể thay thế
được.
Tuy nhiên vấn đề tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về nội
dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực Vĩnh n - Vĩnh Phúc thì
chưa có ai nghiên cứu.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo
dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc nhằm phát
hiện thực trạng và nâng cao nhận thức của họ về các nội dung giáo dục trẻ
mẫu giáo trong gia đình.
4. Mức độ và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu tại khu vực Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
- Nghiên cứu trên giáo viên mầm non đang giảng dạy tại các lớp mẫu
giáo từ 3 - 6 tuổi.
- Nghiên cứu nhận thức của họ về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong

gia đình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến giáo dục trẻ em, tâm lí trẻ em để
xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
Tìm hiểu nhận thức về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình
của giáo viên mầm non khu vực Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
Xây dựng hệ thống câu hỏi điều tra và tiến hành điều tra.
Một số tác động thử nghiệm nhằm nâng cao nâng cao nhận thức của
giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực
Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
6. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo
trong gia đình khu vực Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
6.2. Khách thể nghiên cứu
Giáo viên mầm non dạy trẻ ở độ tuổi 3 - 6 tuổi khu vực Vĩnh Yên Vĩnh Phúc.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

7. Giả thuyết khoa học
Trong giai đoạn hiện nay, khi ngành giáo dục mầm non đã chú trọng
hơn tới việc giáo dục trẻ, các giáo viên mầm non cũng đã ý thức được vị trí và
vai trị của giáo dục gia đình với sự phát triển của trẻ thì vẫn cịn khơng ít các

giáo viên mầm non chưa nhận thức đúng đắn về tác động của giáo dục gia
đình, mà nhất là các nội dung giáo dục trẻ dẫn đến phương pháp giáo dục trẻ
sai lệch. Bởi vậy nếu các giáo viên này được hướng dẫn tìm hiểu các kiến
thức về nội dung giáo dục trẻ trong gia đình thì đây là cơ hội để các giáo viên
nâng cao nhận thức góp phần to lớn trong việc chăm sóc, ni dưỡng và giáo
dục trẻ một cách hiệu quả nhất.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục
trẻ mẫu giáo trong gia đình là rất quan trọng và cần thiết. Trên cơ sở tìm hiểu
ta sẽ phát hiện ra những nhận thức tích cực và tiêu cực của giáo viên mầm
non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình. Từ đó, tư vấn những
nội dung giáo dục đúng đắn, phù hợp giúp gia đình ni dạy con đúng, khoa
học tạo cơ sở để trẻ phát triển tồn diện.
9. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp trị chuyện.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


10. Cấu trúc đề tài
Phần 1 : Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
4. Mức độ và phạm vi nghiên cứu
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
7. Giả thuyết khoa học
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
9. Phương pháp nghiên cứu
10. Cấu trúc đề tài
Phần 2 : Nội dung
Chương 1 : Cơ sở lí luận
Chương 2 : Thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung
giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Chương 3 : Một số tác động thử nghiệm nhằm nâng cao nhận thức của
các giáo viên khu vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc về nội dung giáo dục trẻ mẫu
giáo trong gia đình
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phiếu trưng cầu ý kiến

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Nhận thức là gì
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin: Nhận thức là quá trình phản ánh
biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích
cực, năng động, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn. [1, 25]
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam: Nhận thức là quá trình biện chứng
của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức của con người, nhờ đó con
nguời tư duy và khơng ngừng gần khách thể. [12, 24]
1.2. Giáo dục là gì
Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin: “Bản chất của con người
là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, như vây con người và xã hội không tách
rời nhau. Xã hội cần phát triển cần dựa vào giáo dục. Giáo dục góp phần làm
cho xã hội phát triển thơng qua sản phẩm của nó - đó là những con người có
nhân cách.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” (Của Viện ngơn ngữ học, Trung tâm từ
điển học, NXB GD, 1994, trang 379) có ghi “ Giáo dục là hoạt động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng nào đó làm cho
đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề
ra”.
Quá trình giáo dục là một quá trình hoạt động phối hợp tương tác giữa
người giáo dục và người được giáo dục, được tổ chức một cách có mục đích,
có kế hoạch. Dưới sự chỉ đạo của người giáo dục, người được giáo dục tự
giác, tích cực và tự lực nắm vững hệ thống quan điểm, niềm tin, thái độ và
hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức đó.

Lục Thị Thư


Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.3. Giáo dục gia đình là gì
Giáo dục gia đình có thể hiểu là tất cả những tác động ảnh hưởng của
gia đình đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con nguời mà trước hết
chính là đứa trẻ. Thơng qua nền giáo dục gia đình mà mỗi trẻ em học hỏi
được các giá trị xã hội, những mầm mống ban đầu của nhân cách, những suy
nghĩ, hiểu biết về cuộc sống đều được hình thành ngay trong cuộc sống gia
đình.
1.4. Vai trị của giáo dục gia đình
Gia đình là chiếc cầu nối đầu tiên hình thành và ni dưỡng nhân cách,
là mơi trường đầu tiên trong q trình xã hội hoá nhân cách của đứa trẻ. Đối
với trẻ, nhân cách khơng thể hình thành và phát triển đầy đủ nếu khơng có
một mơi trường gia đình thuận lợi.
1.5. Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ mẫu giáo
1.5.1. Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ 3 - 4 tuổi
Trẻ 3 - 4 tuổi có sự chuyển biến rõ rệt về tâm lí. Đó là sự thay đổi hoạt
động với đồ vật bằng hoạt động vui chơi, trị chơi đóng vai theo chủ đề đã
xuất hiện để thoả mãn nhu cầu của trẻ muốn sống và làm việc như người lớn.
Do vốn sống và vốn kinh nghiệm của trẻ còn hạn chế nên nội dung và chủ đề
chơi của trẻ còn rất nghèo nàn, chật hẹp. Ở lứa tuổi này trị chơi đóng vai
theo chủ đề được chuyển sang vai trò chủ đạo nhưng vẫn bị hoạt động chủ
đạo cũ - hoạt động với đồ vật chi phối mạnh. Những phẩm chất tâm lí và
những đặc điểm nhân cách của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất là trong hoạt
động vui chơi. Trị chơi đóng vai theo chủ đề khơng chỉ có ý nghĩa quyết định

đến sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ, mà còn tác động đến đời sống tình
cảm của trẻ. Qua trị chơi, trẻ cịn được hình thành những phẩm chất ý chí như
tính mục đích, tính kỉ luật, tính dũng cảm. Đến tuổi mẫu giáo , tư duy của trẻ
có một bước ngoặt rất cơ bản. Đó là chuyển tư duy từ bình dịên bên ngoài vào

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

bình diện bên trong mà thực chất là chuyển những hành động định hướng bên
ngoài thành những hành động định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm.
Quá trình tư duy của trẻ đã bắt đầu dựa vào những hình ảnh của sự vật và hiện
tượng đã có trong đầu, cũng có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực quan hành động sang kiểu tư duy trực quan - hình tượng. Tuy nhiên bước nhảy này
mới chỉ là một bước nhảy từ tư duy trực quan - hành động sang tư duy trực
quan- hình tượng nên nó chỉ là điểm khởi đầu của loại tư duy mới. Lứa tuổi
mẫu giáo bé là điểm khởi đầu của cả giai đoạn đầu tiên của quá trình hình
thành nhân cách con người. Đồng thời đây là giai đoạn đang diễn ra một bước
ngoặt quan trọng trong cuộc sống của tâm lí trẻ, đó là việc chuyển từ lứa tuổi
ấu nhi sang lứa tuổi mẫu giáo. Vì là điểm khởi đầu của giai đoạn đầu tiên của
quá trình hình thành và phát triển nhân cách nên việc giáo dục trẻ ở lứa tuổi
mẫu giáo bé mang tính chất phức tạp riêng của nó.
1.5.2 Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ 4 - 5 tuổi
Hoạt động vui chơi của trẻ đã mang đầy đủ ý nghĩa và có thể nói đã
phát triển tới mức hồn thiện. Tuổi mẫu giáo nhỡ, việc vui chơi trong nhóm
bạn bè là một nhu cầu bức thiết, từ đó “xã hội trẻ em được hình thành”. Tư

duy của trẻ mẫu giáo nhỡ có sự phát triển mạnh mẽ của tư duy trực quan hình
tượng, phần lớn trẻ mẫu giáo nhỡ đã có khả năng suy luận. Tư duy trực quan
phát triển mạnh giúp trẻ giải được nhiều bài toán thực tiễn trong cuộc sống.
Tuy nhiên, vì chưa có khả năng tư duy trừu tượng nên những điều mà trẻ suy
luận mới chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên ngoài mà chưa đi vào bản chất bên
trong.
Tư duy trực quan - hình tượng phát triển mạnh đó là điều kiện thuận lợi
nhất để giúp trẻ cảm nhận tốt những hình tượng nghệ thuật được xây dựng
trong tác phẩm văn học. Đồng thời cần giúp trẻ tạo ra những tiền đề cần thiết
để làm nảy sinh yếu tố ban đầu của kiểu tư duy - trừu tượng.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Đời sống tình cảm của trẻ phát triển mạnh mẽ, trẻ rất cần sự yêu thương
của người lớn và rất sợ sự thờ ơ, lạnh nhạt của những người xung quanh.
Không chỉ thế, trẻ còn biết đồng cảm với các nhân vật trong các câu chuyện
kể hay trong cuộc sống đời thường, biết yêu thương các loại cỏ cây, động vật.
Trẻ thường gắn cho chúng những sắc thái tình cảm của con người.
Trong giai đoạn này, tình cảm thẩm mĩ của trẻ cũng phát triển rất mạnh
mẽ. Trẻ rất sung sướng khi thấy một bông hoa màu sắc sặc sỡ hay một chiếc
áo đẹp mà bố mẹ mới mua cho. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lúc này sẽ mang lại
hiệu quả to lớn cho việc giáo dục các mặt khác, đặc biệt là giáo dục đạo đức
cho trẻ.

1.5.3. Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ 5 - 6 tuổi
Hoạt động vui chơi vốn giữ vai trò chủ đạo trong suốt thời kì mẫu giáo
thì bây giờ những yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh để tiến tới
giữ vị trí chủ đạo. Đây là lứa tuổi chuẩn bị bước vào trường phổ thông. Giai
đoạn này, những đặc điểm tâm lí đặc trưng của con người đã được hình thành
trước đây trong độ tuổi mẫu giáo nhỡ vẫn được tiếp tục phát triển mạnh. Với
sự giáo dục của người lớn, những chức năng tâm lí đó sẽ được hồn thiện tạo
cơ sở ban đầu cho sự phát triển nhân cách sau này.
Trẻ bắt đầu ý thức được giới tính của mình, trẻ khơng chỉ nhận ra được
mình là trai hay gái mà còn biết phải thể hiện hành vi như thế nào để phù hợp
với giới tính của mình. Trẻ bắt đầu biết mình là người như thế nào và có
những phẩm chất gì, mọi người xung quanh đối xử với mình ra sao... Trẻ bắt
đầu biết đánh giá người khác nhưng sự đánh giá đó cịn mang tính chủ quan,
bị tình cảm và cảm xúc chi phối mạnh mẽ.
Trong giai đoạn này trẻ đã biết điều khiển hành vi của mình theo mục
đích đã định, do đó thời gian chơi được kéo dài hơn, tính tập trung và bền

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

vững được tăng lên, trẻ biết hướng chú ý của mình vào những đối tượng nhất
định.
Nhu cầu nhận thức của trẻ phát triển mạnh. Hoạt động vui chơi không
thoả mãn nhu cầu này của trẻ nên trẻ phải tìm dến một hoạt động mới đó là

hoạt động học tập. Vì vậy việc chuẩn bị tâm lí cho trẻ sẵn sàng đến trường
phổ thơng là một việc làm quan trọng.
1.6. Nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình
1.6.1. Giáo dục thể chất
Trẻ mẫu giáo, quá trình sinh trưởng và phát triển diễn ra mạnh mẽ, quá
trình trao đổi chất diễn ra nhanh. Do đó nhu cầu dinh dưỡng của trẻ là rất lớn.
Gia đình cần cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cho trẻ để thể trạng của trẻ
phát triển bình thường. Đồng thời gia đình cần tạo điều kiện cho trẻ tham gia
vào các hoạt động thể lực như chạy nhảy, leo trèo... để cơ thể trẻ và các hệ cơ
quan trong cơ thể thực hiện tốt chức năng của mình, giúp cơ thể phát triển tốt.
1.6.2. Giáo dục xúc cảm, tình cảm
Giáo dục trẻ biết nhận thức chính xác những xúc cảm của mình và giúp
trẻ biết diễn đạt bằng lời một cách chính xác nhu cầu của bản thân và nhận
biết chính xác những xúc cảm của những người xung quanh.
Giáo dục trẻ biết yêu thương, kính trọng ông bà, cha mẹ, biết giúp đỡ
ông bà, cha mẹ lúc ốm đau bằng những việc nhỏ như lấy nước, quạt mát giúp
ông bà, cha mẹ...
Giáo dục trẻ biết đồng cảm, thông cảm với những người xung quanh,
biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người xung quanh.
Ví dụ: Trẻ biết chơi với các em nhỏ và biết nhường đồ chơi cho các em
nhỏ, không tranh giành đồ chơi.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Gia đình cũng cần giáo dục trẻ nhu cầu muốn giúp đỡ những người
xung quanh khi họ gặp khó khăn, bệnh tật hay khi họ đau buồn, giáo dục trẻ
có tình cảm trong sáng, lành mạnh, biết yêu thương những người xung quanh.
1.6.3. Giáo dục tinh thần hợp tác, giúp đỡ những người xung quanh
Trong gia đình cần giáo dục trẻ biết hợp tác với những người xung
quanh, giúp trẻ hiểu được rằng nhờ sự hợp tác mà nhu cầu bản thân được thực
hiện tốt hơn, nhanh hơn là khi làm một mình.
Sự hợp tác có thể là giữa mẹ với con, giữa những thành viên trong gia
đình. Chẳng hạn cho trẻ cùng làm việc giúp mẹ như nhặt rau, lấy nước giúp
mẹ... Khi trẻ làm được những việc này thì cũng cần có phần thưởng cho trẻ để
khuyến khích trẻ tham gia.
Ví dụ: Khi trẻ giúp cha mẹ, anh chị thì trẻ sẽ được đi xem phim, đi siêu
thị cùng gia đình.
Các phương tiện hợp tác có thể là các phương tiện ngơn ngữ, hoặc bằng
cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…
Gia đình cần giáo dục trẻ sống trong gia đình cần phải đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau để tạo ra sức mạnh của gia đình.
Tất cả những việc làm trên sẽ tạo thành thói quen tốt, nét tính cách tốt
cho nhân cách của trẻ sau này. Gia đình là mơi trường giáo dục trẻ biết đoàn
kết, thương yêu, hợp tác với mọi người thuận lợi nhất.
1.6.4. Giáo dục các tính cách tốt cho trẻ
a. Sự cơng bằng
Trong gia đình cần quan tâm, chăm sóc và ni dưỡng trẻ để đáp ứng
những nhu cầu cần thiết của trẻ, thỏa mãn mong muốn được đối xử công bằng
và được quan tâm như mọi thành viên khác trong gia đình.
Tuy nhiên, có những giai đoạn, những hồn cảnh trẻ khơng được đối xử
cơng bằng như: Mẹ mới sinh em bé thì mẹ sẽ phải dành nhiều tình cảm hơn

Lục Thị Thư


Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

cho em, lúc này trẻ sẽ cảm thấy tủi thân, hoặc ghen tị với em. Lúc này địi hỏi
người lớn trong gia đình cần phải thay mẹ chăm sóc, trị chuyện với trẻ để trẻ
cảm nhận được sự yêu thương, trẻ cảm thấy mình vẫn được quan tâm và đối
xử cơng bằng.
b. Lịng can đảm
Gia dình cần giáo dục cho trẻ biết đương đầu với những khó khăn, thử
thách và dám chấp nhận thât bại để đi đến thành công. Giáo dục trẻ không nên
sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc sống mà hãy bình tĩnh tìm cách giải quyết.
Ví dụ: Giáo dục trẻ khi bị vấp ngã thì khơng nên khóc và nũng nịu
người lớn mà hãy can đảm tự đứng lên.
c. Sự chăm chỉ
Trẻ mẫu giáo đã có khả năng làm một số việc tự phục vụ cho bản thân
hoặc giúp đỡ những người xung quanh. Bởi vậy gia đình cần giáo dục trẻ
tham gia vào một số công việc phù hợp khi ở nhà như tự thay quần áo, tự rửa
tay... Qua đó, hình thành ở trẻ thói quen chăm chỉ, thích được làm việc, thích
giúp đỡ những người xung quanh.
Gia đình cần giáo dục trẻ khi tham gia cơng việc thì phải có tinh thần
trách nhiệm, làm thế nào để đạt được kết quả tốt nhất, đem lại niềm tin cho
mọi người.
Ví dụ: Khi quét nhà giúp mẹ thì cần quét sạch sẽ, khi rửa tay chân thì
cũng cần rửa sạch…
d. Sự tơn trọng

Gia đình cần giáo dục trẻ có thái độ, hành vi lễ phép, khiêm tốn trong
ứng xử, khơng được nói tục, chửi bậy, khi nói chuyện với người lớn tuổi thì
phải xưng hơ đúng mực, lễ phép, khơng được nói trống khơng. Gia đình cần
phải làm tấm gương cho trẻ, cần tôn trọng trẻ, không được quát mắng trẻ khi
trẻ sai mà cần nói nhẹ nhàng để trẻ sửa sai.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Ví dụ: Khi nói chuyện với người lớn tuổi thì phải xưng hơ đúng mực, lễ
phép, nói đủ câu.
e. Niềm tự hào
Trẻ mẫu giáo đã xuất hiện niềm tự hào khi làm được một việc tốt và
được người lớn khen là giỏi, ngoan hay là thông minh. Muốn giáo dục niềm
tự hào cho trẻ gia đình cần giao cho trẻ những cơng việc khó mà khi cố gắng
thì trẻ mới làm được như quét nhà, trông em.... Qua các công việc này sẽ kích
thích trẻ hứng thú tham gia và làm việc có hiệu quả, mong muốn được người
lớn khen. Điều này có tác động tích cực để xây dựng các hành vi đạo đức cho
trẻ.
Ví dụ: Khi trẻ lấy nước giúp bà lúc bà ốm thì người lớn cần khen ngợi
trẻ là ngoan, là biết làm việc tốt thì trong trẻ sẽ xuất hiện lịng tự hào và kích
thích trẻ lần sau sẽ làm nhiều việc tốt.
1.6.5. Giáo dục hành vi giới tính cho trẻ
Đối với trẻ mẫu giáo thì giáo dục hành vi giới tính cho trẻ là rất cần

thiết. Lứa tuổi này thì trẻ đã có những hành vi phù hợp với giới tính của mình.
Ví dụ: Trẻ gái thì mặc váy, trẻ trai thì khơng mặc được mặc váy.
Trẻ gái thì mặc váy, trẻ trai thì chơi đá banh...
Gia đình cần giáo dục trẻ có những hành vi phù hợp với giới tính như :
Trẻ gái phải dịu dàng, dun dáng, ăn nói phải ngoan ngỗn, lịch sự.... Trẻ
trai thì phải quyết đốn, dám nghĩ, dám làm, biết vảo vệ, che chở cho các bé
gái...
Gia đình cần nhắc nhở, sửa chữa, uốn nắn những hành vi không phù
hợp với giới tính của trẻ. Ví dụ: Trẻ trai địi mặc quần áo của trẻ gái. Trẻ gái
đòi đá banh giống trẻ trai.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Gia đình cần khích lệ, khen ngợi những hành vi phù hợp với giới tính ở
trẻ để trẻ sớm nhận biết được hành vi tốt xấu để trẻ tự biết điều chỉnh hành vi
của mình phù hợp với giới tính.
1.6.6. Giáo dục thẩm mĩ trong gia đình
Trẻ 3 - 6 tuổi đã hình thành tình cảm thẩm mĩ. Trẻ đã biết rung động
trước những cái đẹp. Vì vậy gia đình cần giáo dục trẻ có cách cảm thụ cái đẹp
và thích cái đẹp, bảo vệ cái đẹp, mong muốn tạo ra cái đẹp ở xung quanh. Gia
đình nên cho trẻ tham gia cơng việc cắm hoa, trang trí nhà cửa. Gia đình cũng
cần cho trẻ tiếp xúc với những lời nói đẹp, những hành vi đẹp. Gia đình cũng
có thể sử dụng câu chuyện kể để cho trẻ nhận xét cái đẹp, cái xấu để bồi

dưỡng xúc cảm thẩm mĩ cho trẻ. Từ đó sẽ hình thành ở trẻ ý thức bảo vệ cái
đẹp, mong muốn tạo ra cái đẹp ở xung quanh.
1.6.7. Giáo dục đạo đức
Cần giáo dục trẻ phân biệt thiện - ác, tốt - xấu, ngoan - hư.
Gia đình cần hình thành cho trẻ tình u thương, đây chính là cơ sở để
hình thành nền tảng đạo đức cho trẻ. Gia đình cần dạy trẻ biết làm những việc
thiện, biết giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn. Gia đình cần giáo dục trẻ có
tinh thần trách nhiệm và mong muốn được giúp đỡ mọi người trên tinh thần
công bằng và hợp tác.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
VỀ NỘI DUNG GIÁO DỤC TRẺ MẪU GIÁO TRONG GIA ĐÌNH
KHU VỰC VĨNH YÊN - VĨNH PHÚC
2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu
Trong 10 tuần thực tập tại trường mầm non Hoa Sen - Vĩnh n - Vĩnh
Phúc, tơi đã có dịp được tiếp xúc và trò chuyện với các giáo viên mầm non ở
khu vực này. Qua tìm hiểu tơi được biết hầu hết những giáo viên ở đây đều
đạt trình độ chuẩn (tốt nghiệp trung cấp sư phạm) và trên chuẩn (tốt nghiệp
cao đẳng, đại học), có kinh nghiệm giảng dạy từ 3 - 10 năm nên tơi có những
điều kiện thuận lợi khi tiến hành điều tra. Tuy nhiên do trình độ khơng đồng

đều nên nhận thức của các giáo viên cũng có nhiều ý kiến khác nhau về nội
dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình. Đa số các giáo viên đều quan tâm
tới việc chăm sóc, giáo dục trẻ nhưng trẻ được chăm sóc, giáo dục trong gia
đình như thế nào thì khơng phải bất cứ giáo viên nào cũng nhận thức được.
Các giáo viên này đều nhận thức được rằng cần phải dạy trẻ những gì và dạy
trẻ như thế nào. Nhưng khơng ít các giáo viên do mệt mỏi, do cơng việc ở gia
đình hoặc do nhận thức chưa đúng nên đôi khi họ chưa thực sự quan tâm đến
việc giáo dục trẻ, chưa nhận ra được sự thay đổi tâm sinh lí của trẻ để điều
chỉnh, sửa chữa cho phù hợp. Vì vậy họ khơng thể trao đồi với phụ huynh về
tình hình của trẻ ở trên lớp, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc giáo dục
trẻ có sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường, dẫn đến việc giáo dục trẻ bị sai
lệch.
Tất cả những vấn đề trên ảnh hưởng không nhỏ tới viêc giáo dục trẻ
mẫu giáo trong gia đình. Để tìm hiểu rõ hơn về nhận thức của các giáo viên
mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình, tơi đã tiến hành
điều tra, trưng cầu ý kiến của họ và thu được những kết quả nhất định.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2.2. Thực trạng nhận thức của các giáo viên mầm non khu vực Vĩnh Yên
- Vĩnh Phúc về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình
Để tìm hiểu thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung
giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình, tơi đã đưa ra hệ thống câu hỏi trong

phiếu trưng cầu ý kiến để giáo viên lựa chọn bày tỏ, thể hiện quan điểm của
mình, đồng thời trị chuyện, giúp họ tiếp cận với những tài liệu giáo dục để họ
có được những nội dung, phương pháp giáo dục đúng đắn.
Tôi đã tiến hành phát phiếu trưng cầu ý kiến và điều tra đối với 40 giáo
viên, trong đó có:
- 10 giáo viên dạy trẻ ở độ tuổi 3 - 4 tuổi.
- 10 giáo viên dạy trẻ ở độ tuổi 4 - 5 tuổi.
- 20 giáo viên dạy trẻ ở độ tuổi 5 - 6 tuổi.
Tổng số phiếu điều tra là 40 phiếu. Sau khi tiến hành điều tra nhằm tìm
hiểu nhận thức của các giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo
trong gia đình, kết quả thu được như sau:
2.2.1. Thực trạng nhận thức của các giáo viên mầm non về nội dung giáo
dục thể chất và giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo trong gia đình
Bảng 1: Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục thể
chất cho trẻ mẫu giáo trong gia đình
STT

Nội dung điều tra

Phương án lựa chọn

Số ý

Tỉ lệ (%)

kiến
Theo anh (chị)
việc phát triển các tố
1


27

67,5

Cần

13

32,5

Khơng cần

0

0

2

5

chất thể lực cho trẻ
có cần thiết khơng?
Theo anh (chị)

2

Rất cần

gia đình cần phải


Lục Thị Thư

Ăn nhiều thịt, cá,
trứng, sữa

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

hướng dẫn trẻ ăn Ăn nhiều cơm

0

0

như thế nào để đảm Ăn nhiều rau, hoa quả

0

0

38

95

6


15

các trị chơi vận Khơng cho trẻ chơi

1

2,5

động,

33

82,5

0

0

0

0

40

100

bảo sức khỏe?

Ăn đầy đủ cơm, thịt,
cá, trứng, sữa, hoa

quả

3

Khi trẻ chơi Cho trẻ tự chơi

anh

(chị) Hướng dẫn và khuyến

thường?
4

khích trẻ chơi

Theo anh (chị) Cho trẻ ăn đủ chất
cần giáo dục thể chất Cho trẻ luyện tập thể
cho trẻ như thế nào?

dục, thể thao
Cho trẻ ăn đủ chất kết
hợp với luyện tập thể
dục, thể thao

Với câu hỏi 1: Theo anh (chị) việc phát triển các tố chất thể lực cho
trẻ có cần thiết khơng?
Có 27 giáo viên tức 67,5% cho rằng việc phát triển các tố chất thể lực
cho trẻ là rất cần thiết. Điều này chứng tỏ các giáo viên đã có nhận thức rất
đúng đắn về nội dung giáo dục thể chất cho trẻ và thấy được tầm quan trọng
rất to lớn của giáo dục thể chất đối với trẻ mầm non. Họ coi rằng việc giáo

dục thể chất cho trẻ là rất cần thiết vì thể chất của trẻ phát triển bình thường
thì cơ thể trẻ mới phát triển tồn diện.
Có 13 giáo viên tức 32,5% cho rằng việc giáo dục thể chất cho trẻ là
cần thiết, có nghĩa rằng những giáo viên này cũng đã có nhận thức đúng đắn
về nội dung giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Với câu hỏi 2: Theo anh (chị), gia đình cần phải hướng dẫn trẻ ăn
như thế nào để đảm bảo sức khỏe?
Có 2 giáo viên tức 5% cho rằng cần cho trẻ ăn nhiều thịt, cá, trứng, sữa.
Tìm hiểu lí do chọn đáp án này tôi nhận được các ý kiến khác nhau. Có một
giáo viên cho rằng ăn nhiều thịt cá, trứng, sữa thì có nhiều chất đạm, chất dinh
dưỡng sẽ giúp cơ thể trẻ phát triển tốt. Còn một giáo viên khác thì cho rằng ăn
nhiều thịt cá, trứng, sữa cơ thể trẻ sẽ phát triển nhanh hơn, khỏe hơn. Và cũng
có một số trẻ khơng thích ăn rau mà chỉ thích ăn thịt, cá, trứng, sữa
Theo tơi, ý kiến của các giáo viên này cũng có phần đúng vì phụ thuộc
vào sở thích của trẻ, đơi khi người lớn khơng thể bắt trẻ ăn những món ăn mà
trẻ khơng thích hoặc trẻ bị dị ứng với món ăn đó. Ví dụ: Chị Lan - Giáo viên
chủ nhiệm lớp 4 tuổi A cho biết lớp chị có rất nhiều cháu khơng ăn được canh
cua, cứ ăn vào là các cháu lại nơn ra hết. Vì vậy, khơng thể bắt ép các cháu ăn
theo yêu cầu của người lớn được, tuy nhiên để giúp trẻ phát triển tốt thì cần
cho trẻ ăn đầy đủ các chất. Với suy nghĩ này, tôi cũng đã trao đổi với một số

giáo viên khác và kết quả là: Có 38 giáo viên tức 95% cho rằng cần phải cho
trẻ ăn đầy đủ cơm, thịt, cá, trứng, sữa, hoa quả. Điều này chứng tỏ các giáo
viên đã nhận thức đúng đắn về nội dung giáo dục thể chất cho trẻ. Trẻ nhỏ
muốn phát triển tốt thì cần ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng: Protit, lipit, gluxit,
vitamin và muối khoáng… cho trẻ. Như ý kiến đã nêu trên, nếu trẻ không thể
ăn một số thức ăn mà trẻ bị dị ứng thì có thể bổ sung cho trẻ ăn một số loại
thức ăn khác cũng có chất dinh dưỡng tương tự như cá, tơm…. Có như vậy thì
mới đảm bảo cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, mới đảm bảo trẻ phát
triển khoẻ mạnh.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Với câu hỏi 3: Khi trẻ chơi các trò chơi vận động, anh (chị)
thường?
Có 6 giáo viên tức là 15% cho rằng họ cho trẻ tự chơi, để cho trẻ tự
khám phá ra cách chơi trị chơi đó, có tự mình tìm hiểu thì trẻ mới nhớ lâu.
Họ cho rằng với cách chơi như vậy thì trẻ sẽ tự khám phá được năng lực của
chính bản thân trẻ, trẻ sẽ phát huy được sự sáng tạo trong khi chơi, phát huy
tính tích cực, tự giác của trẻ. Điều này cũng có lí nhưng họ lại khơng nghĩ
rằng nếu trẻ chơi một mình mà khơng có sự hướng đẫn của người lớn thì dễ
mắc sai lầm, dễ có những tai nạn trong khi chơi hoặc chơi không đúng cách,
trẻ sẽ mau chán và dễ bỏ cuộc trong khi chơi.
Có 1 giáo viên tức 2,5% giáo viên cho rằng khơng cho trẻ chơi. Họ nói

rằng khi trẻ leo trèo, chạy nhảy thì trẻ sẽ bị mệt, bị ngã đau. Ý kiến này cũng
có phần đúng, tuy nhiên họ lại không nghĩ rằng sau mỗi lần vấp ngã ấy thì trẻ
sẽ rút kinh nghiệm cho những lần chơi sau.
Còn lại 33 giáo viên tức 82,5% giáo viên cho rằng nên hướng dẫn và
khuyến khích trẻ chơi. Đây là những giáo viên có nhận thức tốt về nội dung
giáo dục thể chất cho trẻ. Trẻ nhỏ cần phải chơi nhưng khơng phải bất cứ trị
chơi nào trẻ cũng biết chơi, cần có sự hướng dẫn của cha mẹ và người lớn.
Đặc biệt là các trò chơi vận động, nếu khơng có sự hướng dẫn của người lớn
thì sẽ dễ xảy ra tai nạn. Hơn thế nữa, người lớn cần động viên, khuyến khích
trẻ chơi để trẻ hứng thú tham gia trị chơi bởi trẻ nhỏ rất thích người lớn khen
ngợi, động viên. Các giáo viên này cho rằng trong gia đình thì người lớn đóng
một vai trị rất quan trọng đối với trẻ, chính những người lớn sẽ là nguồn động
lực kích thích trẻ chơi vì khi được khen ngợi thì trẻ càng hứng thú tham gia
vào trị chơi, chơi một cách tích cực và say mê. Họ cũng cho biết rằng khi ở
lớp, họ cũng thường xuyên hướng dẫn và khuyến khích trẻ chơi nhằm mục
đích phát huy tối đa năng lực vốn có của trẻ.

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Với câu hỏi 4: Theo anh (chị) cần giáo dục thể chất cho trẻ như thế
nào?
Có 40 giáo viên tức 100% cho rằng gia đình cần phải cho trẻ ăn uống
đầy đủ, hợp lí, cho trẻ tập thể dục, vận động và cho trẻ chơi các trò chơi. Điều

này chứng tỏ các giáo viên đã có nhận thức rất đúng đẵn về nội dung giáo dục
thể chất cho trẻ mầm non. Trẻ nhỏ muốn phát triển tốt thì cần có sự kết hợp
giữa chế độ dinh dưỡng và luyện tập thể lực. Qua các hoạt động ấy sẽ giúp trẻ
khỏe mạnh và nhanh nhẹn, hấp thu tốt các chất dinh dưỡng vào cơ thể, ngồi
ra cịn giúp trẻ phát triển tốt về mặt thể lực.Với ý kiến này, qua tìm hiểu tơi
cũng biết rằng các giáo viên này cũng rất chú trọngđến việc giáo dục thể chất
cho trẻ. Họ nói rằng họ thường xuyên trao đổi với phụ huynh học sinh về cách
chăm sóc trẻ để trẻ phát triển tốt về mặt thể lực. Đồng thời ở trường thì các
giáo viên cũng chú ý tới cơng tác chăm sóc và giáo dục trẻ. Cho trẻ ăn đầy đủ
chất dinh dưỡng theo thực đơn, đồng thời còn cho trẻ tham gia vào các hoạt
động thể lực như thể dục sáng, hoạt động ngoài giờ... Từ đó hình thành cho
trẻ ý thức tự giác, tích cực khi tham gia hoạt động.
Bảng 2: Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo thẩm
mĩ cho trẻ mẫu giáo trong gia đình
STT

Nội dung điều tra

Phương án lựa chọn

Số ý

Tỉ lệ (%)

kiến
1

Theo anh (chị) việc
phát


triển

khiếu

Rất cần

36

90

Cần

3

7,5

Không cần

1

2,5

17

42,5

thẩm mĩ cho trẻ có
cần thiết khơng?
2


Theo anh (chị), nên

Cho trẻ xem biểu

cho trẻ tham gia vào

diễn nghệ thuật hay

hoạt động nào để

triển lãm nghệ thuật

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp
phát

triển

Trường ĐHSP Hà Nội 2
khiếu

thẩm mĩ cho trẻ?

tại địa phương hay ở
trên tivi
Cho trẻ tham gia hoạt

động vẽ tranh hay hát

13

32,5

10

25

0

0

múa, kể chuyện
Đưa trẻ đi tham quan
tại các danh lam thắng
cảnh tại địa phương
3

Theo anh (chị),

Theo ý thích của trẻ

khi đến trường gia

Theo ý thích của bố

đình cần cho trẻ


mẹ

3

7,5

Theo thời tiết

37

92,5



21

52,5

Khơng

5

12,5

Thỉnh thoảng

14

35


mặc quần áo như
thế nào?
4

Anh

(chị)



thường xuyên cho
trẻ tham gia vào
hoạt động trang trí
lớp học và khuyến
khích trẻ tham gia
hoạt động trang trí
nhà cửa cùng bố mẹ
không?

Đối với nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ, nhận thức của giáo viên
mầm non về nội dung này như thế nào. Để biết được điều đó tơi đã tiến hành
điều tra với 4 câu hỏi và kết quả như sau:

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Với câu hỏi 1: Theo anh (chị) việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ có cần
thiết khơng?
Với câu hỏi này thì hầu hết các giáo viên đều cho rằng việc giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ là cần thiết. Họ hiểu rằng gia đình cần dạy trẻ biết thế nào là
đẹp, thế nào là xấu, giáo dục trẻ biết cách cảm thụ cái đẹp, thích cái đẹp. Từ
đó hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp ở
xung quanh. Việc giáo dục thẩm mĩ không chỉ dừng lại ở việc giúp trẻ cảm
thụ cái đẹp mà giáo dục thẩm mĩ cịn hình thành ở trẻ một tâm hồn trong sáng,
biết yêu thương, biết cảm nhận cái đẹp ở xung quanh mình, biết yêu thương
những người xung quanh. Đó là nền tảng vững chắc để hình thành những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho trẻ.
Chỉ có một giáo viên cho rằng việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ là khơng
cần thiết. Tìm hiểu lí do thì giáo viên này cho rằng không cần phải giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ mà để trẻ tự nhận thức cái đẹp, cái xấu ở xung quanh. Ví dụ
như khi kể câu chuyện cho trẻ nghe thì trẻ sẽ tự nhận thức được trong câu
chuyện có những nhân vật nào, và những nhân vật đó như thế nào? xấu hay
tốt... Nhưng với ý kiến này thì giáo viên này khơng biết rằng trẻ cịn q nhỏ
để tự mình cảm thụ cái đẹp một cách chính xác, dễ dẫn đến những sai lệch
trong nhận thức, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển khiếu thẩm mĩ cho
trẻ cũng như ảnh hưởng đến quá trình phát triển tâm lí của trẻ.
Với câu hỏi 2: Theo anh (chị), nên cho trẻ tham gia vào hoạt động
nào để phát triển khiếu thẩm mĩ cho trẻ?
Việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ là rất cần thiết, nhưng để giáo dục thẩm
mĩ cho trẻ như thế nào để đat được hiệu quả thì đó là một vấn đề khơng nhỏ.
Với vấn đề này các giáo viên đã có nhận thức như thế nào? Tôi đã đưa ra câu
hỏi điều tra với các giáo viên và kết quả thu được như sau:

Lục Thị Thư


Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Có 17 giáo viên tức 42,5% cho rằng nên cho trẻ xem biểu diễn nghệ
thuật hay triển lãm nghệ thuật tại địa phương hay ở trên tivi. Họ cho rằng cho
trẻ di xem triển lãm nghệ thuật giúp trẻ mở mang tầm mắt, góp phần giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ. Hơn nữa, việc xem triển lãm nghệ thuật sẽ giúp trẻ trực tiếp
tiếp xúc với cái đẹp, trẻ sẽ tự phát hiện ra những cái đẹp từ những tác phẩm
nghệ thuật như triển lãm tranh vẽ, triển lãm ảnh. Nhưng các giáo viên cũng
cho biết rằng việc cho trẻ đi xem triển lãm nghệ thuật cũng rất khó khăn bởi
triển lãm nghệ thuật thường tổ chức ở các trung tâm thành phố lớn, muốn cho
trẻ đi xem thì cũng rất khó.
Vói biểu diễn nghệ thuật ở địa phương hay ở trên ti vi thì họ cho rằng
cho trẻ đi xem biểu diễn nghệ thuật giúp trẻ mở mang tầm mắt, trẻ xem được
những điệu múa đẹp hay bản nhạc hay sẽ giúp trẻ cảm thấy vui vẻ, từ đó giúp
trẻ cảm nhận được cái đẹp. Họ cũng cho biết rằng tại khu vực này thì thường
xun có các buổi biểu diễn nghệ thuật như xiếc và ca múa nhạc, điều này tạo
điều kiện thuận lợi để trẻ trực tiếp nhìn và cảm nhận cái đẹp. Các buổi biểu
diễn nghệ thuật trên ti vi thì rất thuận lợi vì hầu hết gia đình nào cũng đều có
ti vi, khơng những thế các gia đình cũng nên chú trọng đến việc giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ như cho trẻ xem băng đĩa nhạc thiếu nhi, nhưng cũng cần lưu
ý là cho trẻ xem có giờ giấc. Tất cả những việc làm này sẽ hình thành ở trẻ
những cảm xúc tốt đẹp trong tâm hồn, từ đó góp phần giáo dục thẩm mĩ cho
trẻ.
Có 13 giáo viên tức 32,5% cho rằng nên cho trẻ tham gia hoạt động thi

vẽ tranh hay hát múa, kể chuyện. Những cuộc thi này phần lớn diễn ra ở
trường mầm non, họ cho rằng việc tham gia các cuộc thi này sẽ giúp trẻ rèn
luyện được nhiều phẩm chất, sẽ thể hiện được nhiều tài năng của trẻ. Trước
hết sẽ rèn luyện ở trẻ sự tự tin khi đứng trước đám đơng, giúp trẻ biết đồn kết
với bạ bè khi cùng biểu diễn. Trong các cuộc thi này sẽ có sự tham gia của

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

các bạn cùng trang lứa với trẻ sẽ kích thích trẻ hứng thú tham gia, đồng thời
cũng giúp trẻ học được rất nhiều điều từ các bạn khác, trẻ sẽ cảm nhận được
cái hay, cái đẹp từ cuộc thi. Từ đó góp phầm giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.
Có 10 giáo viên tức 25% cho rằng nên đưa trẻ đi tham quan tại các
danh lam thắng cảnh của địa phương. Họ cho rằng cho trẻ đi tham quan sẽ
giúp trẻ có tâm hồn trong sáng, giúp yêu quê hương, đất nước, trẻ cảm nhận
được vẻ đẹp của quê hương, của đất nước mình. Hình thành ở trẻ niềm tự hào,
lịng vui sướng khi sống tại q hương của mình.Từ đó góp phần phát triển
thẩm mĩ cho trẻ mầm non.
Với câu hỏi 3: Theo anh (chị), khi đến trường gia đình cần cho trẻ
mặc quần áo như thế nào?
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ là một việc làm rất cần thiết vì trẻ cảm nhận
được cái đẹp thì mới hình thành ở trẻ những phẩm chất tốt đẹp. Giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ có thể bắt đầu từ những việc nhỏ trong cuộc sống hàng ngày,
hay đơn giản chỉ là việc lựa chọn quần áo cho phù hợp. Tôi đã đưa ra câu hỏi

nhằm tìm hiểu ý kiến của các giáo viên về nội dung này và đã thu được kết
quả như sau:
Với câu hỏi này có 3 giáo viên tức 7,5% cho rằng cho trẻ mặc quần áo
theo ý thích của bố mẹ trẻ. Họ cho rằng việc mặc quần áo theo ý thích của bố
mẹ trẻ sẽ phù hợp với sở thích của trẻ, tuy nhiên họ không biết rằng điều này
sẽ ảnh hưởng đến trẻ, trẻ sẽ khơng làm được gì nếu khơng có sự giúp đỡ của
bố mẹ, sẽ làm cho trẻ dễ bị thụ động, thiếu tính tự giác, tích cực.
Có 37 giáo viên tức 92,5% giáo viên cho rằng nên cho trẻ mặc quần áo
theo thời tiết, cần phải nhắc nhở trẻ mặc quần áo phù hợp với thời tiết. Việc
mặc quần áo phù hợp với thời tiết còn giúp trẻ nhận biết được cần mặc quần
áo như thế nào để phùa hợp mà lại khơng gây khó chịu cho cơ thể, hơn nữa sẽ

Lục Thị Thư

Lớp K34 GDMN


×