Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học nền tảng, chiếm vị trí quan trọng trong
hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng cơ sở
ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Trẻ em là
hạnh phúc của gia đình, là tương lai của cả dân tộc, việc bảo vệ chăm sóc giáo
dục trẻ là trách nhiệm của mọi người của toàn xã hội và của cả nhân loại.
Giáo dục mầm non thực hiện việc chăm sóc - giáo dục trẻ ngay từ những năm
tháng đầu đời, giúp trẻ phát triển toàn diện các mặt: đức, trí, thể, mĩ và lao
động. Việc chăm sóc - giáo dục trẻ em từ những năm đầu tiên của cuộc sống
là một việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trọng sự nghiệp
chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người chủ tương lai
của đất nước.
Trẻ mẫu giáo lớn đang ở những bước phát triển mạnh về nhận thức, tư
duy, về ngôn ngữ, và tình cảm. Trong khi đó thế giới khách quan xung quanh
bao la, rộng lớn, có biết bao điều mới lạ, hấp dẫn khiến trẻ tò mò muốn biết,
muốn được khám phá. Vì vậy, hướng dẫn trẻ tìm hiểu, khám phá môi trường
xung quanh là việc làm hết sức cần thiết. Việc cho trẻ làm quen với môi
trường xung quanh mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng,
sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ. Trẻ làm quen với môi trường xung quanh
sẽ cung cấp cho trẻ vốn hiểu biết về những gì xung quanh mình, từ môi
trường tự nhiên như: cỏ cây, hoa lá, chim muông... đến môi trường xã hội:
công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ con người với nhau… Và
trẻ hiểu biết về chính bản thân mình. Khi cho trẻ tham gia các hoạt động
khám phá khoa học về môi trường xung quanh trẻ rất hào hứng, sôi nổi. Vậy
làm thế nào để trẻ có thể phát huy được sự say mê, hứng thú đó? Để làm được
1
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
điều đó, giáo viên cần sử dụng các phương pháp, biện pháp và hình thức dạy
học hợp lí để phát huy tính tích cực của trẻ, đặc biệt là những phương pháp
dạy học mới có thể giúp trẻ chủ động, tích cực, sáng tạo trong quá trình học
tập.
Ở giai đoạn này, trẻ thường dễ ghi nhớ nhưng cũng nhanh quên. Muốn
trẻ dễ ghi nhớ và ghi nhớ được lâu thì khi khám phá trẻ phải được tự làm,
được tự mình khám phá ra kiến thức mới. Phương pháp dạy học khám phá là
phương pháp dạy học mà giáo viên tổ chức cho trẻ tìm tòi, phát hiện, khám
phá ra tri thức mới, cách thức hành động mới nhằm phát huy năng lực giải
quyết vấn đề và tự học cho trẻ. Trong đó, người học đóng vai trò là người
phát hiện còn người dạy đóng vai trò là chuyên gia tổ chức. Dạy học khám
phá tạo điều kiện cho các trẻ được trao đổi, hợp tác thảo luận với nhau cùng
bàn bạc tìm ra tri thức mới, phát huy cao độ vai trò chủ thể tích cực, sáng tạo
của mình, giúp các trẻ không những khám phá ra tri thức mới, cách thức hoạt
động mới mà còn rèn luyện tính cách cho các trẻ. Phương pháp dạy học khám
phá là phương pháp dạy học phù hợp với trẻ mầm non, giáo viên có thể sử
dụng phương pháp này để giúp trẻ chiếm lĩnh các tri thức về môi trường xung
quanh. Qua khám phá, trẻ sẽ chủ động chiếm lĩnh tri thức mới, tri thức mà trẻ
tìm ra sẽ giảm phần chủ quan, tăng thêm tính khách quan khoa học và rèn cho
trẻ những nét phẩm chất tự tin, biết lắng nghe tôn trọng ý kiến của người
khác, biết phối hợp hành động, giúp đỡ bảo vệ nhau, trẻ sẽ có niềm tin vào
nguồn tri thức mà mình có được. Thực tế ở một số trường mầm non cho thấy,
đa số các giáo viên sử dụng phương pháp dạy học khám phá còn theo lối thụ
động. Cô chưa phải là người tổ chức, định hướng cho hoạt động, trẻ chưa thực
sự là chủ thể của hoạt động học tập để tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thức tổ
chức đơn điệu, không chú ý lắm đến đặc điểm và khả năng phát triển của từng
cá nhân, chưa tận dụng kinh nghiệm đã có của trẻ trong bài dạy.
2
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Là giáo viên mầm non trong tương lai tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để
trẻ được tự khám phá, tìm kiếm, phát hiện tri thức mới, tự tìm ra kết quả và
hiểu rõ hơn bản chất của các sự vật hiện tượng của trẻ khi cho trẻ làm quen
với môi trường xung quanh một cách chủ động và sáng tạo.
Chính vì lí do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Vận dụng phương
pháp dạy học khám phá hướng dẫn trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu môi trường
xung quanh".
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất quy trình vận dụng phương pháp dạy học khám phá để hướng
dẫn trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu môi trường xung quanh nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp dạy học
khám phá hướng dẫn trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu môi trường xung quanh.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học liên quan đến việc vận dụng phương
pháp dạy học khám phá hướng dẫn trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu môi trường xung
quanh ở một số trường mầm non.
- Đề xuất quy trình sử dụng phương pháp dạy học khám phá hướng dẫn
trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu môi trường xung quanh.
- Thực nghiệm sư phạm vận dụng phương pháp dạy học khám phá
hướng dẫn trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu môi trường xung quanh và bước đầu
đánh giá kết quả thực nghiệm.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng phương pháp dạy học khám phá
hướng dẫn trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu môi trường xung quanh.
- Phạm vi nghiên cứu: Hướng dẫn trẻn mẫu giáo lớn tìm hiểu môi
trường xung quanh.
3
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất quy trình sử dụng phương pháp dạy học khám phá phù hợp
thì sẽ nâng cao được hiệu quả việc hướng dẫn trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu
MTXQ.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học.
7. Cấu trúc đề tài
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lí luận
1.2. Cơ sở thực tiễn
Chương 2: Vận dụng phương pháp dạy học khám phá hướng dẫn trẻ 56 tuổi tìm hiểu MTXQ
2.1. Các nguyên tắc vận dụng phương pháp dạy học khám phá hướng
dẫn trẻ 5-6 tuổi tìm hiểu MTXQ
2.2. Quy trình sử dụng phương pháp dạy học khám phá để hướng dẫn
trẻ 5-6 tuổi tìm hiểu MTXQ
2.3. Thiết kế một số bài dạy vận dụng phương pháp khám phá để hướng
dẫn trẻ 5-6 tuổi tìm hiểu MTXQ
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Kết luận
Tài liệu tham khảo
4
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số đặc điểm của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
1.1.1.1. Đặc điểm tâm lý
Đến cuối tuổi mẫu giáo sự tự ý thức của trẻ cao, trẻ hiểu được mình là
người như thế nào có những phẩm chất gì, những người xung quanh mình đối
xử với mình như thế nào và tại sao mình lại có những hành động này hay
hành động khác… Sự tự ý thức được thể hiện rõ nhất trong sự thành công hay
thất bại của mình, về những ưu điểm hay khuyết điểm của bản thân, về khả
năng của bản thân.
Để đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên đứa trẻ học cách
đánh giá người khác và nghe những người xung quanh đánh giá về mình như
thế nào. Ban đầu những đánh giá của trẻ còn phụ thuộc vào cảm tình với họ.
Đến cuối tuổi mẫu giáo lớn, trẻ nắm được những kỹ năng so sánh mình
với người khác.
Ở tuổi mẫu giáo lớn sự tự ý thức còn được thể hiện ở sự phát triển giới
tính của trẻ. Trẻ biết được mình là trai hay gái và điều khiển hành vi của mình
phù hợp với giới tính. Những tấm gương của người lớn tác động mạnh đến
đứa trẻ.
Sự tự ý thức xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với quy tắc xã hội, từ đó hành vi của trẻ mang tính xã
hội, tính nhân cách đậm hơn trước.
Tới lứa tuổi mẫu giáo lớn, sự tập trung chú ý bền vững hơn: thời gian
chơi, tiết học được kéo dài hơn.
5
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Ghi nhớ của trẻ có tính chủ định nhiều hơn do sử dụng một số phương
thức như nhắc lại hay liên hệ lại các sự kiện với nhau do người lớn gợi ý cho.
Tuy nhiên cuối tuổi mẫu giáo lớn quá trình tâm lý không chủ định vẫn chiếm
ưu thế trong hoạt động tâm lý của trẻ, ngay cả trong hoạt động trí tuệ.
Ở độ tuổi này việc đặt ra các mục đích hành động và lập kế hoạch để
thực hiện hành động được thể hiện rất rõ. Ở tuổi này bên cạnh trò chơi đóng
vai theo chủ đề còn xuất hiện khá nhiều trò chơi có luật, hành động tâm lý bên
trong được biến đổi rõ rệt, từ quá trình tâm lý không chủ định chuyển sang
quá trình tâm lý chủ định như: tri giác có chủ định, chú ý có chủ định, ghi nhớ
có chủ định…
Sự xuất hiện của tự ý thức và tính chủ định trong tâm lý của trẻ mẫu
giáo lớn là điều quan trọng vì vậy trong sinh hoạt hàng ngày cần rèn luyện
cho trẻ thói quen vệ sinh cá nhân, những hành vi văn hóa, vệ sinh nơi công
cộng và một số thói quen giữ gìn sức khỏe. Bên cạnh đó tính chủ định trong
hoạt động tâm lý của trẻ phát triển, người lớn cần đặt ra cho trẻ mục đích,
nhiệm vụ, quan sát, ghi nhớ và hoàn thành công việc do người lớn yêu cầu,
khuyến khích trẻ độc lập, tích cực trong công việc.
Ngoài ra giai đoạn này trẻ có thể sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ:
+ Về ngữ âm: Do sự tiếp xúc với ngôn ngữ được mở rộng trong những
năm trước, tai âm vị được rèn luyện thường xuyên để tiếp nhận các ngữ âm
khi người lớn nói, mặt khác cơ quan phát âm đã trưởng thành tới mức trẻ phát
âm tương đối chuẩn, kể cả những âm khó.
+ Về ngữ điệu: Trẻ biết sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội
dung giao tiếp hay nội dung câu chuyện mà trẻ kể. Trẻ thường nói những lời
nói nhẹ nhàng cùng những cử chỉ âu yếm, vỗ về…để thể hiện tình cảm yêu
thương trìu mến và ngược lại.
+ Về vốn ngữ pháp và vốn từ: Vốn từ của trẻ tăng bình quân từ 1.033
từ, đây là giai đoạn hoàn thiện một bước cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ. Tỉ
6
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
lệ danh từ, động từ giảm đi nhường chỗ cho tính từ và từ lại khác. Số lượng
câu đơn mở rộng chiếm tới 80%, ngoài ra kiểu câu ghép cũng tăng lên.
Ở độ tuổi này trẻ sử dụng ngôn ngữ mạch lạc, xuất hiện ngôn ngữ giải
thích. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ giai đoạn này rất quan trọng để chuẩn
bị cho trẻ vào lớp 1. Muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ hiệu quả cần có sự kết
hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó trường mầm non
giữ vai trò quan trọng. Trước hết cần cung cấp vốn từ cho trẻ, giúp trẻ hiểu
được ý nghĩa của từ khuyến khích trẻ hoạt động lời nói một cách tích cực.
Giáo viên cần tạo điều kiện để trẻ diễn đạt rõ ràng, mạch lạc ý kiến, nguyện
vọng của mình đồng thời cần uốn nắn kịp thời ngôn ngữ mạch lạc của trẻ.
1.1.1.2. Đặc điểm thể chất
Ở giai đoạn này, xương của trẻ đã dần cứng cáp hơn khi trẻ lên 3 tuổi,
song do quá trình canxi hóa chưa hoàn chỉnh nên xương của trẻ 5 tuổi có tính
đàn hồi và tương đối mềm. Đáng nói hơn là có sự phát triển của cơ bắp.
Nhờ có sự phát triển của hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ tuần hoàn và hệ
xương, trẻ có thể thực hiện thành thạo các động tác đòi hỏi sự phối hợp của
các bộ phận trên cơ thể như: múa hát kết hợp, thể dục nhịp điệu…
Thời kì này, những động tác của trẻ trở nên chính xác hơn: bé trai hiếu
động còn bé gái biết làm duyên và khá điệu đà. Đồng thời bé có thể làm vệ
sinh cá nhân thành thạo hơn.
Đôi tay của trẻ trở nên linh hoạt hơn. Trẻ có thể thực hiện động tác
hoàn chỉnh và tinh tế.
Như vậy, đây là thời kì cơ thể của trẻ phát triển mạnh mẽ. Để phát triển
thể chất cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện về hình dáng cũng như củng cố, phát triển
các chức năng quan trọng của cơ thể thì cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia
đình và nhà trường. Sự kết hợp này thông qua một số hoạt động như: thể dục
buổi sáng, dạo chơi, đi trên đường cao thấp…
7
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
1.1.1.3. Đặc điểm sinh lý
Hệ tuần hoàn: Tim của trẻ có tốc độ phát triển khá nhanh. Tim của trẻ
có trọng lượng nặng gấp 5 lần lúc mới sinh, tim trẻ đập nhanh hơn gấp 5 lần
lúc mới sinh nhưng đập chậm hơn so với các lứa tuổi trước nhưng vẫn còn
khá nhanh so với người lớn.
Thành phần máu của trẻ cũng tăng lên và biến đổi về chất, huyết sắc tố
80 - 90%, hồng cầu 4,5 - 5 triệu đơn vị, bạc cầu 7 - 10 nghìn, tiểu cầu 200 300 nghìn.
Hệ thần kinh: Sự hoạt động của trẻ giai đoạn này là phát triển nhanh rõ
nhất trong cả đời người. Song ở lứa tuổi này do khả năng hưng phấn và ức
chế của hệ thần kinh chưa ổn định nên nếu trẻ làm việc kéo dài sẽ bị mệt mỏi.
Hệ hô hấp: Hệ hô hấp của trẻ phát triển, tuy nhiên chưa đầy đủ như ở
người lớn. Vì vậy trẻ hít thở nhiều hơn để nhận đủ lượng oxy cần thiết.
Như vậy, ở thời kỳ này các cơ quan và hệ cơ quan của trẻ phát triển
mạnh nên người lớn cần cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng, rèn luyện cơ
thể trẻ giúp cho các cơ quan hệ cơ quan phát triển. Đây chính là điều kiện
giúp trẻ cảm nhận và khám phá môi trường xung quanh.
1.1.1.4. Đặc điểm phát triển trí tuệ
Tư duy trực quan sơ đồ tạo cho trẻ khả năng phản ánh những mối liên
hệ tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan
của bản thân trẻ.
Tư duy trực quan sơ đồ vẫn giữ tính chất hình tượng song bản thân hình
tượng cũng trở nên khác trước: hình tượng đã bị mất đi các chi tiết rườm rà
mà chỉ còn giữ lại các yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái quát
chứ không phải là từng sự vật riêng lẻ.
Trẻ mẫu giáo lớn có thể hiểu một cách dễ dàng nhanh chóng về cách
biểu diễn sơ đồ và sử dụng kết quả của sơ đồ đó để tìm hiểu sự vật.
8
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tư duy trực quan sơ đồ phát triển cao sẽ dẫn đứa trẻ đến ngưỡng của tư
duy trìu tượng. Độ tuổi mẫu giáo lớn còn xuất hiện kiểu tư duy logic điều này
giúp trẻ hiểu rằng có thể biểu thị một sự vật hay một hiện tượng nào đó bằng
từ ngữ hay kí hiệu khác khi giải những bài toán tư duy độc lập.
Cuối tuổi mẫu giáo trẻ lĩnh hội được các chuẩn về màu sắc, về âm
thanh. Nhờ đó trẻ em tách biệt được trong số các biến dạng muôn màu muôn
vẻ những dạng cơ bản của các thuộc tính được dùng làm chuẩn và bắt đầu so
sánh thuộc tính vô cùng đa dạng xung quanh với các chuẩn. Nhờ đó mà tư
duy của trẻ chuyển dần sang một giai đoạn cao hơn.
Ta thấy rằng tư duy hình tượng cần thiết cho mọi hoạt động sáng tạo.
Do vậy chúng ta cần phát triển tư duy hình tượng cho trẻ mẫu gíáo lớn thông
qua các trò chơi, qua các tiết học, trong sinh hoạt hàng ngày hay tham quan
giáo viên cần gợi mở, khuyến khích để trẻ quan sát, tập phân tích, so sánh,
khái quát…Tổ chức cho trẻ trực tiếp quan sát, tự mình phân tích, so sánh,
khái quát và đánh giá từ đó phát triển các thao tác của trí tuệ, các quá trình
của tư duy. Bên cạnh đó cần quan tâm tới tư duy trừu tượng của trẻ, chỉ cần
sử dụng để giới thiệu với trẻ một số khái niệm thật đơn giản cần thiết cho việc
làm quen với môi trường xung quanh. Cần tránh cho trẻ quá sớm đi vào tư
duy logic theo kiểu người lớn, khôn trước tuổi, điều đó sẽ làm mất tính ngây
thơ hồn nhiên và tính mềm dẻo của trí tuệ.
1.1.2. Một số vấn đề về phương pháp dạy học khám phá
1.1.2.1. Khái niệm
Dạy học như thế nào để giúp trẻ tự mình chiếm lĩnh tri thức một cách
chủ động mà không theo sự áp đặt của giáo viên? Câu hỏi này được đặt ra từ
lâu và làm trăn trở nhiều nhà giáo dục tiến bộ ngay từ thời cổ đại cho đến
ngày hôm nay. Họ luôn nhấn mạnh rằng, cần khuyến khích óc tò mò, hứng
9
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
thú của trẻ, cần yêu cầu trẻ quan sát, sờ mó, làm thí nghiệm, khảo sát…để
chúng “có thể khám phá những chân lí”.
Hiện nay, thuật ngữ liên quan đến dạy học khám phá chưa được sử
dụng thống nhất. Trong tiếng Anh có 2 cụm từ được các tác giả hiểu như sau:
“discovery learning” (dạy học phát hiện) và “learning by discovery” (dạy học
bằng phát hiện). Nhưng ở đây do sự phong phú của tiếng Việt cũng như mong
muốn thuật ngữ mà mình sử dụng lột tả được bản chất của phương pháp dạy
học mà mình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng thuật ngữ dạy học khám phá.
Trong một số tài liệu tiếng Việt, cũng có nhiều cách dùng từ ngữ khác
nhau như: “dạy học tự phát hiện” (Đỗ Đình Hoan), “phương pháp phát hiện
lại” (Nguyễn Kỳ), “phương pháp dạy học tìm tòi” (Lê Nguyên Long), “dạy
học phát hiện”, “dạy học tự phát hiện” (Nguyễn Tuyết Nga), “dạy học khám
phá” (GS.TS. Trần Bá Hoành). Tuy nhiên, các tác giả đều có chung một quan
điểm về bản chất của dạy học khám phá, cũng như nhấn mạnh việc trẻ tự
mình phát hiện ra tri thức mới thông qua điều tra, khảo sát, tìm tòi, làm thực
nghiệm dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của giáo viên.
Theo J.Richarred Sumann người xây dựng nên chương trình dạy học
khám phá từng nói: “Khám phá là cách mọi người học khi đơn độc”.
Với Dewey, khám phá là: “Sự tìm hiểu một cách chủ động, kiên trì và
kỹ lưỡng về một niềm tin hoặc một dạng kiến thức nào đó từ những nền tảng
hỗ trợ cho nó và những kết luận gần hơn với ý kiến đó”.
Thuật ngữ dạy học khám phá được xuất hiện và sử dụng với tư cách là
một phương pháp dạy học tích cực, năng động và sáng tạo.
Theo Ferriere JoromeBruner dạy học khám phá là “lối tiếp cận dạy học
mà qua đó học sinh tương tác với môi trường của họ bằng cách khảo sát, sử
dụng các đối tượng, giải đáp những thắc mắc bằng tranh luận hay biểu diễn
thí nghiệm”.
10
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tác giả Nguyễn Tuyết Nga cho rằng “dạy học khám phá là một trong
những phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm, là con đường nhằm tích
cực hóa hoạt động của trẻ. Thông qua phương pháp này, trẻ hoạt động tự lực,
tăng cường hành vi tìm tòi, phát hiện trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, hình
thành kĩ năng, kĩ xảo, làm cho người học thích ứng với cuộc sống, áp dụng
được kiến thức và kĩ năng học ở nhà trường vào cuộc sống”.
Tác giả Nguyễn Kì thì dùng “phương pháp phát hiện lại”. Theo ông,
đây chỉ là một trong những tên gọi khác của “mô hình” dạy học lấy người học
làm trung tâm, trong đó trò là “chủ thể”, trung tâm “tự mình tìm ra tri thức
bằng hoạt động của mình”. Ông nhấn mạnh, đây là “Phát hiện lại” ở tầm vóc
học trò và trình độ học trò, chứ không phải tự nghiên cứu lại khoa học hay tự
nghiên cứu theo phương pháp nhà khoa học.
Như vậy, dạy học khám phá đòi hỏi người giáo viên gia công nhiều để
chỉ đạo các hoạt động nhận thức của trẻ. Hoạt động của người giáo viên bao
gồm: định hướng phân tích cho trẻ, lựa chọn nội dung của vấn đề và đảm bảo
tính vừa sức với trẻ; tổ chức cho trẻ trao đổi theo nhóm trên lớp; các phương
tiện trực quan hỗ trợ cần thiết. Hoạt động chỉ đạo của giáo viên như thế nào
để cho mọi thành viên trong nhóm đều trao đổi, tranh luận tích cực, đó là việc
làm không dễ dàng, đòi hỏi người giáo viên đầu tư công phu vào nội dung bài
giảng. Trong dạy học khám phá, trẻ chủ động việc học tập của bản thân, hình
thành các câu hỏi đặt ra trong tư duy, mở rộng công việc nghiên cứu, tìm
kiếm; từ đó xây dựng lên những hiểu biết và tri thức mới. Những câu hỏi này
giúp người học trả lời các câu hỏi, tìm kiếm các giải pháp khác nhau để giải
quyết vấn đề, chứng minh một định lý hay một quan điểm. Theo ý kiến của
các tác giả về phương pháp dạy học khám phá ở trên được hiểu trên bình diện
rộng. Trong khóa luận này chúng tôi chỉ nghiên cứu về phương pháp dạy học
khám phá trên bình diện hẹp. Theo chúng tôi dạy học khám phá được hiểu
như sau:
11
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Dạy học khám phá là quá trình giáo viên tổ chức cho trẻ tìm tòi, phát hiện,
khám phá ra tri thức mới, cách thức hành động mới nhằm phát huy năng lực
giải quyết vấn đề và tự học cho trẻ. Qua đó, trẻ học kĩ năng và thái độ học tập
tích cực. Trong đó, người học đóng vai trò là người phát hiện còn người dạy
đóng vai trò là chuyên gia tổ chức.
1.1.2.2. Bản chất
Xét về bản chất, quá trình dạy học là một quá trình “nhận thức độc đáo
của học sinh”.
Vai trò của giáo viên trong dạy học khám phá.
+ Định hướng sự phát triển tư duy cho trẻ, lựa chọn nội dung của vấn
đề và đảm bảo tính vừa sức với trẻ.
+ Tổ chức cho trẻ trao đổi theo nhóm trên lớp.
+ Hướng dẫn trẻ sử dụng phương tiện trực quan hỗ trợ cần thiết và tạo
ra môi trường học tập để trẻ giải quyết vấn đề.
Trong dạy học khám phá, trẻ tiếp thu các tri thức khoa học thông qua
con đường nhận thức:
+ Từ tri thức của bản thân thông qua hoạt động hợp tác với bạn đã hình
thành tri thức có tính chất xã hội của cộng đồng lớp học.
+ Giáo viên nhận xét ý kiến của trẻ và chốt lại ý chính để trẻ làm cơ sở
tự kiểm tra, tự điều chỉnh tri thức của bản thân.
Hoạt động khám phá tri thức mới là quá trình nhận thức độc đáo của
người học, họ có khả năng tự điều chỉnh nhận thức góp phần tăng cường tính
mềm dẻo của tư duy và năng lực tự học. Đó chính là nhân tố quyết định sự
phát triển bản thân người học. Vậy bản chất của quá trình dạy học khám phá
là: sự tìm kiếm, khám phá tri thức khoa học và chuẩn mực xã hội.
12
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
1.1.2.3. Đặc điểm phương pháp dạy học khám phá
a. Vai trò của trẻ
Dạy học khám phá là một trong những hướng khai thác tư tưởng dạy
học lấy trẻ làm trung tâm, việc dạy học hướng vào hoạt động của người học,
dạy học khám phá là một trong những con đường nhằm tích cực hóa hoạt
động của trẻ.
Trong dạy học khám phá trẻ có điều kiện phát huy cao độ vai trò chủ
thể tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, qua đó các em không những tìm ra,
khám phá ra những tri thức mới, cách thức hoạt động mới mà còn rèn luyện
các nét tính cách cho trẻ.
Trong tiết học, trẻ học bằng hoạt động học tập của chính mình, các em
tự nhận thức rõ ràng tình huống có vấn đề thực tế nảy sinh và nhiệm vụ cần
giải quyết, từ đó các em nảy sinh nhu cầu hứng thú mong muốn được giải
quyết vấn đề, khám phá ra những điều tiềm ẩn mà mình chưa rõ, chưa biết.
Để làm được điều này trẻ đặt ra giả thuyết, tra cứu, mày mò, thử nghiệm các ý
tưởng, làm thực nghiệm, quan sát các hiện tượng xảy ra bằng tất cả các giác
quan; có thể ghi chép lại những gì xảy ra mà mình làm, mình quan sát được
và giải thích bằng các luận cứ khác nhau. Có thể nói, nhận thức của trẻ trong
dạy học khám phá có nhiều điểm chung với con đường phát minh của nhiều
nhà khoa học, tính sáng tạo, không theo khuôn mẫu cho sẵn, vận dụng kinh
nghiệm, trí tuệ cao độ…
Trong dạy học khám phá trẻ tự phát hiện tri thức, trẻ được tạo điều kiện
được trao đổi, hợp tác thảo luận với nhau để cùng nhau tìm ra chân lý. Nhờ đó
tri thức của trẻ tìm ra sẽ giảm phần chủ quan, tăng thêm tính khách quan khoa
học và rèn cho trẻ những nét phẩm chất tự tin, biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến
của người khác, biết phối hợp hành động, giúp đỡ bảo vệ nhau.
13
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Nhờ việc tự học, tự khám phá ra tri thức, trẻ không những tìm ra được
chân lý mà còn học được cách tìm ra chân lý đó - cách học, cách làm, cách
giải quyết vấn đề và tìm ra ý nghĩa của việc học.
Dạy học khám phá có mục đích là làm cho trẻ tăng cường, hoạt động
tự lực, tăng cường hành vi khám phá, phát hiện trong quá trình lĩnh hội tri
thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo; làm cho người học thích ứng với cuộc sống,
áp dụng kiến thức, kĩ năng đã học ở nhà trường vào cuộc sống.
Như vậy, qua dạy học khám phá, mỗi trẻ đã tự đánh thức tiềm năng, trí
tuệ của bản thân mà trước đó còn “ngủ”.
b. Vai trò của giáo viên
Trong dạy học khám phá, giáo viên là một chuyên gia về việc học của
trẻ, là người thiết kế “kịch bản” sư phạm. Trong đó, giáo viên nêu ra tình
huống học tập để trẻ giải quyết, phải dự kiến và lường trước hết được kinh
nghiệm và những khả năng giải quyết khác nhau của học sinh, những điều
kiện để các em tự đi đến đích, tự phát hiện tri thức mới.
Tiếp theo, giáo viên tạo điều kiện, tổ chức cho trẻ hợp tác với nhau,
động viên các trẻ. Trong trường hợp cần thiết, giáo viên can thiệp đúng lúc,
đúng chỗ và giúp đỡ các em. Khi trẻ báo cáo kết quả, tranh luận thì giáo viên
đóng vai trò là người trọng tài khoa học công bằng, có thể đưa ra các ý kiến
có sức thuyết phục.
Ngoài ra, giáo viên là người tổ chức cho trẻ tự đánh giá, rút ra kết luận
về bài học, về tri thức khoa học mới được phát hiện.
c. Về tri thức, kinh nghiệm cũ của trẻ
Trong dạy học khám phá, vai trò của tri thức cũ, kinh nghiệm của trẻ
đóng vai trò cơ sở, mà dựa vào đó các em có thể tìm kiếm, phát hiện tri thức
mới cao hơn. Trong nhiều trường hợp nhờ có tri thức cũ, kinh nghiệm của bản
thân mà trẻ lý giải được các hiện tượng liên quan đến tri thức mới.
14
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tác giả Jonh Foster coi kinh nghiệm là một trong những yếu tố thiết
yếu của dạy học khám phá.
Dạy học khám phá ngày càng mở rộng vốn tri thức - kinh nghiệm đã có
ở trẻ. Theo Jonh Foster, đa số các trường hợp, cơ sở hoạt động của trẻ là sự tò
mò, hiếu kỳ và khao khát tìm ra cái mới. Khi tìm ra được cái mới thì cái mới
này lại có khả năng mở rộng và sửa chữa những ý niệm đã có trước đó. Trẻ sẽ
tiếp nhận thông tin và sử dụng nó để xếp lại “nguồn vốn” của mình và làm rõ
cái trẻ đã biết, thử thách kiểm nghiệm tính chính xác và tính hiệu lực của kinh
nghiệm đã tích lũy được.
Như vậy, tri thức cũ và tri thức mới, kinh nghiệm cũ và kinh nghiệm
mới luôn bổ sung, hỗ trợ, “thử thách” lẫn nhau để cuối cùng tri thức, kinh
nghiệm của trẻ ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn.
d. Về tính quy nạp
Trong dạy học khám phá, trẻ học các khái niệm, quy tắc thông qua
những trường hợp đặc biệt mà nó cho phép khái quát từ những ví dụ đặc biệt,
cùng một loại và phân biệt cái đặc thù với cái không đặc thù.
Theo quy tắc này, trẻ có thể mắc sai lầm dẫn đến quy nạp sai, điều này
phụ thuộc vào tính chất của môn học, tri thức, kinh nghiệm cũ của học sinh.
e. Phép “thử và sai” hay học tập qua sai lầm
Robert Glasser đã đưa ra trong quá trình phát hiện ra cái mới, học sinh
rất dễ mắc sai lầm.
Tác giả Roger Mucchielli cũng khẳng định: “Sai lầm trong tình huống
cá nhân phải phát kiến là bổ ích cho việc học tập vì nó giúp học sinh thấy rằng
có một số biến cố khác nào đó liên quan đang ở trong trạng thái chưa được
phân tích đầy đủ và ngoài ra, sai lầm còn giảm bớt một trong số những con
đường và như vậy là hướng tới việc tìm kiếm một con đường khác”.
Như vậy, sai lầm đã tham gia vào sự thích nghi động thái, trong quá
trình thích nghi đó, câu trả lời đúng sẽ được tìm ra bởi sự tò mò.
15
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
1.1.2.4. Quy trình dạy học khám phá
Tác giả Nguyễn Kì đưa ra quy trình bao gồm hệ thống các thao tác tự
học của trẻ dưới tác động của giáo viên, được thực hiện theo trình tự ba thời
nhằm đạt được mục tiêu giáo dục.
Thời 1: Nghiên cứu cá nhân
Trẻ đặt mình vào vị trí của người nghiên cứu, tự tiến hành khám phá ra
tri thức mới hoặc các giải pháp một cách tự lực theo trình tự, thao tác sau:
- Nhận biết vấn đề, phát hiện vấn đề.
- Định hướng giải quyết vấn đề.
- Thu thập thông tin.
- Xử lí thông tin.
- Tái hiện kiến thức, xây dựng các giải pháp giải quyết.
- Thử nghiệm các giải pháp, kết quả.
- Đưa ra kết luận.
- Ghi lại kết quả và cách nghiên cứu.
Thời 2: Hợp tác với bạn, học bạn
Sản phẩm ban đầu của trẻ tìm ra dễ mang tính chủ quan, phiến diện nên
cần được đánh giá, phân tích, thảo luận nhóm - lớp, hoạt động tập thể. Từng
cá nhân trẻ tự thể hiện mình theo trình tự thao tác sau:
- Tự đặt mình vào tình huống để đưa ra cách xử lí tình huống, giải
quyết vấn đề.
- Tự thể hiện mình bằng văn bản, ghi lại kết quả xử lí của mình.
- Tự trình bày, giới thiệu, bảo vệ sản phẩm của mình.
- Tỏ rõ thái độ của mình trước chủ kiến của bạn.
- Tự ghi lại ý kiến của các bạn.
- Khai thác những gì đã hợp tác điều chỉnh sản phẩm ban đầu của mình
thành một sản phẩm tiến bộ hơn.
16
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Thời 3: Hợp tác với giáo viên, tự kiểm tra, tự điều chỉnh.
Trong lúc học giáo viên, trẻ cũng cần giữ vai trò chủ thể tích cực, chủ
động học tập theo trình tự sau:
- Tự xử lí tình huống, giải quyết vấn đề theo sự hướng dẫn của
giáo viên.
- Chủ động hỏi giáo viên nhất là cách học, cách làm.
- Tự ghi lại ý kiến kết luận của giáo viên.
- Học cách ứng xử của giáo viên, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh
sản phẩm ban đầu của mình.
Tác giả Nguyễn Hữu Hợp đưa ra quy trình dạy học khám phá như sau:
Bước 1: Trẻ tiếp nhận nhiệm vụ
Ở bước này, trẻ nghe giáo viên giao nhiệm vụ cần giải quyết, các em
cần hiểu phải giải quyết nhiệm vụ gì, qua đó phải phát hiện được điều gì, cần
đến những phương tiện, đồ dùng, dụng cụ gì, cần tiến hành riêng từng cá nhân
hay theo nhóm.
Bước 2: Trẻ thực hiện nhiệm vụ giải quyết vấn đề
Trong quá trình thực hiện này, trẻ cần nhận thức lại vấn đề rồi định
hướng việc giải quyết vấn đề, cần thu thông tin, huy động vốn tri thức và kinh
nghiệm cũ để đưa ra các giải pháp, thử các giải pháp khác nhau, quan sát và
biểu diễn, đưa ra kết quả, kết luận.
Bước này có thể tổ chức riêng từng cá nhân hoặc theo nhóm.
Bước 3: Trẻ báo cáo kết quả trước lớp
Trẻ trình bày kết quả giải quyết vấn đề: báo cáo thực hiện nhiệm vụ
giải quyết vấn đề - cách làm, những quan sát mà các em ghi nhận được, giải
thích những diễn biến, hiện tượng, rút ra kết luận khoa học.
Những trẻ khác cần chú ý lắng nghe, quan sát cách làm của bạn, đối
chiếu với kết quả của bản thân, tỏ rõ thái độ (đồng ý, không đồng ý), tham gia
ý kiến (bổ sung, tranh luận), đề xuất cách giải quyết khác (nếu có).
17
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bước 4: Rút ra kết luận khoa học
Giáo viên đóng vai trò là người trọng tài khoa học, tổng kết những cách
giải quyết, cuộc tranh luận của trẻ và kết luận về tri thức khoa học, cách giải
quyết vấn đề mà trẻ phát hiện ra.
Tác giả Nguyễn Thị Vân Hương, Nguyễn Thị Hồng Quý đã đưa ra quy
trình tổ chức dạy học khám phá gồm năm bước cơ bản như sau:
Bước 1: Xác định rõ vấn đề
Ở bước này, giáo viên giúp từng trẻ nắm rõ vấn đề cần khám phá cũng
như mục đích của việc khám phá đó (điều gì tôi biết? điều gì tôi muốn biết?
điều gì tôi đã học được?)
Bước2: Nêu các giả thuyết (ý kiến)
Sau khi nắm rõ mục đích cũng như vấn đề cần khám phá, từng trẻ việc
cá nhân hoặc cùng làm việc theo nhóm đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn
đề. Ở bước này, trẻ đưa ra càng nhiều đề xuất càng tốt.
Bước 3: Thu lượm các dữ liệu
Trẻ sẽ tìm kiếm các dữ liệu, các thông tin để chứng tỏ rằng đề xuất
mình đưa ra là mang tính khả thi. Từ đó, trẻ lựa chọn các đề xuất hợp lí, loại
bỏ những đề xuất bất khả thi.
Bước 4: Đánh giá các giả thuyết (ý kiến)
Từ các giải pháp riêng của mỗi trẻ, trẻ trao đổi, tranh luận với các thành
viên trong nhóm để tìm ra giải pháp chung của nhóm cho vấn đề khám phá.
Bước 5: Khái quát hóa
Mỗi nhóm trình bày tóm tắt nội dung của vấn đề đã được phát hiện,
trên cơ sở đó có sự tranh luận giữa các nhóm về kết quả khám phá, dưới sự
chỉ đạo của giáo viên. Trong quá trình này, giáo viên đóng vai trò như một
trọng tài, lựa chọn những phán đoán, kết luận đúng của các nhóm để hình
thành kiến thức mới.
18
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
1.1.3. Một số vấn đề về chương trình cho trẻ làm quen với MTXQ ở mẫu
giáo lớn
1.1.3.1. Mục tiêu của chương trình cho trẻ làm quen với MTXQ ở mẫu
giáo lớn
Về kiến thức:
Trẻ biết các đặc điểm cơ bản, đặc trưng và cần thiết của các sự vật,
hiện tượng phổ biến trong thiên nhiên và trong xã hội.
Biết sự đa dạng, phong phú của các sự vật, hiện tượng xung quanh.
Biết sự thay đổi, sự phát triển và các mối liên hệ - quan hệ đơn giản
giũa các sự vật và hiện tượng.
Về kĩ năng:
Trẻ có khả năng quan sát nhiều đối tượng cùng một lúc, biết cách sử
dụng các cách thức khám phá, tìm hiểu môi trường xung quanh.
Có khả năng so sánh sự giống nhau và khác nhau của hai hoặc nhiều
đối tượng.
Có khả năng phân nhóm đối tượng theo một hoặc vài dấu hiệu
tiêu biểu.
Có khả năng phán đoán, suy luận dựa trên vốn kiến thức và kinh
nghiệm đã có.
Bước đầu nắm được các bước tiến hành khám phá khoa học: dự đoán,
đề xuất và thực hiện các cách thức khám phá khoa học để thu thập thông tin,
vẽ, lập biểu đồ các kết luận và khái quát hóa.
Sử dụng thành thạo ngôn ngữ mạch lạc để thể hiện kết quả khám phá,
trao đổi, giải thích các sự vật và hiện tượng xung quanh.
19
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Về thái độ:
Biết phát hiện và yêu quý cái hay, cái đẹp, cái mới trong môi trường
xung quanh.
Có thái độ bảo vệ, chăm sóc các con vật, cây cối trong môi trường gần
gũi xung quanh.
Biết quý trọng các sản phẩm của người lao động.
Có thói quen tốt trong vệ sinh.
Có các hành vi văn hóa, văn minh trong sinh hoạt nơi công cộng, trong
việc bảo vệ môi trường, trong tham gia giao thông.
Có kĩ năng làm việc trong nhóm bạn bè, có thái độ hợp tác, chia sẻ,
thỏa thuận với các bạn trong học tập, vui chơi và lao động.
1.1.3.2. Nội dung chương trình cho trẻ làm quen với MTXQ
Nội dung chương trình cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
bao gồm các chủ đề: “Chủ đề trường mầm non; chủ đề gia đình; chủ đề bản
thân; chủ đề nghề nghiệp; chủ đề thế giới thực vật; chủ đề thế giới động vật;
chủ đề giao thông và luật giao thông; chủ đề quê hương, đất nước, Bác Hồ,
trường Tiểu học; chủ đề nước và một số hiện tượng tự nhiên”. Trong mỗi chủ
đề bao gồm các chủ đề nhánh như sau:
* Chủ đề trường mầm non
Trường mầm non là môi trường quan trọng của trẻ nhỏ, khi cho trẻ tìm
hiểu, khám phá về trường mầm non giúp trẻ có những kiến thức cơ bản về
ngôi trường mà trẻ học về tên gọi, vị trí của trường mầm non: có tường bao,
có phòng bảo vệ, có sân chơi, vườn trường, nhà bếp, phòng học, các phòng
chức năng, các đồ dùng dụng cụ trong trường; khám phá công việc của những
người lớn trong trường; trẻ biết trong trường mầm non có các bạn trai bạn gái,
20
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
có các em nhỏ; biết cách ứng xử với mọi thành viên trong trường đến cách
ứng xử với môi trờng trong trường của mình, từ đó trẻ sẽ có ý thức bảo vệ,
giữ gìn đồ dùng, đồ chơi trong trường, biết công dụng của đồ dùng đồ chơi
tạo cho trẻ hứng thú khi tới trường, biết kính yêu, lễ phép và giúp đỡ người
lớn.
* Chủ đề gia đình
Khi cho trẻ tìm hiểu về chủ đề gia đình trẻ sẽ khám phá được: Gia
đình trẻ có bao nhiêu người, những người trong gia đình làm nghề gì? Ngôi
nhà gia đình ở đâu (nông thôn, thành thị), cảnh quan của ngôi nhà, cấu trúc và
nguyên vật liệu cấu tạo nên ngôi nhà; nhu cầu để gia đình tồn tại và phát
triển... Để từ đó thúc đẩy trẻ hành động vì gia đình của mình, giúp trẻ hiểu
mọi thứ xung quanh trở nên sinh động, hài hòa khi có sự tác động của trẻ. Từ
đó, giúp trẻ thấy được gia đình rất quan trọng đối với trẻ, trẻ sẽ có cách ứng
xử hài hòa với mọi người trong gia đình, với thiên nhiên trong phạm vi nhỏ
hẹp của gia đình trẻ.
* Chủ đề bản thân
Thông qua chủ đề này trẻ sẽ được tìm hiểu, khám phá có cơ hội hiểu rõ
về bản thân của mình, biết được tên gọi, đứng ở vị trí nào, cấu tạo ngoài, số
lượng chức năng các bộ phận và các giác quan trên cơ thể, biết bản thân trẻ
cần những gì để có thể lớn lên và khỏe mạnh để từ đó trẻ có cách ứng xử cho
phù hợp với môi trường tự nhiên và xã hội. Không những thế trẻ còn khám
phá được trẻ là một bộ phận của môi trường và cần được bảo vệ che chở.
* Chủ đề nghề nghiệp
Qua chủ đề này trẻ sẽ được khám phá dấu hiệu đặc trưng về: tên gọi,
nơi làm việc, trang phục, công việc, dụng cụ lao động, sản phẩm , thái độ làm
việc, ý nghĩa của nhiều nghề nghiệp phổ biến. Trẻ biết tại sao lại xuất hiện các
21
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
ngành nghề khác nhau và mỗi người lại chọn cho mình một nghề, trẻ biết mỗi
ngành nghề đều có những tác động tích cực, tiêu cực khác nhau đến đời sống
của con người trong xã hội, từ đó trẻ ý thức được hành động của mình.
* Chủ đề thế giới thực vật
Thông qua các chủ đề này giáo viên giúp trẻ khám phá được một số đặc
điểm về tên gọi, màu sắc, hình dáng, mùi vị, lợi ích của một số loại rau, hoa
quả, cây xanh đối với con người với những gì tồn tại trên trái đất. Mối quan
hệ giữa thế giới thực vật với các yếu tố môi trường như: đất, nước, không khí,
ánh sáng, thời tiết… Mở rộng hiểu biết của trẻ về thế giới thực vật từ đó giáo
dục trẻ cách vệ sinh, chăm sóc, bảo vệ thế giới thực vật.
* Chủ đề thế giới động vật
Cần giúp trẻ khám phá đặc điểm về thế giới động về tên gọi, màu sắc,
các bộ phận đặc trưng, chức năng, cấu tạo ngoài của các bộ phận đó, tiếng
kêu, vận động, thức ăn, sinh sản, nơi sống, công dụng, sự phát triển của các
nhóm động vật, mối quan hệ của động vật với môi trường như: nước, không
khí, ánh sáng, thức ăn, các loại thực vật và động vật khác, mối quan hệ của
động vật với con người thông qua các chủ đề nhánh. Giáo viên giáo dục trẻ
gần gũi, yêu quý các con vật nhất là những vật nuôi trong gia đình mà trẻ
thường xuyên được tiếp xúc, tạo cho trẻ hứng thú say mê tìm tòi về thế giới
động vật.
* Chủ đề giao thông và luật giao thông
Thông qua các chủ đề này trẻ khám phá được các đặc điểm: Tên gọi, cấu
tạo ngoài, tiếng kêu, tốc độ, công dụng, môi trường hoạt động của các loại
phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không;
khám phá được sự đa dạng phong phú của phương tiện giao thông; khám phá
mối quan hệ giữa cấu tạo của phương tiện giao thông với chức năng sử dụng
22
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
và môi trường hoạt động của chúng. Qua đó trẻ biết khi đến trường trẻ biết
mình đi bằng phương tiện giao thông nào và trẻ có ý thức tham gia chấp hành
đúng luật lệ giao thông.
* Chủ đề quê hương, đất nước, Bác Hồ, trường Tiểu học
Trẻ khám phá được địa danh nơi gia đình trẻ sống và những người láng
giềng của trẻ mối quan hệ giữa trẻ với họ. Trẻ tìm hiểu về thành phố của
mình, tên gọi, các danh lam thắng cảnh của địa phương với những nét đặc
trưng. Trẻ tìm hiểu về Bác Hồ với những công việc, nơi ở của Bác. Đặc biệt
trẻ được tham quan tìm hiểu về trường tiểu học nơi trẻ sắp được vào học với
những đồ dùng hấp dẫn trẻ, trẻ háo hức hơn. Qua đó giáo dục tình cảm thân
thiện cho trẻ, sự yêu mến ngôi trường mà trẻ sắp được học.
* Chủ đề nước và hiện tượng tự nhiên
Chủ đề này trẻ sẽ được khám phá một số đặc điểm và tính chất của nước,
trẻ biết nước có ở xung quanh trẻ, lợi ích của nước đối với đời sống con
người. Trẻ biết các hiện tượng tự nhiên như: bầu trời ban ngày và ban đêm,
mưa, gió, cầu vồng; biết dấu hiệu các mùa như: mùa xuân ấm áp, mùa hè
nóng bức, mùa thu dịu mát hơn, mùa đông lạnh hơn ngày ngắn hơn đêm. Qua
đó, trẻ sẽ có sự thích ứng với sự thay đổi của các hiện tượng tự nhiên ăn mặc
đúng cách, phù hợp, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ nguồn nước.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học để hướng dẫn trẻ
khám phá môi trường xung quanh
Qua tiến hành điều tra bằng phiếu, đồng thời có phỏng vấn 80 giáo viên
và dự một số giờ dạy ở trường mầm non Đại Đồng - Thạch Thất - Hà Nội,
chúng tôi đã thu được kết quả về thực trạng sử dụng phương pháp dạy học
khám phá ở trường mầm non của giáo viên như sau:
23
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bảng 1: Bảng thống kê mức độ sử dụng các phương pháp dạy học để
hướng dẫn trẻ khám phá môi trường xung quanh.
Mức độ
STT Các phương pháp dạy học
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
Số GV
Số GV
Số GV
%
%
%
1
Đàm thoại
80
100
0
0
0
0
2
Trò chơi
80
100
0
0
0
0
3
Giảng giải, thuyết trình
80
100
0
0
0
0
4
Quan sát
76
95
4
5
0
0
5
Thảo luận nhóm
56
70
20
25
4
5
6
Dạy học nêu vấn đề
28
35
48
60
4
5
7
Dạy học khám phá
24
30
56
70
0
0
8
Thí nghiệm
16
20
56
70
8
10
9
Phương pháp khác
0
0
0
0
0
0
Biểu đồ 1: Thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học để hướng dẫn trẻ
khám phá môi trường xung quanh.
100
100
100
100
95
90
80
70
70
70
70
60
60
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
50
40
35
30
30
25
20
20
10
10
5
5
5
0
PPĐT PPTC PPGGTT PPQS PPTLN DHNVĐ DHKP PPTN
24
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN
Khóa luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Qua kết quả điều tra cho thấy giáo viên mầm non đều sử dụng phương
pháp dạy học truyền thống: Phương pháp giảng giải thuyết trình (100%),
phương pháp quan sát (95%), phương pháp đàm thoại (100%), phương pháp
trò chơi (100%). Những phương pháp hiện đại giáo viên đã sử dụng có những
phương pháp sử dụng tỉ lệ tương đối cao nhưng có phương pháp sử dụng với
tỉ lệ còn thấp như: phương pháp thảo luận nhóm (70%), dạy học khám phá
(30%), dạy học nêu vấn đề (35%). Qua trao đổi giáo viên, họ cho rằng những
phương pháp dạy học hiện đại khó thực hiện hơn phương pháp dạy học truyền
thống mặc dù các phương pháp dạy học hiện đại đem lại kết quả cao hơn, tạo
hứng thú cho trẻ nhiều hơn các phương pháp truyền thống. Phương pháp dạy
học khám phá là phương pháp dạy học hiện đại thu hút được sự tập trung của
trẻ, giúp trẻ phát huy được tính tích cực sáng tạo của trẻ nhưng tỉ lệ giáo viên
sử dụng chỉ có 30%. Họ cho rằng phương pháp dạy học khám phá khó thực
hiện, mất thời gian, giáo viên không bao quát được hết trẻ, phải chuẩn bị
nhiều đồ dùng. Chính vì giáo viên ít sử dụng các phương pháp dạy học hiện
đại đã làm cho việc tiếp thu tri thức về môi trường xung quanh của trẻ trở nên
thụ động và không phát huy được sự sáng tạo, tích cực tìm kiếm tri thức mới,
làm giảm hứng thú trong học tập của trẻ.
1.2.2. Thực trạng sử dụng các đồ dùng dạy học để hướng dẫn trẻ khám phá
môi trường xung quanh
Bảng 2: Bảng thống kê mức độ sử dụng đồ dùng dạy học để hướng dẫn trẻ
khám phá môi trường xung quanh
Mức độ
STT Các phương tiện, thiết bị Thường xuyên
dạy học
Số GV %
Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
Số GV
Số GV
%
%
1
Tranh ảnh
76
95
4
5
0
0
2
Giấy, tranh vẽ
72
90
8
10
0
0
3
Mô hình
68
85
12
15
0
0
4
Đồ dùng tự làm
68
85
12
15
0
0
5
Vật thật
32
40
48
60
0
0
6
Thiết bị hiện đại
56
70
24
30
0
0
7
Phương tiện, thiết bị khác
0
0
0
0
0
0
25
Phạm Thị Hạnh
K34 - GDMN