Tải bản đầy đủ (.pptx) (47 trang)

Đề tài nghiên cứu về USD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.04 MB, 47 trang )

Bài tập thảo luận:
Môn : Tài chính - Tiền tệ

Giảng viên hướng dẫn: Mai Hoàng Thịnh
Đề tài : Nghiên cứu về USD


Nhóm thực hiện số 4:







1. Phạm Thị Hương Thảo
2. Bùi Như Mai
3. Nguyễn Thị Hồng Nhung 13/07
4. Lê Thị Trang Nhung
5. Nguyễn Thị Thanh Thủy
6. Lê Phú Phương


I. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của đồng
tiền


Tiền điện
tệ hàng
danh
tín


dụng
tử
nghĩa
hóa –hóa tệ




1.Thời kỳ hàng đổi hàng

Người cổ đại không dùng tiền để mua bán, trao đổi
hàng hóa. Thay vào đó, họ dùng phương thức trao đổi
hàng lấy hàng, tức là dùng những tài sản cá nhân để
trao đổi lấy những loại hàng hóa khác.

Một người có thể trao đổi 450g táo lấy 450g hạt giống.




Khoảng giữa những năm 9000 –
6000 trước công nguyên, vật nuôi
được xem là đơn vị trao đổi chủ yếu.
Sau đó, khi nền nông nghiệp phát
triển mạnh mẽ thì những loại cây
trồng, sản phẩm từ nông nghiệp lại
được sử dụng để trao đổi một cách
phổ biến.

Vỏ sò thường được sử dụng như một món quà rất giá trị trong lễ cưới.



2.Đồng tiền kim loại đầu tiên



Vào khoảng 1000 năm trước Công

nguyên, người Trung Quốc bắt đầu sản
xuất ra những đồng tiền xu đầu tiên.
Những đồng tiền này được làm từ kim
loại, và có lỗ trống để có thể xâu thành một
chuỗi vòng. Những đồng tiền xu đầu tiên
này được xem như là khởi nguồn của quá
trình phát triển đồng tiền kim loại.

Những đồng tiền xu có lỗ thủng để có thể xâu chuỗi lại thành vòng cổ. Bên cạnh đó,
Trung Quốc còn sử dụng những công cụ làm từ kim loại như dao, thuổng như một loại
tiền tệ.


xu vàng và bạc
3.Đồng
Khoảng 500 năm trước công nguyên,
những đồng tiền xu bằng bạc in hình các vị
thần, vị hoàng đế để khẳng định sự thống
trị của họ. Ban đầu những đồng tiền này
được sử dụng ở Lydia, Thổ Nhĩ Kỳ sau đó
lan rộng ra Hy Lạp, đế quốc Ba Tư và cả
thành La Mã. Cũng trong thời gian này,

nhiều nước khác bao gồm cả Lydia cũng sử
dụng đồng tiền xu vàng để mua bán hàng
hóa.

Những đồng xu vàng có giá trị hơn những đồng xu bạc bởi vì vàng ít phổ
biến hơn bạc.


4.Tiền giấy


Đồng tiền giấy đầu tiên được sử dụng bởi
người Trung Quốc từ khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế
kỷ 19 sau công nguyên. Tuy nhiên, thời gian này xảy
ra hàng loạt những cuộc khủng hoảng, lạm phát
nghiêm trọng do sự tăng vọt số lượng tiền giấy. Và
vào năm 1455 loại tiền này đã không xuất hiện nữa.
Nhiều năm sau đó, những người dân Châu Âu vẫn
không sử dụng loại tiền giấy này.

Tiền giấy gọn nhẹ, dễ mang theo
người hơn là tiền kim loại.


5.Vàng miếng


Người Anh đã đưa ra một tiêu chuẩn
vàng xác định, theo đó, vàng được đo bằng
đơn vị ounce. Mỗi đơn vị tiền tệ được ấn

định một lượng vàng nhất định, do đó
ngăn chặn được lạm phát tiền giấy.

Ngày nay, đơn vị đo vàng chuẩn được
giới.

sử dụng rộng rãi trên toàn thế




6.Thẻ tín dụng

Hầu hết mọi người phải dùng tiền mặt để chi trả

cho tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ mà họ sử dụng.
Điều này đôi khi gây ra những khó khăn và bất tiện .
Tuy nhiên, mọi chuyện đã được giải quyết vào năm
1950, khi mà nhà khoa học Frank X. McNamara đưa
ra ý tưởng mới về một loại thẻ tín dụng, loại thẻ này
có thể dùng ở nhiều địa điểm khác nhau, chi trả cho
nhiều loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau mà không
cần dùng đến tiền mặt.

Ngày nay, lợi ích đáng kể mà thẻ tín dụng mang lại đã được công nhận trên toàn thế
giới.


II. Quy luật vận động và chức năng của USD



A : Quy luật vận động của USD
1


1.Đồng dollar trong thời kì bản vị vàng







Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế thế giới được vận hành dưới chế độ bản vị vàng. Đồng tiền
của mỗi quốc gia đều được quy đổi thành vàng theo một tỉ lệ nhất định. Chế độ này tạo ra một hệ thống tỷ giá
cố định. Đồng tiền của một nước có thể được trao đổi với một đồng tiền khác với một tỉ lệ không đổi, phụ
thuộc vào giá trị của từng đồng tiền với vàng. Tỷ giá cố định thúc đẩy thương mại quốc tế bằng cách lọai bỏ
hoàng toàn rủi ro tỷ giá
Trong chế độ bản vị vàng, đồng bảng Anh (sperling) là đồng tiền được sử dụng rộng rãi nhất, đựoc coi là
đồng tiền quốc tế lúc bấy giờ. .
Trong khoảng thời gian này, đồng usd chỉ có vai trò là đồng bản vị của nước Mỹ.


2. Đồng dollar trong thời kì hai đại chiến thế giới


Năm 1914, đại chiến thế giới thứ nhất nổ ra buộc các nước

chấm dứt chuyển đổi đồng tiền của mình ra vàng. Hệ thống tỷ
giá cố định thời kì bản vị vàng phải nhường chỗ cho chế độ tỷ

giá thả nổi. Chính phủ các nước thay đổi chính sách tiền tệ tài
trợ cho chiến tranh làm cho lạm phát bùng nổ. Do Mỹ tham
chiến muộn và trung tâm chiến tranh xảy ra ở châu Âu là cho
lạm phát của châu Âu lớn hơn nhiều so với Mỹ. Kết quả là sức
cạnh tranh của Mỹ tăng lên nhanh chóng, đồng dollar dẫn xây
dựng được vị thế trong hệ thống tiền tệ thế giới.


Kim ngạch xuất khẩu của Mỹ và Anh trong giai đoạn 1900-1956




Nền kinh tế Mỹ từ 1872 đã vượt Anh về quy mô nhưng phải đến năm 1915, kim ngạch xuất khẩu Mỹ mới
có thể vượt Anh, sau đó tăng mạnh trong suốt thời kì chiến tranh. Cùng với sự phát triển của xuất khẩu, từ
1914 trở đi, Mỹ chuyền dần từ vị trí người đi vay sang người cho vay. Thêm vào đó, trong khi các nước thả
nổi đồng tiền của mình, Mỹ vẫn duy trì tỷ giá của dollar với vàng. Dollar trở thành đồng tiền duy nhất
chuyển đổi sang vàng trong những năm 20.



Tất cả các yếu tố trên đã xây dựng cho vị thế là phương tiện chuyển đổi và phương tiện tích lũy quốc tế
của đồng dollar. Dollar được sử dụng một cách rộng rãi trong những hoạt động tài chính và thương mại quốc
tế. Tài sản ghi bằng đồng dollar trở thành một danh mục đầu tư hấp dẫn. Trong thời gian này, đồng dollar
không có chức năng làm thước đo gía trị vì mặc dù giữ được tỷ lệ cố định so với vàng, nhưng vì các đồng
tiển khác đều đươc thả nổi nên thực chất dollar cũng được thả nổi so với những đồng tiền khác





Tuy nhiên, trong thời kì đại chiến thế giới, đồng bảng Anh vẫn giữ được vị trí cao nhất
trong hệ thống tiền tệ quốc tế



Trong vị thế là đồng tiền dự trữ quốc tế, đồng bảng vẫn được tin dùng. Cho đến tận những
năm 1940, giá trị của những giấy tờ có giá bằng bảng vẫn gấp 2 giá trị những giấy tờ có giá
bằng USD. Đây là hệ quả sức ỳ hay độ trễ của quyết định dùng một đồng tiền quốc tế (phân
tích mục 1 phần lý thuyết).



Đại suy thoái 1930 xảy ra chia hệ thống tiền tệ thế giới thành những khối tiền tệ không liên
kết trong đó 2 khối lớn nhất là khối đồng bảng Anh và khối đồng dollar làm đối trọng của
nhau.


3.Đồng
dollar trong chế độ Bretton Woods hay chế độ bản vị dollar
• Hệ thống Bretton Woods ra đời khi chiến tranh
thế giới thứ 2 sắp đến hồi kết thúc. Năm 1944, 730
đại diện cho 44 nước đồng minh đến dự hội nghị tài
chính-tiền tệ liên hiệp quốc tổ chức tại khách sạn
Mount Washington, New Hampshire, Mỹ. Nhằm
xây dựng một thế giới hòa bình và ổn định sau chiến
tranh, các nhà lãnh đạo đã thống nhất với nhau
những vấn đề chính và từ đó cho ra đời hệ thống tiền
tệ quốc tế mới: hệ thống Bretton Woods.





Hoa Kì lúc đó đóng góp một nửa năng lực sản xuất của thế giới và hơn 75% dự trữ vàng, các nhà lãnh đạo quyết định thiết lập hệ thống
tiền tệ quốc tế là chế độ tỷ giá cố dịnh nhưng có thể điều tiết. Mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá trung tâm với USD và được
phép giao động trong biên độ ±1%. Trong khi đồng dollar được cố định với vàng với tỉ lệ 35 dollar = 1 ouce vàng. Thực chất, hệ thống tiền
tệ thế giới mới cũng giống như hệ thống bản vị vàng nhưng đồng dollar được dùng làm đồng tiền quốc tế thay cho vàng.



Tháng 3 năm 1947, khi chế độ Bretton Woods chính thức được đưa vào hoạt động, nhìn chung các đồng tiền chưa được tự do chuyển
đổi. Các nước rơi vào tình trạng thiếu hụt lớn lượng dollar cần thiết trong khi cán cân thương mại của Mỹ lại thặng dư lớn. Các ngân hàng
trung ương trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Âu, đều không có đủ lượng dự trữ dollar cần thiết. Để Bretton Woods được hoạt động, Mỹ
phải có trách nhiệm đưa đồng dollar được sử dụng trên toàn cầu.




Từ 1947 đến 1958, USD được đưa ra thế giới dưới dạng những chương trình hỗ trợ kinh tế của Mỹ
Cuối những năm 60, . Lòng tin vào dollar Mỹ bị giảm sút. Các ngân hàng trung ương bắt đầu chuyển dần dự trữ sang vàng, lượng vàng của
nước Mỹ liên tục bị chảy ra khỏi biên giới.


Tỷ lệ “vàng/USD” của Mỹ
Năm

Tỷ lệ “vàng/USD”

Năm

Tỷ lệ “vàng/USD”


1950

2.72

0.58

1952

2.38

0.5

1954

1.84

0.41

1956

1.59

0.31

1958

1.34

0.16


1960

0.92

0.14

1962

0.71

0.22




Thêm vào đó là việc đầu cơ khốc liệt đồng dollar đã gia tăng áp lực buộc tổng thống Mỹ Nixon phải chính thức tuyên
bố đồng dollar không được tiếp tục chuyển đổi sang vàng nữa vào ngày 15 tháng 8 năm 1971. Sau đó, các nước đã nỗ
lực phục hồi Bretton Woods nhưng đều thất bại. Ngày 19 tháng 3 năm 1973, khi thị trường ngoại hối mở cửa giao dịch
trở lại thì đồng tiền các nước châu Âu đã liên kết cùng thả nổi đối với đồng USD. Bretton Woods chính thức sụp đổ.



Chế độ Bretton Woods đã đưa đồng dollar trở thành đồng tiền trao đổi quốc tế, sau chiến tranh, nhiều nước, đặc biệt
là khu vực Tây Âu có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu từ Mỹ trang thiết bị máy móc, nguyên vật liệu phục vụ cho công
cuộc tái thiết nền kinh tế. Nhờ đó, thương mại của Mỹ ngày càng mở rộng làm tăng phạm vị sử dụng USD.


4.Đồng dollar trong thời kì hậu chế độ Bretton Woods



Tháng 3 năm 1973, các quốc gia lớn nhất thế giới ngồi lại với nhau tại thủ đô Washington và tất cả
đồng ý cho phép đồng tiền của họ lưu hành tự do qua lại lẫn nhau. Một chỉ số mới sinh ra để do giá trị đồng
USD là chỉ số USD (USD index). Chỉ số USD đo tương quan của đồng USD so với 6 loại tiền tệ lớn khác
trên thế giới đó là đồng Euro(EUR), đồng yên Nhật (JPY), đồng bảng Anh (GBP), đồng USD Canada (CAD),
đồng franc Pháp (F??) và đồng Sek (SEK) Thụy Điển. chỉ số USD cho biết diễn biến về thay đổi giá trị của
đồng USD đối với các loại tiền tệ khác. Chỉ số USD(USDX) thể hiện được điều này thông qua mối tương
quan đối với 6 loại tiền tệ lớn khác trong rổ tiền tệ.


Biểu đồ chỉ số USD từ năm 1973-2010

Từ năm 1973 đến nay, USD index biến đổi liên tục đáng chú ý nhất là giai đoạn tăng giá mạnh 1980-1985, giai đoạn sụt giảm liên tục
2002-nay


×