Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.14 KB, 64 trang )

Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng

Lời mở đầu

LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng sâu
rộng đến thị trường, tỷ giá, đầu tư và thương mại của nước ta. Tổng kết kinh tế năm
2011, ngoài những thành tích đáng trân trọng, tốc độ tăng trưởng là 5,2%, lạm phát
duy trì ở mức dưới hai con số, thì một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tiếp tục xấu đi như
nợ chính phủ và nợ nước ngoài tăng cao, bội chi ngân sách tăng lên cả về con số
tuyệt đối lẫn theo tỷ lệ GDP, nhập siêu và cán cân thanh toán tài khoản vãng lai bị
thâm hụt. Để ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong năm 2011
Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chỉ đạo đẩy
nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực
hiện năm 2011 theo giá thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với
năm 2010 và bằng 42,8% GDP. Để tiếp tục theo đúng định hướng đã chọn và đuổi
kịp các nước trong khu vực, nước ta cần huy động một lượng vốn lớn hơn để đầu tư
phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước cũng như các lĩnh vực xã hội.
Có thể có nhiều phương thức để huy động vốn trong đó hệ thống ngân hàng là một
trong những kênh huy động vốn hiệu quả của đất nước. Thông qua các ngân hàng
với nghiệp vụ huy động và cho vay, nguồn vốn huy động từ tiền tạm thời nhàn rỗi
trong dân cư và các tổ chức kinh tế - xã hội để chuyển tới những ngành, những lĩnh
vực đang cần vốn đầu tư. Có thể nói, hệ thống ngân hàng đã và đang làm rất tốt vai
trò trung gian của nền kinh tế, góp phần huy động và trung chuyển vốn nhàn rỗi
trong xã hội cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngoài ra, huy động vốn
là hoạt động quan trọng hàng đầu của ngân hàng. Nhưng điều đáng quan tâm là làm
thế nào để có thể huy động vốn một cách hiệu quả, tạo nguồn vốn dồi dào phục vụ
quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng ?
Nhận thức được tầm quan trọng cũng như khó khăn của ngân hàng trong hoạt


động huy động vốn, em đã chọn đề tài : «Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Hà Nội» cho chuyên đề thực tập của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề này gồm ba phần :
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

1


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Lời mở đầu
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Chương 2 : Thực trạng hiệu quả huy động vón tại Ngân hàng Sài Gòn Hà Nội
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Sài
Gòn Hà Nội
Để hoàn thành được chuyên đề này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em còn
nhận được nhiều sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Tiến sĩ ….., sự quan tâm giúp
đỡ của cô chú, anh chị trong phòng Kế hoạch tổng hợp chi nhánh Hà Nội. Tuy
nhiên, do thời gian thực tập cũng như trình độ có hạn nên chuyên đề chắc chắn
không tránh khỏi khiếm khuyết, hạn chế. Vì thế em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp của thầy cô, anh chị trong chi nhánh và bạn bè.

Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng

Chương 1: Những vấn đề…


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn cũng như đưa
nguồn vốn đến người vay có cơ hội đầu tư sinh lời, đồng thời ngân hàng cũng giữ
vai trò giúp cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng, hiệu quả. Có nhiều cách định
nghĩa về ngân hàng phụ thuộc vào từng giác độ nghiên cứu khác nhau.
Nếu đứng trên quan điểm cho rằng ngân hàng cung cấp các loại hình dịch vụ
thì: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế”. Ngày nay các tổ chức tài chính khác cố gắng cung cấp các dịch vụ của
ngân hàng, và ngược lại ngân hàng ngày càng mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ
của mình về bất động sản, môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu
tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện các dịch vụ mới khác.
Còn nếu xem xét ngân hàng trên phương diện các hoạt động của ngân hàng
thì theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam quy định: “Ngân hàng là loại hình
tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán”. Như vậy, ngân hàng là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay, không
phải là tổ chức đi vay để cho vay.
Tóm lại, ngân hàng là tổ chức kinh tế đặc biệt với hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Hoạt động của nó có sự ảnh hưởng lớn đến các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, cá
nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi, cho vay hay cung cấp các dịch vụ tài

chính khác. Để hoạt động trơ tru, công cụ duy nhất của ngân hàng chính là vốn.
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

3


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại

Chương 1: Những vấn đề…

NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên vốn của NHTM chủ
yếu là vốn bằng tiền. Vốn là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển trong
hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế nói chung và của NHTM nói riêng.
Vốn ngân hàng là giá trị tiền tệ mà ngân hàng có được để thực hiện các hoạt động
kinh doanh như cho vay, đầu tư hoặc các dịch vụ kinh doanh khác nhằm đạt mục
tiêu đã định .
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm: nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn tiền gửi,
vốn đi vay và các nguồn khác.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
ngân hàng, còn lại được huy động từ nguồn bên ngoài. Với số vốn huy động được,
NHTM sử dụng nó để sinh lời ở những mức độ rủi ro khác nhau, để trang trải cho
chi phí huy động vốn, tích lũy cũng như phục vụ sự phát triển lâu dài.
Với chức năng trung tài chính như trên, NHTM đã tích tụ, tập trung vốn,
chuyển từ tiết kiệm thành đầu tư. Như vậy NHTM làm tăng thu nhập cho người tiết
kiệm, làm giảm chi phí tín dụng cho người đi vay (ngân hàng có khả năng tập hợp
và thẩm định thông tin làm giảm rủi ro thông tin không cân xứng), do đó đã khuyến
khích tiết kiệm và đầu tư, đóng vai trò lớn trong phát triển kinh tế.
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Đối với mỗi một ngân hàng, để thực hiện kinh doanh đều phải có một số vốn

nhất định – vốn chủ sử hữu. Tuy vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ (thường
khoảng 10% tổng nguồn vốn) song lại giữ vai trò quan trọng. Vốn chủ sở hữu là
“tấm đệm” chống lại rủi ro phá sản, là sự đảm bảo an toàn cho người gửi tiền, là
tiềm lực để ngân hàng xác định quy mô cho vay và đầu tư, cũng như phát triển các
dịch vụ mới, mua sắm trang thiết bị, công nghệ ngân hàng hiện đại.
• Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tùy theo tính chất sở hữu mà vốn hình thành ban đầu của mỗi ngân hàng
khác nhau. Đối với ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, vốn hình thành ban đầu được
ngân sách nhà nước cấp. Còn đối với ngân hàng tư nhân thì đó là vốn riêng của cá
nhân, tổ chức kinh tế tự bỏ ra. Ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp bằng
việc mua cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn. Nếu là ngân hàng liên doanh,
các bên trong nước và nước ngoài cùng đóng góp tạo nên vốn hình thành ban đầu.
Vốn hình thành ban đầu phải đạt những yêu cầu tối thiểu theo quy định của
Chính phủ, vốn tối thiểu đáp ứng điều kiện pháp luật quy định được gọi là vốn pháp
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

4


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
định. Đây là số vốn cần thiết mà ngân hàng phải có để nhận được giấy phép hoạt
động. Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp định của
các tổ chức tín dụng được Chính phủ ban hành ngày 22/11/2006, chậm nhất vào
ngày 31/12/2008 và 31/12/2010, tổ chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập và
hoạt động phải có biện pháp bảo đảm có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối
thiểu tương đương mức vốn pháp định theo danh mục cụ thể. Với các ngân hàng
thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2010 là 3.000 tỷ đồng; chi
nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với ngân hàng chính sách, ngân hàng
phát triển là 5.000 tỷ đồng; ngân hàng đầu tư, ngân hàng hợp tác và quỹ tín dụng

nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ đồng; công ty
cho thuê tài chính là 150 tỷ đồng.
Các ngân hàng sử dụng nguồn vốn hình thành ban đầu này để xây dựng cơ
sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đầu tư công nghệ ngân hàng hiện đại…
• Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động của mình, các ngân hàng không ngừng gia tăng
quy mô vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau. Quy mô vốn chủ gia
tăng giúp ngân hàng có thể mở rộng cho vay và đầu tư, củng cố niềm tin với khách
hàng, hơn nữa là đủ sức chống đỡ lại tổn thất, thua lỗ cuối cùng. Có nhiều cách tăng
vốn chủ sở hữu, có thể là do lợi nhuận tăng thêm, do nguồn vốn bổ sung từ phát
hành thêm cổ phần, cấp thêm, góp thêm…
- Lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu: khi làm ăn có lãi, ngân hàng thường
có xu hướng trích một phần lợi nhuận sau thuế bổ sung vào vốn chủ sở hữu. Đối với
NHTM hoạt động lâu năm, nguồn vốn bổ sung này có thể rất lớn.
- Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm, góp thêm: ngân hàng cổ
phần có thể tăng vốn bằng phát hành thêm cổ phiếu (cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu
đãi), các ngân hàng nhà nước thì có thể xin cấp thêm vốn, các ngân hàng liên doanh
hay tư nhân có thể góp thêm. Bằng việc gia tăng vốn, ngân hàng có thể mở rộng
quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị, hoặc đáp ứng yêu cầu tăng vốn chủ của
Ngân hàng Nhà nước.
• Các quỹ
Ngân hàng thường có nhiều loại quỹ với mục đích sử dụng khác nhau. Quỹ
dự phòng tổn thất được trích lập từ lợi nhuận hàng năm để bù đắp tổn thất xảy ra
trong quá trình kinh doanh. Quỹ bảo toàn vốn được trích lập nhằm bù đắp hao mòn
của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư vốn có được khi thị giá của cổ
phiếu lớn hơn mệnh giá cổ phiếu đó thì phần chênh lệch này được đưa vào quỹ này.
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

5



Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
Ngoài ra thì các ngân hàng còn có thể trích lập các quỹ như quỹ khen thưởng, quỹ
đầu tư phát triển…
• Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Nguồn vốn này khá đặc biệt trong nguồn vốn chủ sở hữu. Nó được hình
thành từ các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng. Một số ngân hàng phát
hành các trái phiếu có thời hạn lâu năm nhằm huy động vốn, những người nắm giữ
trái phiếu này sau một khoảng thời gian nào đó sẽ trở thành cổ đông của ngân hàng
và được hưởng lợi tức thay vì tiền lãi. Nguồn vốn này thường xuất hiện ở các ngân
hàng sắp cổ phần hoá, nó có tác dụng làm tăng vốn lượng vốn dài hạn trong thời
điểm hiện tại và tăng vốn chủ sở hữu trong tương lai. Những trái phiếu này rất hấp
dẫn các nhà đầu tư vì họ có cơ hội trở thành đồng sở hữu một ngân hàng rất mạnh
trong tương lai.
Để tiến hành kinh doanh, mỗi ngân hàng đều phải có số vốn ban đầu – vốn
chủ sở hữu. Với số vốn này, ngân hàng sử dụng nó để mua sắm đất đai, xây dựng
trụ sở văn phòng, đầu tư trang thiết bị. Đây cũng là cơ sở để xác định quy mô và cơ
cấu của ngân hàng, tạo niềm tin cho khách hàng. Ngân hàng cần đảm bảo với người
gửi tiền rằng mình có đủ năng lực tài chính để chống đỡ lại những rủi ro do quá
trình kinh doanh mang lại, đảm bảo với người cho vay có thể đáp ứng nhu cầu tín
dụng ngay cả khi nền kinh tế đang gặp khó khăn. Trong quá trình hoạt động, vốn
chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được gia tăng tuy vẫn chiếm phần nhỏ
trong tổng nguồn vốn, điều này giúp ngân hàng có thể tăng khả năng cho vay cũng
như quy mô huy động vốn , phát triển các dịch vụ mới… Không những thế ngân
hàng còn đáp ứng được các quy định chặt chẽ về đảm bảo an toàn vốn. Ví dụ theo
Hiệp định Basel II, tỷ lệ VCSH/TS điều chỉnh rủi ro phải được duy trì ở mức 8%.
Việc quy định về vốn pháp định, an toàn vốn tối thiểu là rất cần thiết bởi sự phá sản
của một ngân hàng rất có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng. Vốn
chủ sở hữu vững mạnh là cơ sở cho những cơ hội phát triển của NHTM.

1.1.2. Nguồn tiền gửi
Tiền gửi là tiền đề hình thành nên các khoản cho vay do vậy mà nó là gốc rễ
tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Tiền gửi là khoản mục giúp chúng ta phân biệt ngân
hàng với loại hình doanh nghiệp khác. “Tiền gửi là số tiền các tổ chức, cá nhân gửi
tại tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác.
Tiền gửi được hưởng lãi, không hưởng lãi và được hoàn trả cho người gửi tiền.”

Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

6


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
Ngay khi đi vào hoạt động, ngân hàng sẽ mở những tài khoản tiền gửi để giữ
hộ, thanh toán hộ cho khách hàng, như vậy ngân hàng đã huy động tiền từ dân cư và
tổ chức doanh nghiệp. Khi huy động vốn, ngân hàng phải trích một phần để dự trữ
bắt buộc và dự trữ đảm bảo thanh toán, số còn lại mới được sử dụng kinh doanh.
Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay với sự xuất hiện
rất nhiều của các ngân hàng, các tổ chức phi ngân hàng, các ngân hàng phải đối mặt
với nguồn tiền gửi ngày càng khan hiếm. Để thu hút khách hàng, họ đã đưa ra mức
lãi suất cạnh tranh cùng với việc đa dạng hóa loại hình tiền gửi.
• Tiền gửi thanh toán
Với loại tiền gửi này, khách hàng được hưởng lãi suất rất thấp (thậm chí
bằng không) nhưng bù lại được hưởng các dịch vụ của ngân hàng như thanh toán
tiền hàng hóa, dịch vụ, rút tiền, chuyển tiền với chi phí thấp. Khách hàng mở loại tài
khoản này với mục đích thanh toán, giao dịch là chủ yếu. Tiền thu được có thể nhập
vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi có nhu cầu rút tiền, ngân
hàng phải thanh toán ngay cho người thụ hưởng. Điều này có nghĩa là ngân hàng

tuy phải trả vốn phí thấp song phải đối mặt với nguồn vốn dễ biến động, nhạy cảm.
Trước đây, chủ loại tài khoản tiền gửi thanh toán chỉ được chi tiêu trong phạm vi số
dư. Nhưng hiện nay, một số ngân hàng đã kết hợp với tài khoản cho vay (thấu chi –
chi trội trên số dư của tài khoản tiền gửi thanh toán) để gia tăng tính cạnh tranh với
các ngân hàng khác. Để thu hút tiền gửi thanh toán, ngân hàng phát triển rất nhiều
sản phẩm tiện ích giúp khách hàng có nhiều sự lựa chọn. Riêng sản phẩm thẻ đã có
rất nhiều loại, phù hợp với nhiều đối tượng. Trong tương lai, tiền gửi thanh toán có
thể thay thế cho tiền mặt nhờ vào ưu điểm có thẻ sinh lãi, và đẩy nhanh tốc độ lưu
thông tiền tệ. Khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ tiện ích, còn ngân hàng có
thêm vốn.
• Tiền gửi có kỳ hạn
Đây là khoản tiền mà các doanh nhiệp, tổ chức xã hội gửi vào để đảm bảo an
toàn và hưởng lãi với lãi suất phụ thuộc vào kỳ hạn gửi tiền. Chủ tài khoản chỉ được
rút tiền sau một khoản thời gian nhất định. Một số doanh nghiêp, tổ chức xã hội rất
ưu thích loại tài khoản này do họ chỉ phải thanh toán với người thụ hưởng trong thời
gian đã định. Chi phí cho loại vốn này cao hơn tiền gửi thanh toán nhưng ngân hàng
có thể dễ dàng kiểm soát để có kế hoạch sử dụng nó thích hợp, đảm bảo khả năng
thanh toán. Một điểm khác nữa của tài khoản tiền gửi có kỳ hạn là khách hàng vẫn
có thể yêu cầu ngân hàng cho rút tiền trước thời điểm đáo hạn, nhưng khách hàng
có thể không được hưởng lãi hoặc chỉ được hưởng lãi với lãi suất khuyến khích.
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

7


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
• Tiền gửi tiết kiệm

Chương 1: Những vấn đề…


Đây là loại tài khoản tiền gửi mà các tầng lớp dân cư ưu thích, nhất là khi họ
có những khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng tới. Mục đích của khách hàng khi
khởi tạo loại tài khoản này nhằm bảo đảm an toàn và sinh lợi đối với khoản tiết
kiệm. Do đó, loại tiền gửi này không được phát séc, thực hiện thanh toán như tài
khoản tiền gửi thanh toán. Nhưng khách hàng có thể rút vốn hay gửi tiền vào bất kỳ
thời điểm nào. Nếu khách hàng rút vốn trước hạn thì chỉ được hưởng lãi suất thấp
hơn nhiều so với lãi suất thỏa thuận ban đầu. Đối với ngân hàng tuy phải trả chi phí
cao cho loại tiền gửi này nhưng bù lại chi phí quản lý và duy trì lại thấp. Khoản tiền
gửi tiết kiệm bao gồm tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn. Nhằm thu hút nguồn
tiền nhàn rỗi, ổn định, các ngân hàng đã triển khai rất nhiều hình thức huy động tiền
gửi tiết kiệm với nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau, thậm chí chấp nhận cả
khách hạng gửi tiết kiệm bằng vàng, ngoại tệ…
• Tiền gửi khác
Đây là khoản tiền gửi các ngân hàng nắm giữ hộ nhau để phục vụ cho việc
thanh toán liên ngân hàng, hoặc vay để đáp ứng nhu cầu thanh khoản… Ngoài ra
còn có các tài khoản tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước, các
tổ chức đoàn thể xã hội. Quy mô của nguồn tiền không lớn song lại có chi phí huy
động thấp.
Nhìn chung, tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng, là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Các
khoản tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
1.1.3. Nguồn đi vay
Có rất nhiều thời điểm mà ngân hàng tạm thời thừa hoặc thiếu vốn. Đó là khi
ngân hàng huy động được mà chưa cho vay hết, hay khi khách hàng cần vay vốn mà
ngân hàng không có đủ vốn, hoặc ngân hàng phải đi vay để đáp ứng nhu cầu chi trả.
Khi đó, ngân hàng có thể gửi tiền vào các tổ chức tín dụng khác khi thừa vốn,
ngược lại đi vay khi thiếu vốn. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng ngân
hàng hoàn toàn chủ động huy động về quy mô cũng như thời điểm vay. Ngân hàng
có thể vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng khác, hoặc vay trên thị
trường vốn.

• Vay Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại thường vay NHNN trong những những trường hợp
cần thiết như thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán. Trong trường hợp cấp
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

8


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
bách, NHNN còn đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với NHTM mất khả
năng chi trả để đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng. Những khoản vay
này phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của NHNN khi muốn thắt chặt hay nới lỏng
cung ứng tiền tệ. Tùy theo hình thức và mục đích vay vốn, vốn vay NHNN có thể
được chia thành các loại như sau:
Theo hình thức có
- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá: NHTM đem
thương phiếu, giấy tờ có giá xin tái chiết khấu. Chúng thường là các loại giấy tờ mà
chủ thể phát hành có uy tín cao, thời gian đáo hạn ngắn…Việc tái chiết khấu đối với
NHTM đã được giới hạn trong định mức.
- Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu, giấy tờ có giá: NHTM
đem thương phiếu, giấy tờ có giá đến NHNN để đảm bao xin vay vốn.
Theo mục đích có
- Cho vay bổ sung nguồn vốn ngắn hạn : là hình thức tài trợ vốn theo kế
hoạch, chỉ phân phối đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh.
- Chiết khấu và tái chiết khấu kho bạc, khế ước mà các ngân hàng đã cho
khách hàng vay nhưng chưa đáo hạn và các thương phiếu.
- Cho vay bổ sung thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
• Vay tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn vốn mà các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ

chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Mục đích của khoản vay này để
đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, và trong nhiều trường hợp nó bổ sung
hoặc thay thế cho nguồn vay từ NHNN. Do tính chất này nên các khoản vay này
thường rất ngắn: một tuần hoặc vài ngày.
• Vay điều hòa vốn
Các NHTM hiện nay hình thành hệ thống ngân hàng bao gồm nhiều chi
nhánh tại nhiều địa bàn khách nhau. Trên mỗi địa bàn hoạt động có nhiều yếu tố
kinh tế, xã hội tác động đến việc huy động vốn cũng như sử dụng vốn của chi
nhánh. Điều này đã dẫn đến tình trạng thừa thiếu vốn của các chi nhánh thuộc cùng
một hệ thống ngân hàng. Các NHTM thực hiện điều hòa chuyển vốn giữa các chi
nhánh qua hội sở chính. Nguồn vốn điều hòa trong hệ thống cũng là nguồn vốn có
ích, giúp cho ngân hàng mở rộng hoạt động cũng như làm tăng lợi nhuận của ngân
hàng.
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

9


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
• Vay trên thị trường vốn

Chương 1: Những vấn đề…

Ngoài cách huy động vốn trên, NHTM còn vay trên thị trường vốn bằng
cách phát hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Kỳ phiếu và tín
phiếu là các giấy tờ có giá ngắn hạn, trái phiếu là các phiếu nợ trung và dài hạn.
NHTM vay trên thị trường vốn cùng với huy động nguồn tiền gửi để tài trợ cho nhu
cầu vay và đầu tư trung và dài hạn. Việc huy động trên thị trường vốn chịu ảnh
hưởng của rất nhiếu yếu tố như: mức độ uy tín và biểu lãi suất của ngân hàng, sự
chấp nhận của người dân, tổ chức kinh tế xã hội, trình độ phát triển của thị trường

tài chính…
• Hợp đồng mua lại
Trên thế giới, các hợp đồng mua lại (repo) gần như thay thế các khoản cho
vay của NHNN. Hợp đồng mua lại (repo) và mua lại đảo ngược (reverse repo) bản
chất là giao dịch đi vay và cho vay có kỳ hạn được sử dụng phổ biến trên thị trường
tiền tệ. Các thành viên sở hữu chứng khoán có thể thiếu tiền ở thời điểm nhất định,
để đáp ứng nhu cầu huy động vốn, có thể được hỗ trợ vốn ngày lập tức nếu đã có
thỏa thuận bán một lượng chứng khoán cho thành viên khác và cam kết sẽ mua lại
lượng chứng khoán đó sau khoảng thời gian nhất định và với giá cao hơn giá bán
ban đầu. Người bán chứng khoán và cam kết mua lại số chứng khoán đó gọi là hợp
đồng mua lại, còn người mua chứng khoán rồi sau đó bán lại gọi là hợp đồng mua
lại đảo ngược.
1.1.4. Các nguồn vốn khác
Nguồn vốn của ngân hàng còn bao gồm: nguồn ủy thác, nguồn trong thanh
toán và nguồn khác.
• Nguồn ủy thác
Đây là nguồn vốn mà ngân hàng với tư cách ngân hàng đại lý nhận ủy thác
cho các tổ chức trong và ngoài nước thực hiện đầu tư cho các chương trình, dự án.
Các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác
giải ngân và thu hộ… Trong thời gian thực hiện ủy thác, ngân hàng có thể tạm thời
sử dụng vốn chưa giải ngân hết theo kế hoạch hoặc vốn đã thu hồi chưa phải trả cho
chủ đầu tư. Ngoài ra, thực hiện các hợp đồng ủy thác, ngân hàng sẽ nhận được phí
hoa hồng.
• Nguồn trong thanh toán
Ngân hàng có được nguồn vốn trong thanh toán khi làm trung gian thanh
toán trong nền kinh tế như séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ mở L/C… Đó là
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

10



Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
lượng tiền đã được trích từ tài khoản của người trả nhưng chưa chuyển vào tài
khoản người thụ hưởng, hay số tiền trong thời gian chờ thanh toán.
• Nguồn khác
Ngoài ra ngân hàng còn có một số loại tiền như thuế chưa nộp, lương chưa
trả, thậm chí ngân hàng còn đứng ra làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các
doanh nghiệp hưởng phí hoa hồng… Nó đều làm tăng vốn cho ngân hàng.
1.2. Hoạt động huy động vốn
1.2.1. Khái niệm huy động vốn của NHTM
Vốn ngân hàng là những giá trị tiền tệ do doanh nghiệp tạo lập hoặc huy
động được để cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Nó được biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình, vô hình, tài sản tài chính được đầu tư
vào các hoạt động kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận. Nguồn vốn của ngân hàng
thương mại bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và một số loại vốn
khác. Vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn ngân hàng
nhưng cũng có vai trò quan trọng. Nó quyết định vị trí, quy mô cũng như khả năng
cho vay, đầu tư của ngân hàng, mặt khác nó còn là cơ sở để thu hút các nguồn vốn
khác và giữ vai trò chống đỡ rủi ro phá sản cho ngân hàng. Tuy vậy, nguồn vốn huy
động được mới là nguồn tài nguyên quan trọng tạo nên sự thịnh vượng cho ngân
hàng.
Nguồn vốn huy động được là đầu vào sống còn đối với ngân hàng. Đây là
nguồn vốn chính để tài trợ cho các khoản cho vay, đầu tư, cung cấp dịch vụ… tạo
lợi nhuận nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM, là số tiền mà NHTM
có được từ các nghiệp vụ nhận tiền gửi, đi vay và các nghiệp vụ khác. Nguồn vốn
huy động được biểu hiện trên bảng cân đối kế toàn là các tài khoản tiền gửi thanh
toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá, vay NHNN và
tổ chức tín dụng khác, các nguồn khác…

1.3. Hoạt động sử dụng vốn và cung cấp dịch vụ
Ngân hàng chủ yếu sử dụng nguồn vốn mà mình huy động được để cho vay,
đầu tư... nhằm sinh lãi, một phần trả lãi cho các khoản đã vay, bù đắp chi phí hoạt
động, còn lại là lợi nhuận của ngân hàng. Các cách đầu tư, cho vay... hình thành nên
tài sản có của NHTM. Tài sản có của NHTM bao gồm:

Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

11


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
1.3.1. Hoạt động sử dụng vốn

Chương 1: Những vấn đề…

• Ngân quỹ
Đây là nghiệp vụ nhằm đáp ứng khả năng thanh toán của ngân hàng, nó bao
gồm các khoản tiền của dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán. Ngân hàng luôn phải dự
trữ một lượng tiền nhất định để có thể hoàn trả cho khách hàng đến rút tiền, phục vụ
nhu cầu thanh toán của họ. Ngân quỹ là khoản tiền không sinh lãi hoặc sinh lời rất
thấp nhưng NHTM vẫn phải dự trữ do quy định của NHNN và để đảm bảo an toàn
cho chính mình. Do đó mỗi ngân hàng cần đưa ra phương án quản lý ngân quỹ cho
từng thời điểm vừa để đảm bảo tính an toàn và sinh lợi cho ngân hàng. Các NHTM
thường phân loại ngân quỹ thành:
- Tiền mặt trong két
Các NHTM thường dự trữ một lượng tiền mặt nhất định tại két của mình
hàng ngày để chi trả cho các khoản tiền rút bất ngờ của khách hàng. Các khoản tiền
dự trữ này bao gồm nội tệ, ngoại tệ thậm chí kim loại quý. Tiền mặt tại két không
mang lại thu nhập cho ngân hàng, chỉ mang tính đảm bảo an toàn, thậm chí còn phải

đi kèm các chi phí bảo quản, thu đếm...
- Tiền gửi tại ngân hàng khác
Ngoài tiền mặt tại két, NHTM còn phải gửi tiền tại NHNN theo quy định và
các tổ chức tín dụng khác theo nhu cầu. NHTM ký gửi tại NHNN để đảm bảo yêu
cầu an toàn theo quy định của luật Ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng có thể gửi thêm
để phục vụ thanh toán toán bù trừ liên ngân hàng. Tiền gửi dự trữ bắt buộc tại
NHNN không phải lúc nào cũng phải bằng với lượng tiền yêu cầu, có thể thấp hơn
mức bắt buộc. Tuy vậy, NHTM cần nhanh chóng bù đắp lượng thiếu hụt này trong
thời gian sớm nhất, trong trường hợp khẩn thiết có thể phải vay các ngân hàng khác,
bán bớt chứng khoán đang nắm giữ, vay chính NHNN… để bù đáp thiếu hụt.
• Chứng khoán
Đầu tư vào chứng khoán rất phổ biến ở các nước đã phát triển, hiện nay các
NHTM ở Việt Nam cũng đang đa dạng hóa tài sản bằng việc nắm giữ các loại
chứng khoán khác nhau. Các loại chứng khoán có thể phân ra làm hai mục lớn. Một
là các chứng khoán mang lại thu nhập chính cho NHTM, nó chỉ xếp sau các khoản
cho vay. Hai là các chứng khoán mang tính thanh khoản cao. Các loại chứng khoán
thanh khoản thường an toàn, dễ bán, ít giảm giá nhưng lại có tỷ lệ sinh lời thấp.
trong khi đó những chứng khoán đầu tư lại khó bán, rủi ro cao nhưng mang lại thu
nhập tương đối cho ngân hàng. Thông thường các NHTM nắm giữ chứng khoán
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

12


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
thanh khoản vì mục tiêu an toàn. Điều này có nghĩa là các NHTM bán các chứng
khoán này để bổ sung ngân quỹ trước khi đến hạn đảm bảo tính thanh khoản cho
ngân hàng. Các chứng khoán thanh khoản như chứng khoán ngắn hạn của chính
phủ, giấy nợ ngắn hạn của ngân hàng uy tín, hoặc các công ty tài chính nổi tiếng.

Còn các loại chứng khoán trung và dài hạn được các NHTM nắm giữ đến ngày đáo
hạn để tìm kiếm lợi nhuận.
Ngoài việc đầu tư vào chứng khoán trên, NHTM còn đầu tư vào các cổ
phiếu, trái phiếu công ty, thậm chí nếu được cho phép có thể thành lập công ty và
tham gia vào hội đồng quản trị. Mục đích của NHTM tham dự vốn vào các công ty
sẽ giúp ngân hàng nắm được tình hình hoạt động và thực hiện các nghiệp vụ tín
dụng một cách an toàn.
• Tín dụng
Đây được coi là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho NHTM,
phản ánh hoạt động đặc thù của ngân hàng. Kinh tế tài chính ngày càng phát triển
khiến quy mô và các hình thức tín dụng trở nên đa dạng, phong phú. Tín dụng được
hiểu là hành vi của một người trao vốn cho người khác với cam kết sẽ hoàn lại số
tiền cho vay và lãi trong một thời gian nhất định. Có thể có nhiều cách định nghĩa
về tín dụng khác nhau nữa, như theo Luật tổ chức tổ tín dụng Việt Nam định nghĩa:
“Hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và
một số hoạt động khác do Ngân hàng Nhà nước quy định”. Từ đó hình thành nên
khái niệm quan hệ tín dụng, đó là quan hệ hình thành trên cơ sở giữa nơi thừa và
nơi thiếu vốn được xây dựng trên ba nguyên tắc: có thời hạn, có hoàn trả và có đền
bù. Hoạt động tín dụng chiếm một tỷ trọng lớn trong tài sản của ngân hàng, trong đó
tín dụng ngắn hạn có tỷ lệ cao hơn cả.
Có nhiều cách phân loại tín dụng. Nếu phân loại theo thời hạn thì tín dụng
chia làm tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn
có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, nó thường tài trợ cho tài sản lưu động. Các
khoản tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 đến 5 năm, tín dụng dài hạn có thời hạn
trên 5 năm, chúng thường tài trợ cho tài sản cố định. Tín dụng còn được phân loại
theo hình thức tài trợ bao gồm: cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh… Trong đó,
cho vay là ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết được hoàn trả cả gốc lẫn
lãi. Chiết khấu thương phiếu là việc khách hàng mang thương phiếu chưa đáo hạn
đến ngân hàng xin ứng trước tiền. Ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê được gọi là nghiệp vụ cho thuê (leasing). Còn bảo lãnh là khi ngân hàng cam

kết thực hiện nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Ngoài ra, người ta có thể
phân loại tín dụng theo hình thức đảm bảo. Khi đó, tín dụng được chia thành tín
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

13


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
dụng có tài sản đảm bảo và tín dụng không có tài sản đảm bảo. Tín dụng có đảm
bảo là những khoản tín dụng được đảm bảo bằng uy tín của khách hàng, của người
thứ ba hoặc cầm cố, thế chấp của người xin vay. Tín dụng không có tài sản đảm bảo
là khoản tín dụng cấp cho khách hàng mà không yêu cầu có tài sản đảm bảo hay
cam kết đảm bảo. Bên cạnh đó, người ta còn có thể phân loại tín dụng theo các cách
khác nhau như độ rủi ro, đối tượng, mục đích.
• Hùn vốn kinh doanh
Là việc NHTM dùng tiền của mình tham gia thành lập, làm ăn với các công
ty, tổ chức tín dụng khác. Đây là hình thức đầu tư dễ mang lại lợi nhuận lớn đồng
thời cũng dễ dẫn đến thua lỗ. Ở các nước đang phát triển như nước ta, tỷ lệ của
phần hùn vốn kinh doanh trên tổng tài sản rất thấp, thậm chí bằng không.
Ngoài ra, vốn của ngân hàng còn được sử dụng để mua sắm thiết bị, xây
dựng chi nhánh, phòng ban…
1.3.2. Các dịch vụ của ngân hàng
Ngân hàng được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, tại các tổ
chức tín dụng khác. NHTM có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân
hàng Nhà nước và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt
buộc do Ngân hàng Nhà nước quy định. Ngân hàng thương mại được mở tài khoản
cho khách hàng trong nước và ngoài nước. Khách hàng được chọn một ngân hàng
để mở tài khoản giao dịch chính.
Về Dịch vụ thanh toán, Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ

thanh toán như: Cung ứng các phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán
trong nước cho khách hàng; thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân
hàng Nhà nước cho phép; thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ; thực hiện các dịch
vụ thanh toán khác do Ngân hàng Nhà nước quy định. Dịch vụ ngân quỹ NHTM
được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. NHTM tham gia các
hệ thống thanh toán, ngân hàng được tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham
gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống
thanh toán quốc tế phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
1.4. Hiệu quả huy động vốn
1.4.1. Khái niệm về hiệu quả huy động vốn
Hoạt động đầu tư của các nước đang phát triển cũng như đã phát triển vẫn
luôn tình trạng “khát vốn”. Các nhà đầu tư ở nước phát triển tìm vốn để đầu tư ở thị
trường mới, còn các nước đang phát triển thực sự thiếu vốn đầu tư cho “những miền
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

14


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
đất hứa”. Một trong những kênh dẫn vốn của họ là đi vay các NHTM. Khi tìm đến
ngân hàng, họ luôn mong muốn được đáp ứng kịp thời, đầy đủ với chi phí hấp dẫn.
Tuy nhiên trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, các ngân
hàng thường xuyên phải đối mặt với nguồn tiền ngày càng khan hiếm. Vì vậy mà
các NHTM luôn phải tìm kiếm các nguồn tiền mới để bổ sung vào nguồn vốn của
mình. Điều này có nghĩa là một mặt các ngân hàng phải duy trì và phát triển các sản
phẩm truyền thống, mặt khác NHTM phải tìm tới thị trường tiền tệ và thị trường
vốn để tăng cường khả năng huy động vốn. Ngược lại, khi khách hàng tìm đến ngân
hàng gửi tiền, họ trông đợi ở ngân hàng là sản phẩm đa dạng, lãi suất tốt nhất, uy tín
và chất lượng phục vụ cao… Có thể nói ngân hàng hiện nay luôn phải đưa ra các kế

hoạch để huy động được vốn nhanh nhất, tốt nhất đáp ứng cho các khoản cho vay,
đầu tư hiệu quả. Tất cả đều để đạt mục đích tạo lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng,
nâng cao giá trị ngân hàng. Một ngân hàng năng động, phát triển vững mạnh là
ngân hàng làm tốt những hoạt động trên, nó thể hiện rõ nét nhất qua hiệu quả huy
động vốn.
“Hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu
sử dụng vốn của ngân hàng, đó chính là đáp ứng một cách đầy đù, kịp thời và chính
xác nhu cầu sử dụng vốn với một chi phí hợp lý”.
Bao giờ cũng vậy, khi nhắc đến hiệu quả, chúng ta luôn phải so sánh giữa
kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh kết quả và chi phí, ta thường so sánh
dưới dạng thương số, chi phí/kết quả hoặc kết quả/chi phí. Ta không thể đánh giá
chỉ tiêu hiệu quả qua hiệu số của kết quả và chi phí. Bởi chênh lệch giữa thu nhập
và chi phí chỉ cho ta biết lợi nhuận gộp của ngân hàng, từ lợi nhuận gộp có thể xác
định được lợi nhuận ròng của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động
của ngân hàng trong một thời kỳ.
1.5. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn
NHTM là một trung gian tài chính, có mối quan hệ ràng buộc với các chủ thể
khác trong nền kinh tế. Hoạt động của nó chủ yếu là huy động tiền để cho vay, đầu
tư và thực hiện các dịch vụ khác cho nên NHTM chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các
chủ thể. Và cũng giống các chủ thể khác trong nền kinh tế, những yếu tố nội tại của
ngân hàng cũng tác động nhiều đến khả năng huy động vốn của mình. Do đó, các
nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng được chia thành hai
nhóm cơ bản là nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.

Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

15


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng

1.5.1. Nhân tố khách quan

Chương 1: Những vấn đề…

1.5.1.1. Hành lang pháp lý
Cũng như các tổ chức kinh tế khác, hoạt động của NHTM cũng phải chịu sự
quản lý chặt chẽ của pháp luật để đảm bảo công bằng. Chính phủ, NHNN và các bộ
ngành liên quan ban hành luật, quy định, nghị định… buộc các NHTM phải tuân
theo và giám sát việc tuân thủ pháp luật. Nó ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động
vốn của NHTM. Những bộ luật ảnh hưởng trực tiếp đến NHTM như: luật các tổ
chức tín dụng, luật Ngân hàng nhà nước, Quyết định phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng, Quyết định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong ngân hàng… Ngoài ra,
có những luật tác động gián tiếp đến NHTM như Luật đất đai, Luật đất đai, Luật
doanh nghiệp…
Không những chịu tác động của bộ luật, NHTM còn chịu tác động của chính
sách tiền tệ của nước đó, nó tác động trực tiếp đến nghiệp vụ huy động vốn của
NHTM cũng như ảnh hưởng lớn đến hiệu quả huy động vốn. Đó là khi NHNN sử
dụng công cụ của chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu của chính tiền tệ quốc gia.
Ví dụ khi Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất tái chiết khấu, làm cho giá của khoản
vay tăng, làm tăng lãi suất huy động, khuyến khích tiết kiệm, ngân hàng dễ dàng
huy động hơn.
1.5.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng, phát triển ổn định qua các
năm với tỷ lệ lạm phát ở trong định mức sẽ làm thu nhập của người dân và các nhu
cầu về vốn của doanh nghiệp tăng lên. Nó quyết định đến nhu cầu gửi tiền từ đó tác
động đến hoạt động huy động vốn của NHTM.
Nền kinh tế trong nước tăng trưởng ổn định làm thu nhập bình quân đầu
người tăng lên, ổn định tạo điều kiện cho người dân tích lũy nhiều hơn, làm tăng
nguồn tiền cung ứng cho ngân hàng. Như vậy nguồn vốn của ngân hàng huy động
được sẽ dồi dào, ổn định. Đồng thời nó cũng khiến cho các nhu cầu vay vốn đầu tư

của ngân hàng cũng như thành phần kinh tế khác được mở rộng. Từ đó nâng cao
hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, bất ổn
thì gây tác động xấu đến khả năng huy động vốn của ngân hàng.
Mặt khác, hiện nay quá trình toàn cầu hóa đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền
kinh tế của một nước. Nó mang đến nhiều cơ hội đầu tư, phát triển đồng thời cũng
có nhiều ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Do đó, nó
cũng ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Quá trình này khiến cho việc luân
chuyển vốn từ nước này sang nước khác trở nên dễ dàng, thuận tiện, mở rộng nhiều
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

16


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
cơ hội đầu tư, làm ăn sinh lợi. Tất nhiên sự bất ổn của nền kinh tế thế giới cũng tạo
áp lực đối với trong nước. Điển hình là cuộc suy thoái kinh tế năm 2008, sự sụp đỗ
hàng loạt của các ngân hàng lớn trên thế giới đã gây nên khó khăn cho các ngân
hàng trong nước. Khi mà tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước giảm sút, thu nhập
của người dân thấp, rất nhiều các tổ chức kinh tế bị phá sản, dẫn đến nhu cầu gửi
tiền, sử dụng dịch vụ của ngân hàng hạn chế hơn. Ngân hàng rất khó khăn trong huy
động vốn từ dân cư, các tổ chức sản xuất kinh doanh.
1.5.1.3. Tâm lý, thói quen của khách hàng
Đối với khách hàng, việc lựa chọn ra một ngân hàng uy tín để mở tài khoản
giao dịch, gửi tiền… là công việc rất tốn kém. Do vậy khách hàng thường tập trung
giao dịch tại một ngân hàng nhất định. Tiền gửi được coi là cơ sở cho các khoản
cho vay, ủy thác và các dịch vụ khác. Mỗi chủ thể trong nền kinh tế sẽ có những
quyết định lựa chọn ngân hàng uy tín theo một tiêu chí khác nhau. Với các cá thể,
hộ gia đình mở tài khoản giao dịch thường quan tâm đến yếu tố địa điểm giao dịch
thuận lợi, các dịch vụ ngân hàng đa dạng, an toàn, lệ phí thấp sau cùng mới là lãi

suất tiền gửi cao. Trong khi đó, khi hộ gia đình lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản
tiết kiệm, họ quan tâm trước nhất là uy tín ngân hàng, sau đó mới đến lãi suất, các
yếu tố khác như dịch vụ đi kèm, lệ phí chỉ là thứ yếu. Đối với tổ chức kinh tế, khi
quyết định lựa chọn mở tài khoản tiền gửi giao dịch, sử dụng dịch vụ khác của ngân
hàng, họ rất quan tâm theo thứ tự giảm dần như sau: khả năng tài chính của ngân
hàng, khả năng cho vay, chất lượng cán bộ, lãi suất… Có thể nói rằng lãi suất
không phải yếu tố quyết định của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng cũng như
lựa chọn ngân hàng để giao dịch. Ngoài ra đối với từng quốc gia, từng thời điểm thì
khách hàng lại có nhu cầu gửi tiền khác nhau. Việt Nam thường có thói quen sử
dụng tiền mặt, nhất là vào các dịp lễ tết. Nghiên cứu tâm lý khách hàng là một công
việc quan trọng cho ngân hàng nếu muốn nâng cao hiệu quả huy động vốn.
1.5.1.4. Sự cạnh tranh của các đối thủ
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành ngân hàng trong nước cũng như sự gia
nhập của ngân hàng nước ngoài làm cho sức ép đối với NHTM ngày càng gia tăng.
Sức cạnh tranh gay gắt buộc các ngân hàng phải luôn đổi mới, phát triển sản phẩm,
công nghệ, chất lượng phục vụ để chiến thắng đối thủ. Khi rào càn gia nhập thị
trường thấp, các ngân hàng mới mở, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài có lợi thế
của người đi sau như: công nghệ, tiềm lực, kinh nghiệm học hỏi từ những ngân
hàng đang hoạt động, thống kê và dự báo thị trường… Vì vậy các ngân hàng hiện
tại càng cần phải chú ý tới chất lượng và đa đạng sản phẩm, uy tín và thương hiệu
đang có, mở rộng mạng lưới chi nhánh, điểm giao dịch, nâng cao chất lượng phục
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

17


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
vụ, chính sách lãi suất hợp lý… để có thể duy trì và phát triển khách hàng mới, cạnh
tranh với các ngân hàng khác.

1.5.2. Nhân tố chủ quan
1.5.2.1. Quy mô, uy tín của ngân hàng
Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh như hiện nay, uy tín giúp ngân
hàng đứng vững, phát triển trên thị trường. Uy tín của ngân hàng được gây dựng
nhờ vào hoạt động kinh doanh ổn định, lợi nhuận cao, đội ngũ nhân viên có năng
lực, nhiệt tình, có khả năng sẵn sàng thanh toán, cho vay khi khách hàng có nhu
cầu… Ngoài ra những yếu tố như cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng, mạng lưới
chi nhánh trải rộng cũng tạo nên uy thế cho ngân hàng trên thương trường. Với
những uy tín mà ngân hàng tạo dựng được sẽ chiếm được lòng tin của khách hàng,
vì thế mà họ yên tâm khi gửi tiền, giao dịch vào ngân hàng. Từ đó, ngân hàng uy tín
thường có những khoản tiền gửi với khối lượng lớn, kỳ hạn dài và ổn định.
1.5.2.2. Mạng lưới hoạt động của ngân hàng
Đối với khách hàng có tiền gửi, ngân hàng có các chi nhánh, phòng giao dịch
của ngân hàng trải rộng, thuận tiện sẽ được khách hàng ưu tiên sử dụng. Các chi
nhánh, phòng giao dịch… Nhờ vào mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch này mà
các sản phẩm dịch vụ được quảng bá rộng rãi đến khách hàng, ngược lại khách hàng
rất thuận lợi tiếp cận kênh sản phẩm, dịch vụ, chương trình huy động… của ngân
hàng. Từ đó, ngân hàng sẽ có cơ hội tập trung những nguồn vốn nhỏ lẻ, phân tán từ
tầng lớp dân cư đến các tổ chức kinh tế - xã hội. Đồng thời ngân hàng có thể tiếp
cận với khách hàng, nghiên cứu sâu hơn về tâm lý của họ để đáp ứng một cách tốt
nhất. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần cân nhắc giữa mở rộng chi nhánh, phòng giao
dịch với lợi nhuận dự tính thu về hàng năm.
1.5.2.3. Công nghệ ngân hàng
Sự phát triển của công nghệ tin học đã giúp cho hoạt động ngân hàng ngày
càng phát triển. Có thể nói công nghệ ngân hàng hiện đại đã giúp cho phần nào thói
quen ưa dùng tiền mặt của người dân thay đổi dần dần. Máy rút tiền tự động ATM,
home banking, mobile banking,… đã giúp cho ngân hàng cung cấp đến khách hàng
dịch vụ tiện ích như kiểm tra tài khoản, chuyển tiền, rút tiền tự động một cách
nhanh chóng, chuẩn xác. Điều kiện tiện nghi khiến khách hàng mở các tài khoản
tiền gửi và sử dụng dịch vụ của ngân hàng nhiều hơn, qua đó ngân hàng có thể huy

động nguồn tiền giá rẻ. Công nghệ ngân hàng phát triển giúp ngân hàng tiết kiệm
thời gian, chi phí giao dịch với khách hàng. Công nghệ ngân hàng cho phép ngân
hàng và cả khách hàng tìm hiểu thông tin chính xác, nhanh chóng, để ngân hàng
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

18


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
giảm thiểu rủi ro đạo đức, khách hàng hiểu rõ về các loại sản phẩm, dịch vụ ngân
hàng cung cấp mà không phải trực tiếp đến ngân hàng. Công nghệ ngân hàng là yếu
tố tạo nên sức cạnh tranh cho ngân hàng. Trình độ công nghệ càng cao càng đáp ứng
tốt cho yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, nâng cao uy tín cho ngân hàng. Từ đó
ngân hàng càng có nhiều cơ hội huy động vốn với quy mô lớn và chi phí hợp lý.
1.5.2.4. Chiến lược sử dụng vốn của ngân hàng
Khi nói đến hiệu quả huy động vốn là nói đến sự phù hợp với kế hoạch,
chiến lược sử dụng vốn. Sử dụng vốn là mục tiêu của hoạt động vốn, định hướng
cho chiến lược huy động vốn của ngân hàng. Với kế hoạch sử dụng vốn đề ra, phù
hợp với khả năng huy động sẽ quyết định quy mô, cơ cấu của nguồn vốn, cũng như
chi phí huy động phải hợp lý để đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng xác
định kế hoạch sử dụng vốn, từ đó ngân hàng xây dựng kế hoạch nguồn vốn phù
hợp, đảm bảo đáp ứng đầy đủ và kịp thời cho nhu vầu vốn. Bới nếu không đủ vốn
sẽ khiến ngân hàng phải huy động ở nguồn vốn chi phí cao, hoặc có thể không thể
vay thêm sẽ dẫn đến mất uy tín ngân hàng, giảm lợi nhuận, mất uy tín với khách
hàng…
1.5.2.5. Chính sách lãi suất
Lãi suất là yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngân hàng để gửi tiền, nhất là
đối với người dân có nhu cầu gửi tiền tiết kiệm. Ngoài việc lựa chọn ngân hàng uy
tín và chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm, khách hàng cũng rất quan tâm đến lãi

suất của các khoản tiền gửi. Lãi suất huy động cũng tác động đến quy mô, cơ cấu và
chi phí của huy động vốn. Do đó ngân hàng cần phải đưa ra mức lãi suất huy động
phù hợp với kỳ hạn, số dư, đối tượng khách hàng… để có thể huy động vốn đáp ứng
cho nhu cầu sử dụng vốn của mình. Chính sách lãi suất phù hợp phải vừa đảm bảo
được lợi nhuận cho ngân hàng vừa thu hút được lượng tiền gửi từ khách hàng, góp
phần duy trì và thu hút khách hàng.
1.5.2.6. Sự đa dạng của sản phẩm, dịch vụ
Trong môi trường cạnh tranh cao như hiện nay, ngân hàng càng có sản
phẩm, dịch vụ đa dạng thì càng thu hút được nhiều khách hàng. Các ngân hàng hiện
nay thường đưa ra các gói sản phẩm đi kèm với những tiện ích khác như khuyến
mãi, chi phí ưu đãi hoặc phát triển thành một dạng sản phẩm mới như tiền gửi kỳ
hạn rút gốc linh hoạt, tiết kiệm lãi suất thả nổi, tiền gửi thanh toán lãi suất bậc
thang… Sự đa dạng trong sản phẩm, dịch vụ ngân hàng càng cao càng đáp ứng tốt
nhu cầu khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng hơn. Cho nên ngân hàng cần có

Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

19


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng
Chương 1: Những vấn đề…
chính sách đa dạng hóa phù hợp để nâng cao tính cạnh tranh, cũng như đảm bảo an
toàn, ổn định nguồn vốn.
1.5.2.7. Năng lực, trình độ cán bộ, nhân viên ngân hàng
Đội ngũ nhân viên ngân hàng càng có kiến thức sâu rộng không chỉ về ngân
hàng mà còn về kiến thức kinh tế - xã hội, tác phong chuyên nghiệp, năng động,
nhiệt tình sẽ tạo được lòng tin khi giao tiếp với khách hàng. Đối với nhân viên
thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp sẽ khiến
khách hàng yên tâm hơn về ngân hàng mà mình lựa chọn, người gửi tiền hiểu hơn

sản phẩm, dịch vụ mà nhân viên ngân hàng tư vấn. Do đó mà lượng tiền gửi nhiều
hơn, với thời gian ổn định, giúp ngân hàng có thể quản lý tốt nguồn vốn huy động.
Còn đối với cán bộ quản lý, với kiến thức sâu rộng, khả năng phân tích sâu sắc, có
tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp sẽ là cơ sở cho việc phát triển ngân
hàng ở tầm cao mới. Có thể nói đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp là một lợi
thế cạnh tranh của ngân hàng, không chỉ giúp ngân hàng hoạt động trơn tru mà còn
là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của ngân hàng.
1.5.2.8. Hoạt động marketing ngân hàng
Khi thâm nhập vào thị trường, chiến lược Marketing ngân hàng là để đạt
được mục tiêu tốt nhất về vốn cũng như các dịch vụ khác của NHTM với từng
nhóm khách hàng riêng biệt. Marketing ngân hàng tạo nên sự khác biệt cho ngân
hàng, khi mà các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đơn điệu, khách hàng khó phân biệt
sản phẩm của ngân hàng này với ngân hàng khác. Hoạt động Marketing ngân hàng
định hướng hoạt động cho ngân hàng, nó nghiên cứu biến đổi thị trường nhằm đưa
ra những giải pháp về sản phẩm, dịch vụ cho ngân hàng, nhằm thu hút khách hàng.
Hoạt động Marketing đưa ra các chiến lược về lãi suất, chính sách giao tiếp –
khuyếch trương, chính sách phân phối,… Tất cả đều giúp cho sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng đến gần hơn với khách hàng, giúp họ hiểu hơn về ngân hàng và các sản
phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Từ đó hoạt động Marketing giúp nâng cao hiệu quả
hoạt động ngân hàng nói chung và huy động vốn nói riêng.

Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

20


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng

Chương 2: Thực trạng…


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦNSÀI GÒN HÀ NỘI
2.1. Khái quát về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Hà Nội
2.1.1. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Sài Gòn Hà Nội
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Hà Nội có tên giao dịch quốc tế là
Vietnam Joint Stock Comercial Bank for Industry and Trade, và tên viết tắt là SHB.
NHCT có trụ sở chính tại 108 Trần Hưng Đạo, Hà Nội.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Hà Nội (SHB) được thành lập từ
năm 1988, trên cơ sở tách ra từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là một trong bốn
Ngân hàng Thương mại Nhà nước lớn nhất của Việt Nam, và được xếp hạng là một
trong 23 doanh nghiệp đặc biệt của Việt Nam. Hệ thống mạng lưới của SHB gồm
Trụ sở chính, hai Văn phòng Đại diện, 2 Sở Giao dịch lớn (Tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh), 137 chi nhánh, 150 phòng giao dịch, 425 điểm giao dịch và quỹ
tiết kiệm, 400 máy rút tiền tự động (ATM), Trung tâm Công nghệ Thông tin (tại Hà
Nội), Trường Đào tạo & Phát triển nguồn nhân lực (tại Hà Nội). SHB còn là chủ sở
hữu các công ty con: Công ty Cho thuê Tài chính NHCT, Công ty TNHH Chứng
khoán NHCT và Công ty Quản lý và Khai thác tài sản NHCT. SHB là đồng sáng
lập và là cổ đông chính trong Indovina Bank, Công ty Cho thuê Tài chính Quốc tế
Việt Nam (VILC), Công ty Liên doanh Bảo hiểm Châu Á (IAI), Công ty Chuyển
mạch Tài chính quốc gia Việt Nam. SHB có quan hệ ngân hàng đại lý với hơn 800
ngân hàng tại hơn 80 quốc gia, có thể đi bằng điện Swift có gắn mã khoá thẳng trực
tiếp tới 18.377 ngân hàng, chi nhánh và văn phòng của họ trên toàn cầu. SHB là
thành viên chính thức của Hiệp hội các Ngân hàng Châu Á (ABA), Hiệp hội các
Ngân hàng Việt Nam (VNBA), Hiệp hội Thanh toán Viễn thông liên ngân hàng
toàn cầu (SWIFT), Hiệp hội thẻ Visa/ Master, Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI), Hiệp hội các Định chế tài chính APEC cho vay, Doanh nghiệp
vừa và nhỏ, hiệp hội các Doanh nghiệp vửa và nhỏ Việt Nam.
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH


21


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng

Chương 2: Thực trạng…

Sự phát triển của SHB hiện nay thể hiện ở mạng lưới phân phối rộng khắp cả
nước cũng như nước ngoài. Sự ra đời của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn
Hà Nội là minh chứng cho bước đường phát triển hoạt động của Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Sài Gòn Hà Nội. Chi nhánh NHCT Tây Hà Nội là chi nhánh thứ 12
trên địa bàn thành phố Hà Nội và là chi nhánh thứ 132 trong hệ thống NHCT
(SHB). Chi nhánh được thành lập theo quyết định số 054/ QĐ- HĐQT-NHCT vào
ngày 24 tháng 2 năm 2006, trên cơ sơ nâng cấp phòng giao dịch Cầu Diễn của SHB
Cầu Giấy và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 2 tháng 5 năm 2006. Trụ sở của
chi nhánh đặt tại số 72A đường Hồ Tùng Mậu - Từ Liêm - Hà Nội. Chi nhánh Cầu
Diễn là đơn vị trực thuộc SHB, hạch toán phụ thuộc, có con dấu riêng, tổ chức và
hoạt động theo Quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh SHB.
Chi nhánh xác định hướng phát triển theo mô hình của một ngân hàng hiện
đại, là đơn vị cung cấp các dịch vụ của ngân hàng bán lẻ và phục vụ mọi đối tượng
khách hàng. Với những nỗ lực không ngừng, chi nhánh Tây Hà Nội phát triển
nguồn nhân lực, mở rộng và phát triển mạng lưới, đưa ra nhiều phương án tích cực
phát triển sản phẩm mới nhằm nâng cao khả năng hoạt động, đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của khách hàng, đạt được mục tiêu đã đề ra. Chi nhánh Tây Hà Nội là một trong
64 chi nhánh xuất sắc theo quyết định 012/QĐ-HĐQT-NHCT.
Tuy thời gian hoạt động chưa lâu, nhưng bộ máy hoạt động của chi nhánh
cũng như các tổ chức đoàn thể đã dần bổ sung, phát triển và vững mạnh. Tập thể
cán bộ, nhân viên trong chi nhánh hầu hết có tinh thần đoàn kết, đấu tranh, phê bình
trong nội bộ nhằm đạt được tinh thần đoàn kết đích thực và cùng nhau rút ra kinh

nghiệm, tư tưởng phấn đấu trong bước đường tiếp theo.
2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức hoạt động của Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Sài Gòn Hà Nội
Chi nhánh thực hiện mô hình tổ chức phù hợp với quy định của pháp luật và
đặc điểm môi trường kinh doanh, tập quán của Việt Nam, và đáp ứng những yêu
cầu quản lý NHTM hướng theo thông lệ, chuẩn mực. Chi nhánh luôn nỗ lực tìm ra
con đường phát triển riêng, tạo bước đột phá nhằm nâng cao sức cạnh tranh, chất
lượng phục vụ khách hàng, đáp ứng yêu cầu quản lý và quản trị rủi ro. Chi nhánh
tập trung, phân rõ chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban, các khối trực thuộc
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

22


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng

Chương 2: Thực trạng…

đặc biệt là các khối nghiệp vụ trực tiếp liên quan đến hoạt động kinh doanh, vừa
đảm bảo tính liên kết vừa phân rõ trách nhiệm quản lý nhằm mục tiêu quản trị điều
hành quản lý tập trung.

Sơ đồ tổ chức của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Hà Nội

Các phòng tại SHB Tây Hà Nội


Phòng kế toán – Ngân quỹ




Phòng kế hoạch tổng hợp



Phòng tổ chức hành chính



Phòng tiền tệ và kho quỹ



Phòng thông tin và điện toán



Các phòng quan hệ khách hàng



Phòng thanh toán quốc tế



Phòng thẻ



Các phòng giao dịch


Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

23


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng

Chương 2: Thực trạng…

2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gòn Hà Nội
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn của Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Sài Gòn Hà Nội giai đoạn 2006 – 2009
Đơn vị: tỷ đồng
Năm2006
STT

Chỉ tiêu

Tổng Nguốn vốn
huy động

Năm 2007

Năm 2009

Thực
hiện



cấu
(%)

Thực
hiện


cấu
(%)

Thực
hiện


cấu
(%)

Thực
hiện


cấu
(%)

687

100


1089

100

1449

100

1920

100

Tốc độ tăng trưởng
I

Năm 2008

58.5

33.0

32.6

Phân loại theo thời hạn huy động

1

Tiền gửi ngắn hạn

412


60

283

26

355

24.5

475

24.8

2

Tiền gửi trung hạn

180

26.2

536

49.2

805

55.6


1055

54.9

3

Tiền gửi dài hạn

95

13.8

270

24.8

289

19.9

390

20.3

II

Phân loại theo loại tiền

1


Tiền gửi VNĐ

650

94.6

1030

94.6

1383

95.4

1844

96

2

Tiền gửi ngoại tệ

37

5.4

59

5.4


66

4.6

76

4

III

Phân loại theo đối tượng huy động

1

Tiền gửi dân cư

106

15.4

196

18

293

20.2

395


20.6

2

Tiền gửi các tổ
chức kinh tế

581

84.6

893

82

1156

79.8

1525

74.4

(Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn
Hà Nội)
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Hà
Nội những năm qua đã có sự phát triển vượt bậc, năm 2007 đạt 1089 tăng 59% so
với năm 2006, năm 2008 đạt 1449 tăng 33% so với năm 2007, năm 2009 đạt 1920
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH


24


Báo cáo thực tập tốt nghiệp cao đẳng

Chương 2: Thực trạng…

tăng 33% so với năm 2008. Trong đó nguồn vốn tăng cao nhờ vào tiền gửi của tổ
chức kinh tế.
Tính đến 31/12/2006, nguồn vốn huy động đạt 687 tỷ đồng, trong đó nguồn
ngắn hạn đạt 412 tỷ đồng, chiếm 60%. Nguồn vốn huy động nội tệ đạt 650 tỷ đồng,
tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 581 tỷ đồng.
Tính đến 31/12/2007, nguồn vốn huy động đạt 1089 tỷ đồng trong đó nguồn
tiền huy động tăng gần 59% so với năm 2006, trong đó nguồn tiền ngắn hạn giảm
hẳn, nguồn trung và dài hạn tăng lên, chiếm lần lượt 49.2% và 24.8%. Nguồn tiền
của tổ chức kinh tế cũng tăng 53.7% so với năm 2006, đạt 893 tỷ đồng.
Tính đến 31/12/2008, nguồn vốn huy động đạt 1449 tỷ đồng, tăng 33% so với
năm 2007. Trong đó nguồn vốn nội tệ đạt 1383 tỷ đồng, tăng 353 tỷ đồng so với năm
trước. Trong khi đó, nguồn ngắn hạn và dài hạn tăng nhẹ, nguồn trung hạn tăng 269 tỷ
đồng, nguồn tiền của huy động từ tổ chức kinh tế tăng 53.7% so với năm 2007.
Tính đến 31/12/2009, nguồn vốn huy động đạt 1920 tỷ đồng, tăng xấp xỉ
33% so với năm 2008. Trong đó, nguồn vốn trung hạn vẫn tiếp tục tăng mạnh, tăng
31% so với năm 2008, đạt 1055 tỷ đồng. Nguồn vốn phân loại theo VND đạt 1844
tỷ đồng, chiếm 96% tổng nguồn vốn.
Kết quả đạt được trong năm 2009 vừa có có nhiều yếu tố khách quan thuận
lợi, ảnh hưởng đến kết quả huy động vốn của chi nhánh: nền kinh tế đang dần phục
hồi, trong giai đoạn vượt qua giai đoạn khó khăn, GDP tăng trưởng dương, chiếm
số ít trong những nước ảnh hưởng của cuộc suy thoái tài chính năm 2008, Hội sở
chính đã ra nhiều hình thức huy động vốn, sản phẩm dịch vụ tiện ích cho khách

hàng như huy đọng tiết kiệm bậc thang, rút gốc linh hoạt, tiền kiệm dự thưởng với
nhiều hình thức trả lãi theo tháng, quý, năm, trả lãi trước, trả lãi sau…, phát hành
các loại kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi với nhiều kỳ hạn đa dạng đã góp phần nâng
cao chất lượng, số lượng huy động vốn từ dân.
Trong những năm qua, công tác huy động vốn của Chi nhánh đã đạt kết quả
đáng kể, đặc biệt là việc thay đổi cơ cấu của nguồn vốn. Ngoài việc đa dạng hóa các
hình thức huy động vốn từ dân cư, Chi nhánh còn tìm các biện pháp tăng cường huy
động nguồn tiền nhãn rỗi trong doanh nghiệp, các tổ chức xã hội khác nhằm nâng
cao quy mô nguồn vốn.
2.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Bảng 2.2. Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn
Hà Nội giai đoạn 2006 – 2009
Hoàng Mạnh Hoàng B4VP-TCNH

25


×