Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Sử dụng một số phương tiện trực quan trong dạy học môn nhạc lý phổ thông tại trường cao đẳng sư phạm nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 99 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Âm nhạc là bộ môn nghệ thuật có sức mạnh vô cùng to lớn và phong phú
trong việc thể hiện một cách tinh tế thế giới nội tâm của con người và đời
sống xã hội. Âm nhạc tác động tới con người ngay từ khi mới sinh ra trong
tiếng hát ru của mẹ, âm nhạc có sức mạnh làm cho con người nhận thức cuộc
sống và thêm yêu cuộc sống đặc biệt là với thế hệ trẻ, thế hệ tương lai thì âm
nhạc là môt phương tiện giáo dục và hình thành nhân cách hết sức hiệu quả.
Âm nhạc giúp trẻ tận hưởng một cách đúng đắn cái hay, cái đẹp chứa đựng
trong những âm thanh nhịp điệu…, hình thành nên cơ sở ban đầu của những
cảm xúc thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc lành mạnh. Bồi dưỡng cho trẻ một tâm
hồn trong sáng yêu thương vị tha, biết rung động trước cái đẹp, ngoài ra các
hoạt động âm nhạc như ca hát sẽ giúp trẻ tư tin giao tiếp với bạn bè xung
quanh. Chính vì thế, âm nhạc đã trở thành một môn học trong các nhà trường
từ Mẫu giáo, Tiểu học đến Trung học cơ sở.
Trong trường Tiểu học mục tiêu giáo dục của Âm nhạc nhằm tổ chức các
hoạt động âm nhạc như ca hát, nghe nhạc giúp học sinh tham gia vào các hoạt
động văn nghệ trong trường trong lớp, với cộng đồng để có thể phát triển
nhân cách toàn diện cho các em.
Trong chương trình các lớp1, lớp 2, lớp 3, học sinh được học hát và phát
triển khả năng nghe nhạc. Học sinh các lớp 4, lớp 5 được học hát, phát triển
khả năng nghe nhạc và làm quen với tập đọc nhạc. Để thực hiện tốt những nội
dung trên thì người giáo viên Tiểu học trong giảng dạy môn âm nhạc phải có
kiến thức vững vàng về âm nhạc, biết vận dụng và tổ chức các hoạt động âm
nhạc sao cho phù hợp. Điều đó cho thấy, việc đào tạo một đội ngũ giáo viên
tiểu học có khả năng dạy học môn âm nhạc là hết sức quan trọng.


2


Nhiều năm qua trường CĐSP Nam Định là nơi đào tạo giáo viên tiểu học
trình độ cao đẳng để cung cấp cho gần 30 trường tiểu học trong phạm vi toàn
tỉnh. Sinh viên CĐSP Tiểu học học môn âm nhạc với 3 phân môn Nhạc lý
phổ thông, Đọc - ghi nhạc, Hát.Trong đó, Nhạc lý phổ thông là phân môn có
vị trí rất quan trọng, chiếm 30 tiết trong tổng số 90 tiết của môn âm nhạc. Đó
là lý thuyết cơ bản đầu tiên, cung cấp những kiến thức sơ giản về âm nhạc, là
cơ sở để sinh viên sư phạm Tiểu học tiếp thu các nội dung âm nhạc khác như
Đọc - ghi nhạc, Hát.
Phân môn Nhạc lý phổ thông đòi hỏi người học phải tư duy lôgic và trừu
tượng cao. Nếu chỉ được tiếp cận phân môn Nhạc lý phổ thông bằng lý thuyết
đơn thuần thì người học sẽ gặp khó khăn trong việc ứng dụng những nội dung
đó vào thực hành các hoạt động âm nhạc khác.
Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học khiến cho những khái
niệm trừu tượng trở nên rõ ràng, cụ thể, người học dễ tiếp nhận nhiều hơn nếu
giáo viên chỉ dùng lời nói để giảng dạy. Những hình ảnh, âm thanh sinh động
sẽ làm cho giờ học trở nên hấp dẫn và giúp người học lĩnh hội tri thức một
cách tốt nhất.
Thực tế những năm gần đây, nhiều giáo viên một số bộ môn đã nhận ra
vai trò tích cực của phương pháp trực quan trong dạy học. Một số giáo viên
đã biết vận dụng khá hệu quả các phương tiện dạy học như máy chiếu, bảng
biểu, tranh ảnh… vào quá trình dạy học.
Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông ở hệ
CĐSP Tiểu học tại Nam Định vẫn còn nhiều điều đáng suy nghĩ, băn khoăn.
Dự giờ một số tiết học phân môn Nhạc lý phổ thông cho thấy giáo viên
chuẩn bị bài khá kỹ, trình bày các nội dung lý thuyết khá mạch lạc nhưng
không khí lớp học tương đối trầm lắng, sinh viên ít được thực hành, chủ yếu


3
là nghe ghi và chép, giáo viên chủ yếu là nói, diễn giải, rất ít sử dụng các đồ

dùng dạy học để minh họa...
Tổng hợp phiếu điều tra của 2 khóa sinh viên cao đẳng Tiểu học năm thứ
2 và năm thứ 3, khóa 33 và khóa 34 với khoảng 80 sinh viên, cho thấy trong
giờ dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, giáo viên chỉ dùng bảng, phấn là
chính và sinh viên không thích học tiết học Nhạc lý phổ thông.
Phỏng vấn một số giáo viên dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, được
biết rằng, họ nhận thức được lợi ích của việc sử dụng phương tiện trực quan
dạy học. Tuy nhiên, họ ngại sử dụng vì mất nhiều thời gian chuẩn bị và mang
PTTQ lên lớp, xuống lớp… Có lẽ, đây là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến kết quả học tập phân môn Nhạc lý phổ thông của sinh viên CĐSP
Tiểu học còn chưa cao.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu
"Sử dụng một số phương tiện trực quan trong dạy học môn nhạc lý phổ
thông tại trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định" cho luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ chuyên ngành phương pháp và lý luận dạy học âm nhạc.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến những vấn đề nghiên cứu về lý thuyết âm nhạc, đã có
những công trình của các nhà nhà nghiên cứu âm nhạc, sư phạm âm nhạc.
Phạm Tú Hương, Đỗ Xuân Tùng, Nguyễn Trọng Ánh là những tác giả
của giáo trình “Lý thuyết âm nhạc cơ bản” dành cho hệ Trung học Âm nhạc
chuyên nghiệp, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, năm 2005.
Giáo trình gốm 12 chương, cung cấp một số kiến thức về Lý thuyết âm
nhạc gồm: Khái quát về âm thanh, tiết tấu, nhịp, quãng, điệu thức, hợp âm,
giai điệu, các ký hiệu cách diễn tấu, một số phương pháp xác định giọng, dịch
giọng, chuyển giọng và giới thiệu sơ lược về âm nhạc truyền thống Việt Nam.


4
Phạm Tú Hương, tác giả cuốn“Lý thuyết âm nhạc cơ bản”, Bộ Giáo dục
và Đào tạo, dự án đào tạo giáo viên THCS hệ CĐSP Âm nhạc, Nxb ĐHSP,

năm 2010.
Giáo trình này cung cấp hệ thống lý thuyết âm nhạc gồm: khái quát về
âm thanh, cách ghi âm, nhịp, quãng, một số phương pháp xác định giọng và
chuyển giọng…
Trịnh Hoài Thu chủ biên của giáo trình “Lý thuyết âm nhạc cơ bản”,
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW, năm 2014.
Giáo trình có 10 chương gồm những kiến thức về âm thanh, lối ghi
nhạc, nhịp, giọng, thang âm, điệu thức dân gian, hợp âm, giai điệu, lý thuyết
Âm nhạc đương đại và một số ký hiệu âm nhạc thường dùng.
Hoàng Quốc Khánh, Luận văn tốt nghiệp Cao học Sư phạm Âm nhạc,
2013, Học viện Âm nhạc Huế, “Nâng cao chất lượng giảng dạy môn lý
thuyết âm nhạc cơ bản cho CĐSP Âm nhạc trường CĐVHNT Đăk lăk”,
Đề tài nghiên cứu thực trạng và đưa ra những cải tiến nâng cao chất
lượng giảng dạy môn Lý thuyết âm nhạc cơ bản cho sinh viên hệ CĐSP Âm
nhạc ở trường CĐVHNT Đắk lắk.
Nguyễn Thế Phương, Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ LL&PPDHAN Khóa
1 trường ĐHSP Nhạc họa TW, năm 2014. “Giải pháp nâng cao chất lượng
học môn nhạc lý cho CĐSP Giáo dục Tiểu học, Trường CĐSP Hà Nam”.
Đề tài đề ra những giải pháp nâng cao nhằm tiến tới hoàn thiện và chính
qui hóa môn Nhạc lý trong chuyên ngành Giáo dục Tiểu học của Trường
CĐSP Hà Nam.
Qua các công trình nghiên cứu, luận văn nêu trên, chúng tôi thấy phần
lớn các đề tài đều đi vào vấn đề nâng cao chất lượng giảng dạy môn Nhạc lý
cơ bản. Tuy nhiên chưa có một đề tài nào nghiên cứu việc sử dụng phương
tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông cho sinh viên
CĐSP tiểu học tại Nam Định.
Chúng tôi coi, các nghiên cứu đó là những tư liệu rất bổ ích, cần thiết để
tham khảo và tiếp thu trong quá trình nghiên cứu của mình.



5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương tiện trực quan nhằm nâng cao chất lượng
dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông góp phần hiệu quả vào đào tạo bộ môn
âm nhạc cho sinh viên CĐSP tiểu học Nam Định, hướng tới nâng cao hiệu
quả giáo dục âm nhạc cho học sinh Tiểu học Nam Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu chương trình phân môn Nhạc lý phổ thông trong đào tạo
môn âm nhạc cho sinh viên ở hệ CĐSP tiểu học.
Làm rõ thực trạng sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học phân
môn Nhạc lý phổ thông ở trường CĐSP Nam Định.
Lựa chọn, phân loại một số nhóm phương tiện trực quan cho dạy học
phân môn Nhạc lý phổ thông.
Nghiên cứu đưa ra biện pháp hướng dẫn sử dụng phương tiện trực quan
trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc
lý phổ thông cho sinh viên hệ CĐSP Tiểu học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Biện pháp sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc
lý phổ thông cho hệ CĐSP tiểu học tại Nam Định
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát, dự giờ các tiết dạy học phân môn Nhạc lý phổ
thông để nghiên cứu thực trạng, làm rõ nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy
học còn hạn chế ở phân môn này.



6
- Phương pháp phỏng vấn giáo viên và điều tra bằng phiếu với sinh viên
để tìm hiểu nhận thức của họ về phương tiện trực quan và tình hình sử dụng
phương tiện trực quan trong dậy học phân môn Nhạc lý phổ thông
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết để phân tích, tổng hợp, phân
loại, hệ thống hóa những nội dung có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thống kê để đánh giá kết quả học tập phân môn Nhạc lý
phổ thông trước và sau thực nghiệm.
- Tổ chức thực nghiệm diện hẹp để kiểm chứng bước đầu kết quả nghiên
cứu của đề tài.
6. Những đóng góp của luận văn
Đề tài luận văn đã nghiên cứu, đưa ra biện pháp sử dụng phương tiện
trực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông cho sinh viên hệ CĐSP
Tiểu học tại Nam Định.
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học Âm nhạc cho sinh viên, hướng
tới hiệu quả giáo dục âm nhạc cho học sinh tiểu học Nam Định.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm có hai chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn sử dụng phương tiện trực quan
trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông
Chương 2: Biện pháp sử dụng một số phương tiện trực quan trong dạy
học phân môn Nhạc lý phổ thông ở hệ CĐSP Tiểu học tại
Nam Định.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC
QUAN TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN NHẠC LÝ PHỔ THÔNG

1.1. Nhạc lý phổ thông
1.1.1. Nhạc lý
Âm nhạc là bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh để khắc họa cuộc sống, tư
tưởng, tình cảm…của con người.
Âm thanh trong âm nhạc là mối quan hệ tổng hòa các phương tiện diễn
tả như giai điệu, tiết tấu, hòa thanh, cường độ, nhịp dộ, âm sắc…
Âm nhạc có hệ thống lý luận bao gồm: Lý thuyết âm nhạc, hòa âm, phân
tích tác phẩm, lịch sử âm nhạc…
Lý thuyết âm nhạc gồm những kiến thức về âm thanh, nốt nhạc, trường
độ, tiết tấu, quãng, điệu thức, giọng, hợp âm…
Lý thuyết âm nhạc là môn học cơ bản trong chương trình đào tạo người
hoạt động âm nhạc, giúp cho người học có kiến thức cơ sở để học, tìm hểu về
hòa âm, phân tích tác phẩm, lịch sử âm nhạc…
Sự hình thành lý thuyết âm nhạc có từ rất sớm trong lịch sử phát triển
nghệ thuật âm nhạc. Người ta gọi nó theo ngôn ngữ của mỗi quốc gia, như:
Tiếng Anh: Music theory
Tiếng Pháp: La théorie musicale de base
Tiếng Nga: Основы теории музыки
Tiếng Trung Quốc: Yīnyuè lǐlùn
Tiếng Việt Nam, tên môn học Lý thuyết âm nhạc, xuất phát từ việc dịch
nghĩa từ tiếng nước ngoài. Nó có khá nhiều tên gọi như: Lý thuyết âm nhạc cơ


8
bản, Nhạc lý cơ bản, Nhạc lý, Lý thuyết âm nhạc, Nhạc lý sơ giản, Nhạc lý
phổ thông… Tên gọi và nội dung của nó tùy mức độ sử dụng ở các chương
trình đào tạo khác nhau.
1.1.2. Nhạc lý phổ thông trong đào tạo giáo viên hệ CĐSP Tiểu học
Tại những cơ sở đào tạo người hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp - biểu
diễn âm nhạc, lý luận, phê bình, sáng tác âm nhạc như: Học viện âm nhạc

quốc gia Việt Nam, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh, Đại học nghệ thuật
Huế, Trường ĐH Văn hóa nghệ thuật Quân đội, Nhạc, thì môn học này được
gọi là Lý thuyết âm nhạc.
Ở các hệ đào tạo giáo viên âm nhạc trình độ cao đẳng sư phạm âm nhạc,
trình độ đại học sư phạm âm nhạc thì môn học này có tên gọi là Lý thuyết âm
nhạc cơ bản hoặc Nhạc lý cơ bản.
Trong chương trình đào tạo giáo viên Mầm non và giáo viên Tiểu học hệ
cao đẳng, hệ đại học của nhiều trường, sinh viên các ngành SP Tiểu học và SP
Mầm non được học nhiều môn, trong đó có môn âm nhạc. Một phần của môn
học Âm nhạc, là phân môn Nhạc lý sơ giản hoặc Nhạc lý phổ thông.
Ở hệ CĐSP Tiểu học tại Nam định thì đây là phân môn Nhạc lý phổ
thông, một phần của bộ môn Âm nhạc, trong toàn bộ chương trình đào tạo
giáo viên tiểu học trình độ cao đẳng.
Phân môn Nhạc lý phổ thông trong đào tạo giáo viên CĐSP Tiểu học
gồm những kiến thức âm nhạc khá đơn giản, cần thiết như về âm thanh, độ
cao, độ dài, tiết tấu, nhip, quãng, hợp âm, gam, điệu thức, dịch giọng,… Đó là
những kiến thức cơ bản, là cơ sở để sinh viên có thể tiếp thu các phân môn
khác như: hát, tập đọc nhạc, sử dụng nhạc cụ, phương pháp dạy học âm
nhạc….


9
Tuy phân môn Nhạc lý phổ thông là đơn giản so với những chương trình
đào tạo khác, nhưng nội dung của nó vẫn là những kiến thức trừu tượng mang
tính lý thuyết. Vì vậy, vấn đề làm thế nào cho sinh viên hiểu, nắm chắc và vận
dụng được kiến thức phân môn Nhạc lý phổ thông, vẫn là một thách thức đối
với giảng viên dạy học phân môn này.
Điều đó đòi hỏi trước hết phải tìm hiểu, nắm vững quá trình dạy học
phân môn Nhạc lý phổ thông, những khái niệm cơ bản xung quanh vấn đề
này, để tìm được biện pháp phù hợp, cải thiện tình hình dạy học.

1.2. Quá trình dạy học nhạc lý phổ thông
1.2.1. Quá trình dạy học
Sự truyền thụ kiến thức từ người dạy sang người học, để người học có thể
nắm vững được kiến thức cũng cần có một quá trình. Đó là quá trình mà cả
người dạy và người học đều phải nỗ lực hết sức nếu muốn đạt được kết quả cao.
-

Qúa trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình phức tạp và rộng lớn bao gồm nhiều

thành tố liên quan chặt chẽ với nhau. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về
QTDH tùy theo quan điểm tiếp cận về hoạt động dạy và học.
Chẳng hạn, các nước sử dụng tiếng Anh khi nghiên cứu QTDH thường
xem xét hai phạm trù độc lập: dạy và học (teaching and learning). Theo đó,
với hoạt động dạy có phương pháp dạy của giáo viên, với hoạt động học có
phong cách học của mỗi cá nhân (Lý luận dạy học ở trường Trung học
chuyên nghiệp, chương II Quá trình dạy học của Th.s Phùng Đình Dụng).
Quá trình dạy học là chuỗi liên tiếp các hành động dạy, hành động của
người dạy và người học đan xen và tương tác với nhau trong khoảng không
gian và thời gian nhất định, nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học (Lý luận
dạy học, chương II trang 10 TS. Nguyễn Văn Tuân).


10
Qua quá trình được đào tạo ở hệ ĐHSP Âm nhạc, tiếp thu kiến thức ở hệ
cao học lý luận và phương pháp dạy học âm nhạc, đúc rút những kinh nghiệm
dạy học của bản thân chúng tôi hiểu rằng:
Quá trình dạy học là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhập
vào nhau của thầy và trò dưới sự hướng dẫn của thầy, nhằm đạt được mục
đích dạy học và qua đó phát triển nhân cách của trò.

- Các thành tố cơ bản của quá trình dạy học
Quá trình dạy học bao gồm các thành tố cơ bản: Giáo viên với hoạt động
dạy, học sinh với hoạt động học, nội dung dạy học, hình thức dạy học,
phương pháp dạy học, phương tiện dạy học.
Trong QTDH, các thành tố nói trên có quan hệ chặt chẽ và tác động qua
lại lẫn nhau.
Giáo viên và học sinh là hai đối tượng quan trọng nhất trong quá trình
dạy học. Giáo viên với hoạt động dạy có chức năng tổ chức, điều khiển, lãnh
đạo hoạt động học tập của học sinh, đảm bảo cho học sinh thực hiện đầy đủ
và có chất lượng những yêu cầu cần đạt mà mục đích và nhiệm vụ dạy học đã
đặt ra.
Nội dung dạy học là hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cụ thể mà
người học cần phải nắm vững trong quá trình dạy học. Nội dung dạy học còn
gồm cả việc giáo dục thái độ cho học sinh.
Hình thức dạy học là không gian, địa điểm và những điều kiện cần thiết
để thực hiện hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh.
Phương pháp và là hệ thống những cách thức hoạt động phối hợp của
người dạy và người học nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.


11
Phương tiện dạy học là những đồ dùng, thiết bị mà giáo viên và học sinh sử
dụng trong quá trình dạy học nhằm đạt mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra.
Nếu các thành tố: giáo viên - học sinh, mục đích - nhiệm vụ, nội dung,
hình thức tổ chức, phương pháp, phương tiện… là các thành tố bên trong quá
trình dạy học thì môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học…, được xem
là thành tố bên ngoài của QTDH.
Các môi trường này không chỉ tác động đến hoạt động dạy học nói
chung mà còn ảnh hưởng đến tất cả các thành tố cấu trúc bên trong QTDH.
Ngược lại, QTDH phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sự vận động đi lên của các

môi trường bên ngoài.
Khi quá trình dạy học diễn ra, là các thành tố cơ bản nói trên: Thầy - trò,
nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện dạy học có sự vận động và tác
động lẫn nhau trong một cấu trúc nhất định để thúc đẩy quá trình dạy học phát
triển. Nếu thiếu đi một trong những thành tố đó thì QTDH sẽ không thể đạt
được kết quả cao.
1.2.2. Dạy học nhạc lý phổ thông ở hệ CĐSP Tiểu học
Quá trình dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông diễn ra với các thành tố
cơ bản:
- Người dạy là giảng viên chuyên ngành sư pham âm nhạc, sử dụng các
phương pháp và phương tiện dạy học âm nhạc phù hợp để giúp cho người học chủ
động tích cực nắm bắt được nội dung kiến thức phân môn Nhạc lý phổ thông.
- Người học là sinh viên CĐSP Tiểu học chủ động và tích cực trong học
tập để nắm được những kiến thức nhạc lý phổ thông quy định trong chương
trình phân môn.
- Nội dung phân môn Nhạc lý phổ thông bao gồm những tri thức về: Âm
thanh, cao độ, trường độ, quãng, gam, điệu thức, giọng, hợp âm…


12
- Hình thức dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông là lớp học lớn, khoảng
40 sinh viên một lớp.
- Phương pháp dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông được sử dụng là
các phương pháp dùng lời, phương pháp sử dụng phương tiện trực quan,
phương pháp thực hành luyện tập, phương pháp trình bày tác phẩm …
- Phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông là
nhạc cụ, bảng biểu, sơ đồ máy vi tính, máy chiếu …, những đồ dùng giúp cho
sinh viên nhận thức nội dung phân môn Nhạc lý phổ thông một cách cụ thể và
dễ dàng hơn.
1.3. Phương tiện trực quan

Để tìm hiểu được rõ tầm quan trọng của phương tiện trực quan trong quá
trình dạy học nhạc lý phổ thông, chúng tôi xác định là phải làm rõ được các
khái niệm: Phương tiện, Trực quan, Phương tiện trực quan
1.3.1. Phương tiện
Theo từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2003, phương tiện được xem là
cái dùng để làm một việc gì, để đạt một mục đích nào đó.
Trong mỗi lĩnh vực hoạt động đều có những phương tiện phù hợp để
hoạt động. Chẳng hạn, trong lĩnh vực giao thông, có các phương tiện giao
thông, vận chuyển… nối liền quan hệ giữa các vùng; trong lĩnh vực y tế, có
các phương tiện khám chữa bệnh là các thiết bị, dụng cụ, đồ dùng khác nhau.
Trong lĩnh vực giáo dục, dạy học cũng có những phương tiện riêng để phục
vụ cho quá trình dạy học.
Như vậy, có thể hiểu rằng, trong dạy học, cái mà giáo viên sử dụng để
đạt mục đích giúp cho sinh viên nắm được nội dung kiến thức, kỹ năng cụ
thể của bài học, được gọi là phương tiện.


13
1.3.2. Trực quan
Qúa trình dạy học là quá trình trong đó người học nhận thức nội dung
kiến thức, kỹ năng của môn học.
GS.TS. Nguyễn Quang Uẩn đã viết “Căn cứ vào tính chất phản ánh, có
thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành hai mức độ lớn: Nhận thức cảm
tính (gồm cảm giác và tri giác) và nhận thức lý tính (tư duy và tưởng tượng)”.
(Giáo trình tâm lý học đại cương, chương II, trang 67)
Học thuyết duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Lênin cho rằng quá
trình nhận thức là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lí, của sự nhận thức hiện thực khách quan (Giáo trình triết học Mac Lênin trang 88).
Trực quan là những gì được nhận biết dưới các hình thức cảm giác, tri

giác, biểu tượng. Nó cho ta một hình ảnh cảm tính về sự vật, hiện tượng.
Trên cơ sở đó, nhận thức con người đi vào các giai đoạn cao hơn của tư duy
trừu tượng.
Như vậy có thể thấy con đường người dạy truyền đạt kiến thức bằng
cách để người học tiếp xúc trực tiếp với những sự vật, hiện tượng, hay hình
tượng của chúng, qua thị giác, thính giác, xúc giác… là tiền đề quan trọng để
hình thành các khái niệm.
1.3.3. Phương tiện trực quan
Nói về phương tiện trực quan trong dạy học, có nhiều cách diễn đạt khác
nhau về khái niệm này.
Phương tiện trực quan là (đồ dùng, thiết bị dạy học) một vật thể hoặc
một tập hợp các vật thể mà giáo viên sử dụng trong quá trình dạy học để nâng


14
cao hiệu quả của quá trình này, giúp sinh viên lĩnh hội khái niệm, định luật…,
hình thành các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ cần thiết.
Phương tiện trực quan là tất cả các phương tiện vật chất cần thiết giúp
GV hay SV tổ chức và tiến hành hợp lí, có hiệu quả quá trình giáo dục và giáo
dưỡng ở các cấp học, các lĩnh vực, các môn học để có thể thực hiện được
những yêu cầu của chương trình giảng dạy.
Phương tiện trực quan là chỉ một vật thể hoặc một tập hợp những đối
tượng vật chất mà người GV sử dụng với tư cách là phương tiện điều khiển
hoạt động nhận thức của SV, còn đối với SV thì đây là các nguồn tri thức, là
phương tiện giúp SV lĩnh hội các khái niệm, định luật, học thuyết khoa học,
hình thành ở họ các kỹ năng, kỹ xảo, đảm bảo việc giáo dục, phục vụ các mục
đích dạy học và giáo dục.
Phương tiện trực quan bao gồm mọi thiết bị kỹ thuật từ đơn giản đến
phức tạp được dùng trong quá trình dạy học để làm dễ dàng cho sự truyền đạt
và sự lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.

Phương tiện trực quan là một tập hợp những đối tượng vật chất được
giáo viên sử dụng với tư cách là những phương tiện điều khiển hoạt động
nhận thức của sinh viên. Đối với SV đó là nguồn tri thức phong phú sinh
động, là các phương tiện giúp cho các em lĩnh hội tri thức và rèn luyện các kỹ
năng, kỹ xảo.?
Theo chúng tôi, có thể hiểu phương tiện trực quan là một tập hợp tất cả
các đồ dùng và thiết bị dạy học mà người giáo viên và sinh viên sử dụng trong
quá trình dạy học nhằm đạt được mục đích dạy học. Đó là những công cụ
giúp người giáo viên tổ chức, điều khiển quá trình dạy học và giúp người học
lĩnh hội tri thức cũng như tổ chức hoạt động nhận thức của mình có hiệu quả.


15
1.3.4. Vai trò của phương tiện trực quan trong dạy học phân môn nhạc
lý phổ thông
Đối với những nội dung có tính lý thuyết, đòi hỏi người học phải tư duy
trừu tượng và tư duy logic như ở phân môn Nhạc lý phổ thông thì phương tiện
trực quan là thành tố đóng vai trò rất quan trọng.
Phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông giúp
giảng viên dễ dàng thiết kế các bài giảng có hình nốt nhạc, những bài kiểm tra
âm nhạc, tạo các slide với nội dung cô đọng, dễ nhớ bằng việc chèn hình ảnh
về quãng, hợp âm, điệu thức để minh họa. Các giai điệu, hợp âm vang lên từ
đàn, các bảng biểu, sơ đồ về quãng, điệu thức sẽ giúp giảng viên truyền đạt
nội dung bài học một cách khoa học, làm cho tiết học Nhạc lý phổ thông sôi
nổi và đạt hiệu quả hơn.
Phương tiện trực quan trong dạy học nhạc lý phổ thông giúp SV huy
động sự tham gia của nhiều giác quan kết hợp với lời nói, tạo điều kiện dễ
hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn, làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát,
óc tò mò khoa học sáng tạo của sinh viên.
Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học nhạc lý phổ thông khiến

cho những khái niệm trừu tượng như gam, điệu thức, giọng, hợp âm… trở nên
rõ ràng, cụ thể, SV dễ tiếp nhận. Cho SV nghe âm nhạc vang lên trực tiếp từ
những nhạc cụ phổ thông hay băng đĩa từ đài cát sét…, kết hợp với xem bảng
biểu, sơ đồ, hình ảnh… chắc chắn tác động mạnh mẽ tới họ hơn là chỉ dùng
lời nói. Vì thế, trong dạy học Nhạc lý phổ thông, GV không những cần giỏi về
về lý luận, mà còn phải biết sử dụng đàn, và các thiết bị khác…
Phương tiện trực quan và các phương pháp dạy học dùng trong quá trình
dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trong khi thuyết trình về các khái niệm quãng, hợp âm, giáo viên sử dụng


16
PTTQ phù hợp sẽ làm cho các khái niệm bớt trừu tượng. Khi hướng dẫn SV
thực hành luyện tập thì các PTTQ sẽ cụ thể hóa những nội dung luyện tập
bằng các miếng ghép, bảng biểu…, giúp SV dễ dàng thực hành để nắm các
khái niệm.
Như vậy, có thể nói là phương tiện trực quan không chỉ gắn bó chặt chẽ
với các thành tố cơ bản trong quá trình dạy học Nhạc lý phổ thông, mà nó còn
có ý nghĩa to lớn mang lại hiệu quả tích cực trong nhận thức của sinh viên đối
với những kiến thức, kỹ năng âm nhạc của phân môn này.
1.4. Thực trạng dạy học nhạc lý phổ thông ở trường CĐSP Nam Định
1.4.1. Vài nét trường CĐSP Nam Định
Trường CĐSP Nam Đinh là nơi đào tạo, bồi dưỡng hàng ngàn lượt giáo
viên, cán bộ quản lý cho ngành giáo dục của tỉnh Nam Định nói riêng và cả
nước nói chung. Đây là một trong những cơ sở đào tạo uy tín, lâu năm được
nhà nước, xã hội công nhận. Năm 1965 tỉnh Nam Hà được thành lập trên cơ
sở hợp nhất hai tỉnh Nam Định và Hà Nam đến năm 1997 tỉnh Hà Nam được
tách ra, trường đổi tên là trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định.
Trường có các phòng chức năng và bốn khoa: Khoa xã hội, khoa Tiểu
học mầm non, khoa Tự nhiên, khoa Ngoại ngữ.

Trong trường có các hệ đào tạo chính quy và không chính quy Trung cấp
sư pham, cao đẳng sư phạm nhiều ngành như: Toán lý, Toán hóa, Toán tin,
Tin kỹ thuật công nghiệp, Hóa sinh, Sinh kỹ thuật nông nghiệp, Văn sử, Văn
địa, Văn công tác đội, Văn giáo dục công dân, Giáo dục công dân sử, Sử địa,
Tiếng Anh, Âm nhạc , Giáo dục thể chất, Mỹ thuật, Mầm non, Tiểu học.
Chuyên ngành CĐSP Tiểu học và Mầm non luôn có đông đảo sinh viên
theo học.

* Một số nét về khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non.


17
Khoa SP Tiểu học - Mầm non có các chức năng và nhiệm vụ sau:
- Đào tạo giáo viên Mầm non trình độ Trung cấp, Cao đẳng
- Đào tạo giáo viên Tiểu học trình độ Trung cấp, Cao đẳng
- Đào tạo Trung cấp, Cao đẳng ngoài sư phạm theo nhu cầu của địa
phương
Hiện nay ở Khoa có 17 Giảng viên, trong đó có 8 Thạc sĩ, và 4 học viên
đang đi học cao học, số lượng giáo viên âm nhạc là 5 người. Định hướng của
Khoa và Nhà trường trong những năm tới sẽ không ngừng bồi dưỡng, nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
1.4.2. Chương trình học phần nhạc lý phổ thông hệ CĐSP Tiểu học
1.4.2.1. Khung chương trình phân môn Nhạc lý phổ thông
Chương trình đào tạo hệ CĐSP Tiểu học được triển khai trong 3 năm
đào tạo theo tín chỉ, đúng với quy định của Bộ giáo dục - Đào tạo.
Toàn khóa CĐSP Tiểu học bao gồm 123 tín chỉ. Trong đó, thời lượng
dành cho Môn âm nhạc là 6 tín chỉ.
Môn Âm nhạc có ba phân môn, phân bố như sau:
- Nhạc lý phổ thông - 2 tín chỉ
- Đọc - Ghi nhạc - 2 tín chỉ

- Hát - 2 tín chỉ
Trong chương trình phân môn nhạc lý phổ thông của hệ CĐSP Tiểu học,
nội dung kiến thức được chia thành 8 chương:
Chương I: Âm thanh - Cao độ
Chương II:Trường độ của âm thanh
Chương III: Nhịp - phách - Tiết tấu
Chương IV: Các loại dấu hóa - Hóa biểu
Chương V: Quãng


18
Chương VI: Hợp âm
Chương VII: Điệu thức - Gam - Giọng
Chương VIII: Dịch giọng
Về giáo trình: Do chưa biên soạn được giáo trình, nên giảng viên tổ âm
nhạc dạy học dựa vào các giáo trình sau:
- Phạm Tú Hương: Giáo trình “Lý thuyết Âm nhạc cơ bản” – Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2010.
- Hoàng Long – Hoàng Lân: Giáo trình “Âm nhạc và phương pháp dạy
học Âm nhạc”, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2012.
1.4.3. Tình hình dạy học phân môn nhạc lý phổ thông
1.4.3.1. Đặc điểm khả năng âm nhạc của sinh viên CĐSP Tiểu học
Trường CĐSP Nam Định
Để chất lượng giảng dạy và học tập đạt kết quả cao, ngoài yếu tố người
thầy còn phải kể đến yếu tố người học.
Qua khảo sát thực tế, cho thấy khả năng âm nhạc cùa sinh viên trường
CĐSP Nam Định có một số đặc điểm như sau:
- Tuyển sinh ngành cao đẳng sư phạm tiểu học với 3 môn Văn, Toán,
Anh, không tuyển năng khiếu âm nhạc nên chất lượng khả năng âm nhạc của
sinh viên là không đồng đều, nhìn chung là thấp. Đa số SV còn hạn chế về

năng khiếu âm nhạc.
- Một số sinh viên sống ở thành phố Nam Định, hoặc ở các thành phố
khác có được tiếp xúc với âm nhạc từ trước. Trong số này có những em có
giọng hát rất tốt. Có một vài em đã từng tham gia một số cuộc thi giọng hát
hay ở tỉnh nhà. Những sinh viên này tiếp cận với môn học âm nhạc khá dễ
dàng. Các em có khả năng nghe nhạc, đọc nhạc khá nhanh. Trong học hát, các
em thể hiện bài hát khá diễn cảm. Có một số sinh viên có giọng hát khá hay
với âm sắc giọng đẹp, âm vực giọng khá rộng, có thể thể hiện được một số bài


19
hát có phong cách nhạc trẻ, nhạc thính phòng, dân ca… Khả năng ghi nhớ âm
nhạc của những sinh viên này là tương đối tốt. Các em dễ dàng tham gia
những hoạt động âm nhạc của khoa, của nhà trường tổ chức và là những hạt
nhân âm nhạc của phong trào văn nghệ ở nhà trường
- Phần lớn sinh viên thuộc hệ CĐSP Tiểu học xuất thân từ những vùng
nông thôn, ở các huyện lân cận hoặc xa thành phố, nhiều em đến từ các huyện
vùng biển Nam định. Một số ít sinh viên đã từng tham gia văn nghệ, ca hát trong
xóm, trongg xã. Trong những sinh viên này, những em có năng khiếu âm nhạc là
không nhiều. Khi tiếp cận với âm nhạc, phần lớn SV ở nông thôn còn rất lúng
túng và hạn chế về một số mặt. Về giọng hát, các em hát bằng giọng hát tự
nhiên, bản năng, âm vực giọng hát hẹp. Khi hát, một số em còn hát sai về cao độ,
hoặc hát chậm hơn nhịp độ quy dịnh. Khả năng nghe nhạc của những sinh viên
đến từ nông thôn còn yếu. Quá trình dạy học tập đọc nhạc cho thấy các em gặp
nhiều khó khăn để thực hành được đúng yêu cầu của giảng viên. Khả năng nắm
bắt nhịp phách, tiết tấu, cũng như thực hành đọc các quãng có cao độ phức tạp
của họ cũng còn chậm, phải luyện tập nhiều lần.
Qua quan sát một số giờ học hát của sinh viên cao đẳng sư phạm Tiểu
học thấy được việc ghi nhớ cao độ, giai điệu các bài hát của sinh viên còn
chưa tốt. Khi vừa học xong một bài hát hay một nội dung âm nhạc mà giáo

viên yêu cầu các sinh viên thực hành lại ngay trong giờ học thì sinh viên chưa
làm được.
Sinh viên cao đẳng sư phạm Tiểu học tuy còn hạn chế về năng khiếu âm
nhạc và chênh lệch nhiều về khả năng tiếp thu kiến thức, kỹ năng âm nhạc.
Nhưng hầu hết sinh viên CĐSP Tiểu học đều có khả năng tiếp thu các kiến
thức văn hóa khác. Họ xác định rất rõ mục tiêu ngành nghề mà sau này ra
trường họ sẽ sử dụng là dạy học cho học sinh tiểu học.Họ rất chăm chỉ và tích


20
cực, nghiêm túc trong học tập, rèn luyện tất cả các môn học trong chương
trình đào tạo.
1.4.3.2. Tình hình dạy học phân môn nhạc lý phổ thông
Qua tìm hiểu thực tế, dự giờ dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông tại
trường cho thấy trong mỗi tiết học giảng viên thường thuyết trình, giải thích
các khái niệm là chính. Hầu hết các tiết học phân môn này không thấy sử
dụng tới bảng biểu hay máy móc hỗ trợ. Chỉ có một đôi tiết học là thấy có
dùng đàn Organ.
Một vài giảng viên còn lược bỏ một số nội dung bài giảng để theo kịp
tiến độ giảng dạy. Do vậy, những kiến thức nhạc lý phổ thông bị lược bỏ đã
trở thành những bài học thuộc lòng.
Trao đổi trực tiếp với giảng viên dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông
tại trường, được biết, họ rất ngại sử dụng các phương tiện trực quan trong quá
trình dạy học. Vì muốn dùng phương tiện trực quan thì giảng viên cần phải có
sự chuẩn bị. Khi muốn dùng bảng biểu cho sinh viên xem, giảng viên phải
mang ra ngoài để in từ giáo trình hoặc mất nhiều thời gian để vẽ. Cũng như
khi chuẩn bị cho sinh viên nghe một đoạn nhạc, giảng viên phải tập trước ở
nhà với đàn Organ, hay đàn Guitar. Giảng viên còn ngại mang PTTQ lên lớp,
xuống lớp.
Quan sát, dự giờ dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, cho thấy, sinh

viên phải tiếp thu kiến thức âm nhạc một cách khó khăn.
Tiết học phân môn Nhạc lý phổ thông diễn ra khá nặng nề và trầm lặng.
Sinh viên chủ yếu là nghe và ghi. rất ít được thực hành. Các khái niệm âm
nhạc được sinh viên nhận biết chủ yếu bằng ngôn ngữ, mô tả bằng lời của
giảng viên. Vì cố hình dung khái niệm âm nhạc như quãng, hợp âm, gam,
giọng, điệu thức …, qua phần mô tả của giảng viên nên nhiều sinh viên tỏ ra
mệt mỏi, uể oải và chậm phản ứng theo yêu cầu của giảng viên.


21
Trao đổi với một số sinh viên, được biết, những khái niệm âm nhạc mà
các em tiếp cận trong lớp học rất trừu tượng, khó hình dung và khó nhớ.
Nhiều em cho rằng từ những kiến thức âm nhạc này đến việc có thể thực hành
được cũng còn một khoảng cách.
Từ những gì thấy được qua dự giờ quan sát và trao đổi đối với giảng
viên âm nhạc, với sinh viên cao đẳng sư phạm Tiểu học, chúng tôi đã tiến
hành tổng hợp kết quả điểm thi kết thúc phân môn Nhạc lý phổ thông của sinh
viên hai khóa 33 và 34, để làm rõ chất lượng dạy học phân môn này những
năm trước đây.
Kết quả học tập nhạc lý phổ thông của sinh viên
Bảng 1: Tổng hợp kết quả chất lượng dạy học phân môn NLPT
Khóa 33
(Năm học 2012 – 2013)

Kết quả

Khóa 34
(Năm học 2013 – 2014)

Số lượng SV


Tỉ lệ

Số lượng SV

Tỉ lệ

Giỏi

2

5%

3

7.5%

Khá

15

37.5%

10

25%

Trung bình

18


45%

20

50%

Yếu

5

12.5%

7

17.5%

Tổng

40

100%

40

100%

Trên bảng 1, cho thấy quá nửa số sinh viên của hai khóa chỉ đạt trung
bình và yếu. Rất ít sinh viên đạt kết quả giỏi. Chí có ít sinh viên là đạt khá.
Điều đó phản ánh một cách khách quan là chất lượng dạy học phân môn Nhạc

lý phổ thông còn chưa cao.
Để làm rõ vấn đề sinh viên có quan tâm, hứng thú với phân môn nhạc lý
phổ thông hay không, sinh viên có mong muốn gì để học tập Nhạc lý phổ
thông tốt hơn, chúng tôi đã sử dụng hai câu hỏi trong phiểu điều tra 80 sinh
viên CĐSP Tiểu học khóa 33, khóa 34. Họ là những sinh viên đã được học
phân môn này từ những học kỳ trước. Kết quả điều tra được tổng hợp trên
bảng 2 và bảng 3.


22
Bảng 2: Tổng hợp kết quả điều tra hứng thú của sinh viên với NLPT
Câu 1: Bạn có thích học Nhạc lý phổ thông không?
STT
Mức độ
Số lượng
Phần trăm
1
Rất thích
5
5%
2
Có thích
10
10 %
3
Bình thường
15
15%
4
Không thích

60
70%
Bảng 3: Tổng hợp kết quả điều tra yếu tố cần cải thiện trong dạy học
NLPT
Câu 2: Bạn muốn cải thiện điều gì trong giờ học nhạc lý phổ thông:
STT
1
2
3
4

Mức độ
Tất cả các nội dung
Bổ sung các phương tiện trực
quan trong giờ học
Cải thiện giáo án
Không muốn thay đổi

Số lượng
10

Phần trăm
10%

70

80%

10
0


10%
0

Từ những nghiên cứu về tình hình dạy học Nhạc lý phổ thông của những
năm trước đây ở hệ CĐSP Tiểu học có thể thấy rằng, chất lượng dạy học phân
môn này còn thấp.
Kết quả điều tra, quan sát, dự giờ, phóng vấn, trao đổi với giảng viên và
sinh viên đã phản ánh việc sử dụng PTTQ trong quá trình dạy học phân môn
Nhạc lý phổ thông còn chưa được giảng viên quan tâm đến, còn ít được sử
dụng. Đó cũng có thể chính là nguyên nhân khách quan dẫn đến những biểu
hiện không tích cực trong các giờ dạy hoc phân môn này. Chúng tôi cho rằng
kết quả dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông như vậy sẽ có ảnh hưởng không
ít đến việc tiếp thu các nội dung khác trong môn Âm nhạc của sinh viên
CĐSP Tiểu học.


23
Tiểu kết chương 1
Dạy học và giáo dục âm nhạc ở trường tiểu học đòi hỏi phải có một đội
ngũ giáo viên tiểu học có khả năng tổ chức cho học sinh ca hát, phát triển khả
năng nghe nhạc, làm quen với tập đọc nhạc, thông qua đó tiếp cận với các
kiến thức sơ giản về âm nhạc.
Trường CĐSP Nam Định là nơi đào tạo các hệ giáo viên tiểu học trình
độ CĐSP. Trong chương trình đào tạo toàn khóa, sinh viên được học âm nhạc
với những kiến thức đầu tiên ở phân môn Nhạc lý phổ thông.
Nội dung phân môn Nhạc lý phổ thông mang tính lý thuyết, trừu tượng,
đòi hỏi người giảng viên âm nhạc phải biết cụ thể hóa, làm rõ các khái niệm
để sinh viên dễ dàng tiếp thu và thực hành những kiến thức âm nhạc, đáp ứng
được yêu cầu mục tiêu dạy học phân môn này.

Trong chương 1, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa để làm rõ những khái niệm cần thiết về quá trình
dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, về vai trò của phương tiện trực quan
đối với việc dạy học của giáo viên và sinh viên CĐSP Tiểu học.
Chúng tôi đã sử dụng phương pháp điều tra, quan sát, dự giờ, phỏng vấn,
trao đổi để tìm hiểu thực trạng dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông một số
khóa sinh viên trước đây, để thấy được chất lượng dạy học phân môn này còn
thấp, mà nguyên nhân khách quan dẫn đến thực trạng này là vấn đề dùng
phương tiện trực quan còn chưa được quan tâm sử dụng.
Để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Âm nhạc nói chung và phân
môn Nhạc lý phổ thông nói riêng trong đào tạo ở hệ CĐSP Tiểu học tại Nam
Định, chúng tôi cho rằng cần mạnh dạn nghiên cứu đưa ra các biện pháp sử
dụng phương tiện trực quan để giúp cho giảng viên và sinh viên thực hiện quá
trình dạy học phân môn này một cách thuân lợi và dễ dàng hơn.


24
Chương 2
BIỆN PHÁP SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN
TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN NHẠC LÝ PHỔ THÔNG Ở HỆ
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TIỂU HỌC TẠI NAM ĐỊNH
2.1. Những nội dung nhạc lý phổ thông cần sử dụng phương tiện trực quan
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn sử dụng phương tiện trực
quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, chúng tôi đã khái quát nội
dung phân môn Nhạc lý phổ thông trong từng chương và dự kiến sử dụng
phương tiện trực quan vào từng chương như sau:
Nội dung
Chương I: Âm thanh - Cao độ
Chương II: Trường độ của âm thanh
Chương III: Nhịp - Phách - Tiết tấu

Chương IV: Các loại dấu hóa - Hóa
biểu
Chương V: Quãng

Dự kiến PTTQ sẽ sử dụng
Đàn Organ, đàn Guitar, máy
chiếu, kèn Harmonica…
Sơ đồ , đàn Organ, Song loan,
Thanh phách, Trống…
Máy chiếu, Thanh phách, Song
loan, Trống…
Sơ đồ, máy chiếu, bảng biểu, ứng
dụng các phần mềm tin học...
Bảng biểu, máy chiếu, đàn Guitar,

Chương VI: Hợp âm

đàn organ…
Đàn, máy chiếu, máy tính...
Bảng biểu, đàn Organ, máy tính,

Chương VII: Điệu thức – Gam - Giọng

máy chiếu, ứng dụng các phần

Chương VIII: Dịch giọng

mềm tin học…
Đàn Organ, máy tính, máy...


chiếu, loa đài...
Qua thống kê trên ta thấy các phương tiện trực quan có thể sử dụng được

trong tất cả các nội dung giảng dạy phân môn Nhạc lý phổ thông. Tuy nhiên,


25
để nắm được cách sử dụng các phương tiện trực quan, chúng ta cần phân loại
chúng.
2.2. Một số nhóm phương tiện trực quan trong dạy học phân môn nhạc lý
phổ thông
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, đúc kết kinh nghiệm sử dụng
phương tiện trực quan lâu năm của các giáo viên đi trước, chúng tôi đã chia
các phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông thành 4
nhóm sau:
- Nhóm 1: Nhạc cụ phổ thông
- Nhóm 2: Giáo cụ trực quan
- Nhóm 3: Trang thiết bị điện tử
- Nhóm 4: Phần mềm tin học.
2.2.1. Nhóm nhạc cụ phổ thông
Nhạc cụ phổ thông là những nhạc cụ mà giảng viên có thể dễ dàng sử
dụng và được sử dụng một cách rộng rãi. Sử dụng phương tiện dạy học là
nhạc cụ, giáo viên sẽ có thể thể hiện trình độ học vấn âm nhạc, kiến thức và
đặc biệt là năng lực hoạt động âm nhạc của bản thân.
Một số loại nhạc cụ phổ thông có thể kể đến như: Đàn Organ, đàn
Guitar, kèn Harmonica, trống, thanh phách, lục lạc…
- Đàn Organ
Đàn Organ có hình dạng giống như đàn piano với một bảng điều khiển ở
trên như: STYLE (tiết tấu), VOICE (âm sắc), TEMPO (tốc độ), TRANSPOSE
(dịch cao độ tự động), kết nối với các thiết bị bên ngoài, thu âm, soạn giai điệu....

Đa số đàn Organ hiện nay sử dụng công nghệ DSP và chia làm hai loại:
Đàn Organ thông thường có 61 phím
Đàn Piano điện tử 88 phím.
Đàn Organ hoạt động dựa trên băng thu. Người ta thu âm thanh của các
nhạc cụ khác rồi cài vào trong đàn theo hệ thống phím. Một đàn Organ thông


×