Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Vấn đề đạo đức kinh doanh trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.09 KB, 69 trang )

Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

LỜI MỞ ĐẦU

Vấn đề đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội không chỉ đóng vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích của các đối tượng hữu quan và môi trường tự nhiên nơi doanh nghiệp tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện nghiêm túc đạo đức kinh doanh và
trách nhiệm xã hội sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao danh tiếng cũng như tăng hiệu
quả kinh doanh. Ngoài ra, điều quan trọng hơn, đó là khi doanh nghiệp hoạt động có
đạo đức và trách nhiệm sẽ không gây tổn hại tới môi trường tự nhiên cũng như
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Với chính sách mở cửa nền kinh
tế và tích cực tham gia vào tiến trình khu vực hóa, toàn cầu hóa đã khuyến khích thu
hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh những doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam mang lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế
cũng như xã hội vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường tự nhiên Việt Nam và
tạo ra những vấn đề xã hội. Hiện nay, vấn đề môi trường và xã hội là vấn đề được
quan tâm nhiều nhất bởi nó tác động trực tiếp đến cuộc sống của con người cũng
như sự tồn tại của doanh nghiệp. Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp cần lưu tâm
đến việc những quyết định của mình có gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và xã
hội hay không. Ngoài ra, vấn đề đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội cũng cần
được phổ biến rộng rãi để không xảy ra tình trạng các doanh nghiệp nước ngoài
được lợi trong khi môi trường tự nhiên và các nguồn lực khác của Việt Nam bị tổn
hại. Xuất phát từ thực trạng thực hiện đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của
một số doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam cũng như nhận thức
được vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội đối với các
doanh nghiệp nói riêng và môi trường – xã hội Việt Nam nói chung, nhóm thực


hiện đã nghiên cứu đề tài “Vấn đề đạo đức kinh doanh & trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Thực trạng và giải pháp”.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài là phân tích thực trạng thực hiện
đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

1


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

vào Việt Nam. Từ đó nghiên cứu tìm ra giải pháp nâng cao nhận thức và hành động
về vấn đề đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp kinh
doanh tại Việt Nam. Đặc biệt đề tài hướng đến giải pháp áp dụng mô hình sản xuất
xanh cho các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng thực hiện đạo đức kinh doanh và trách
nhiệm xã hội của các doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp kinh doanh tại Việt Nam nói chung.
Trong đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu chính là
tổng hợp phân tích, thống kê số liệu để phân tích, đánh giá. Cùng với các biện pháp
thu thập, tìm kiếm thông tin và tư duy logic kết hợp với thực tiễn để phân tích, đánh
giá thực trạng thực hiện đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và đưa ra giải pháp khắc phục, nâng cao

nhận thức và hành động cho các doanh nghiệp tại Việt Nam trong việc thực hiện
đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.
Nội dung của đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần:
Chương I:

Cơ sở lý luận về đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp.

Chương II:

Thực trạng thực hiện đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.

Chương III: Các giải pháp khắc phục, nâng cao nhận thức và hành động cho
các doanh nghiệp tại Việt Nam.

SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

2


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ TRÁCH
NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP

***
1.1. Những tác động của hoạt động sản xuất kinh doanh tới môi trường tự
nhiên và các vấn đề xã hội
1.1.1. Mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và với sự phát triển của nền kinh tế
Môi trường tự nhiên và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn có mối
quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong thể cân đối thống nhất. Môi
trường tự nhiên cung cấp nguyên liệu và không gian cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên
nói chung có vai trò quyết định đối với sự tồn tại của doanh nghiệp cũng như sự
phát triển bền vững của nền kinh tế- xã hội ở mỗi quốc gia bởi những lý do sau:
Thứ nhất, môi trường tự nhiên không chỉ cung cấp những yếu tố “đầu vào”
cho doanh nghiệp mà còn chứa đựng những yếu tố “đầu ra”. Hoạt động sản xuất là
một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật tư, thiết bị máy móc,
đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động của con người để tạo ra sản phẩm
hàng hóa. Những yếu tố vật chất kể trên chính là các yếu tố thuộc môi trường, hay
nói cách khác, môi trường là yếu tố “đầu vào” cho quá trình sản xuất của doanh
nghiệp. Ngược lại, môi trường tự nhiên cũng là nơi chứa đựng những “đầu ra” của
doanh nghiệp. Đó là các chất thải của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh,
trong các chất thải này có rất nhiều các chất độc hại làm ô nhiễm, suy thoái hoặc
gây ra các sự cố về môi trường như cacbon monoxit, đioxit lưu huỳnh, các chất
cloroflorocacbon (CFCs) và ôxit nito. Khi các chất thải với số lượng và chất lượng
nhất định được thải ra môi trường, các quá trình lý, hóa, sinh… của hệ tự nhiên sẽ
tự phân hủy, làm sạch chúng. Tuy nhiên, nếu chất thải vượt quá khả năng hấp thụ

SVTH:


Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

3


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

của môi trường chúng sẽ làm thay đổi chất lượng môi trường, gây ảnh hưởng đến
cuộc sống của con người và sinh vật.
Môi trường tự nhiên sẽ tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp nếu doanh nghiệp biết khai thác và bảo vệ một cách hợp lý, tương tự, môi
trường cũng có thể là nơi gây ra nhiều thảm họa ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, những thảm họa này sẽ tăng lên nếu các doanh nghiệp gia
tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân bằng tự nhiên.
Thứ hai, quá trình phát triển kinh tế sẽ góp phần tạo ra nguồn tài chính hỗ trợ
cho quá trình cải tạo môi trường, phòng chống suy thoái, sự cố môi trường xảy ra.
Phát triển kinh tế tạo tiềm lực để bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, quá trình phát triển
kinh tế diễn ra với tốc độ nhanh và mạnh cũng dẫn đến việc khai thác, sử dụng quá
mức các tài nguyên thiên nhiên và môi trường, gây nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm, suy thoái môi trường.
Môi trường tự nhiên cũng tác động đến tính ổn định và bền vững của sự phát
triển kinh tế. Môi trường tạo ra các tiềm năng tự nhiên mới cho công cuộc phát triển
kinh tế trong tương lai, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. Ngược lại,
môi trường cũng tác động tiêu cực, gây bất lợi cho quá trình phát triển kinh tế như:
ô nhiễm, suy thoái môi trường gây ra các hiện tượng thời tiết bất thường (sương mù
dày đặc, mưa đá, mưa axit…), các thảm họa và thiên tai (bão, lũ lụt, hạn hán…).

Điều này sẽ tác động đến tất cả các lĩnh vực, ngành nghề hoạt động trong nền kinh
tế, ảnh hưởng đến quá trình lưu thông, các hoạt động sản xuất kinh doanh như: làm
ngừng trệ quá trình sản xuất; gây thiệt hại về kinh tế (tài sản, thời gian, nhân lực…).
Bởi môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển kinh tế xã
hội nói chung và tương lai của doanh nghiệp nói riêng nên bảo vệ môi trường chính
là giải pháp để giúp các doanh nghiệp được kinh doanh trong môi trường ổn định và
thuận lợi. Nếu trong trước mắt, các doanh nghiệp khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, hủy hoại môi trường thì các thế hệ sau sẽ không có điều kiện để phát triển về
mọi mặt, trong dài hạn nền kinh tế sẽ không thể phát triển bền vững.
Từ những mối quan hệ trên ta thấy được môi trường tự nhiên đóng vai trò là
yếu tố chủ yếu và không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động nào của nền kinh tế. Vì
vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia, vùng, khu vực cần
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

4


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

lồng ghép yếu tố môi trường vào trong các chủ trương, chính sách, đảm bảo sự kết
hợp hài hòa giữa lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường, vừa đáp ứng được nhu cầu
của hiện tại trong tăng trưởng và phát triển, vừa không làm ảnh hưởng đến nhu cầu
của thế hệ trong tương lai. Để làm được điều đó, bản thân mỗi doanh nghiệp trong
nền kinh tế cần có biện pháp hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng bảo vệ môi

trường một cách nghiêm túc và đúng đắn.
1.1.2. Những tác động của hoạt động sản xuất kinh doanh tới môi trường tự
nhiên và các vấn đề xã hội
Vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội nước ta hiện nay là tình
trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con
người gây ra. Vấn đề này đang ngày càng trầm trọng, đe dọa trực tiếp đến sự phát
triển bền vững, sự tồn tại và phát triển của con người. Trong một vài năm trở lại
đây, chúng ta luôn phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do thiên tai gây ra và do
công tác bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập. Thực tế đã chứng minh, không khí ô
nhiễm có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người. Ô nhiễm không khí
có thể gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm vùng họng, đau ngực, tức thở.
Ô nhiễm nước gây ra bệnh tật cho con người do ăn uống bằng nước bẩn chưa được
xử lý như các bệnh về đường tiêu hóa, bệnh ngoài da. Ô nhiễm tiếng ồn gây điếc,
cao huyết áp, bệnh trầm cảm, bệnh mất ngủ và gây nhiều hậu quả khác.
Đặc biệt, chất thải công nghiệp do các nhà máy sản xuất đưa ra ngoài môi
trường càng làm ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến môi trường sinh thái và sức khỏe
con người. Theo báo cáo giám sát của Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường
của Quốc hội, tỷ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung ở một
số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 – 20%. Nhiều khu công nghiệp có xây
dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm
chi phí. Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ
thống thủy lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập lụt và ô nhiễm nguồn nước
tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con nông dân. Thực trạng
đó làm cho môi trường sinh thái ở nhiều địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng
đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân cận với các khu công nghiệp, đang
phải đối mặt với thảm họa về môi trường. Họ phải sống chung với khói bụi, uống
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga


5


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công nghiệp. Từ đó, gây bất bình, dẫn đến những
phản ứng quyết liệt của người dân, có khi bùng phát thành các xung đột xã hội gay
gắt đối với những hoạt động gây ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp còn sử dụng biện pháp khai thác và chuyển
đổi chức năng sử dụng của các loại không gian khác như khai hoang, phá rừng, cải
tạo các vùng đất để xây dựng xí nghiệp, nhà máy. Việc khai thác quá mức không
gian và các dạng tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến những hậu quả nặng nề mà con
người phải gánh chịu. Diện tích rừng ngày một giảm dần dẫn đến nạn ô nhiễm môi
sinh, nạn Trái Đất ấm dần lên, nạn đói kém, hạn hán, lũ lụt ngày một tăng cả về tần
suất và cường độ, nạn voi bỏ rừng về buôn làng giết hại con người, phá hoại tài sản
không phải là chuyện hiếm.
Một trong những giải pháp lớn cho vấn đề trên là cần áp dụng một cách triệt
để hơn các quy định của Nhà nước như luật bảo vệ môi trường, luật bảo vệ và phát
triển rừng…Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần ý thức được tầm quan trọng của
môi trường để tiến hành sản xuất kinh doanh theo hướng bảo vệ môi trường sống
cho tất cả mọi người.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là những nguyên tắc đạo lý chỉ dẫn nội tâm, những giá trị và lòng
tin mà con người sử dụng để phân tích hoặc giải thích một tình huống và sau đó
quyết định cái gì là “đúng” hay cách phù hợp để hành xử. Đồng thời, đạo đức cũng

chỉ ra cái gì là hành vi không phù hợp và một người nên hành xử để tránh làm hại
đến người khác như thế nào. (Trích trang 133- Giáo trình quản trị kinh doanh hiện
đại- Bộ môn quản trị kinh doanh- Đại học Thủy Lợi)
Vấn đề cơ bản trong việc giải quyết những vấn đề về đạo đức là giải quyết
tình thế lưỡng nan về đạo đức. Đó là tình huống khó xử khi mọi người tự nhận thấy
họ phải quyết định nên hành động theo cách có thể giúp đỡ người khác hoặc nhóm
người nào đấy, và đó là việc “đúng” nên làm, thậm chí làm như vậy có thể chống lại
lợi ích cá nhân của chính bản thân họ. Tình thế lưỡng nan cũng có thể phát sinh khi
một người phải quyết định lựa chọn giữa hai tiến trình hành động khác nhau, biết
rằng bất kể tiến trình nào anh ta hay chị ta chọn sẽ đưa đến kết quả có hại đến một
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

6


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

người hoặc một nhóm người thậm chí trong khi đó là lợi cho người khác. Tình thế
lưỡng nan về đạo đức ở đây là quyết định chọn tiến trình hành động nào là tiến trình
“ít thiệt hại hơn trong hai kiểu thiệt hại”. Tuy nhiên, trong việc giải quyết tình thế
lưỡng nan về đạo đức lại không có những nguyên tắc hay quy tắc tuyệt đối nào để
quyết định xem một hành động là đạo đức hay không đạo đức nên những người
hoặc nhóm người khác nhau có thể tranh cãi về những hành động nào là đạo đức
hay không, điều đó phụ thuộc vào lợi ích cá nhân của riêng họ, những thái độ, lòng

tin và các giá trị.
1.2.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh gồm những nguyên tắc và chuẩn mực có tác dụng
hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh, được những người hữu quan
(như người đầu tư, khách hàng, người quản lý, người lao động, đại diện cơ quan
pháp lý, cộng đồng dân cư, đối tác, đối thủ…) sử dụng để phán xét một hành động
cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi đạo đức.( Trích trang 18- Giáo trình
đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty- Trường Đại học Kinh tế quốc dân)
Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp: Đạo đức kinh doanh
có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh - là hoạt động gắn liền với những lợi ích
kinh tế, do vậy khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo đức kinh doanh không hoàn
toàn giống các hoạt động khác, song đạo đức kinh doanh vẫn luôn phải chịu sự chi
phối bởi hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội chung.
1.2.3. Khái niệm trách nhiệm xã hội
Trách nhiệm xã hội là những nghĩa vụ một doanh nghiệp hay cá nhân phải
thực hiện đối với xã hội nhằm đạt được nhiều nhất những tác động tích cực và giảm
thiểu những tác động tiêu cực đối với xã hội. ( Trích trang 19- Giáo trình đạo đức
kinh doanh và văn hóa công ty- Trường Đại học Kinh tế quốc dân)
Trách nhiệm xã hội có thể được coi là sự cam kết của cá nhân hay doanh
nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững thông qua việc tuân thủ các
chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao
động, trả lương công bằng, phát triển cộng đồng theo cách có lợi cho cả doanh
nghiệp và xã hội; là mong muốn, kỳ vọng xuất phát từ bên ngoài và vì thế trách
nhiệm xã hội quan tâm đến tác động của các quyết định của doanh nghiệp đối với
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

7



Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

xã hội. Trong khi đó, đạo đức kinh doanh là những quy tắc ứng xử được cân nhắc
kỹ lưỡng về mặt tổ chức của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định trong
quan hệ kinh doanh sau đó được đánh giá từ cả bên trong và bên ngoài, chúng có
thể được coi là đúng đắn hoặc không đúng đắn tùy vào các bên hữu quan . Đây
chính là điểm khác biệt giữa đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.
Về cơ bản, trách nhiệm xã hội bao gồm những nghĩa vụ về kinh tế, pháp lý,
đạo đức và nhân văn.
Nghĩa vụ về kinh tế của doanh nghiệp là sản xuất hàng hóa và dịch vụ thỏa
mãn được nhu cầu tiêu dùng của xã hội ở mức giá cả có thể cho phép duy trì được
công việc kinh doanh và làm hài lòng các chủ đầu tư. Thực hiện nghĩa vụ kinh tế để
đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp.
Nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp là thực hiện đầy đủ những quy định về
pháp lý chính thức đối với những người hữu quan, trong cạnh tranh và đối với môi
trường tự nhiên do pháp luật hiện hành quy định. Thực hiện nghĩa vụ pháp lý để
doanh nghiệp có thể được chấp nhận về mặt xã hội.
Nghĩa vụ đạo đức của doanh nghiệp được định nghĩa là những hành vi hay
hoạt động được xã hội mong đợi nhưng không được quy định thành các nghĩa vụ
pháp lý. Nghĩa vụ đạo đức chính là nền tảng của các nghĩa vụ pháp lý. Thực hiện
nghĩa vụ đạo đức là để doanh nghiệp có thể được xã hội tôn trọng và công nhận.
Nghĩa vụ nhân văn của doanh nghiệp bao gồm những hành vi và hoạt động
mà xã hội muốn hướng tới và có tác dụng quyết định chân giá trị của tổ chức hay
doanh nghiệp. Nghĩa vụ nhân văn thể hiện những mong muốn hiến dâng của doanh
nghiệp cho xã hội. Thực hiện nghĩa vụ nhân văn là thể hiện ước muốn tự hoàn thiện

và vì xã hội.
Ngoài những nghĩa vụ kể trên, trách nhiệm xã hội có bốn cách tiếp cận chính
là: cách tiếp cận người phá rối, cách tiếp cận phòng thủ, cách tiếp cận thích nghi và
cách tiếp cận tiên phong.
Mức thấp nhất là cách tiếp cận phá rối, trong đó các công ty và những nhà
quản trị của họ lựa chọn không hành xử theo cách có trách nhiệm xã hội. Thay vào
đó, họ hành xử không có đạo đức, bất hợp pháp và họ làm tất cả những gì có thể để
ngăn cản các bên hữu quan khác biết được những hành vi sai trái này. Ví như các
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

8


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

nhà quản trị ở tập đoàn Mansville đã tuân theo cách tiếp cận này khi họ tìm cách
che giấu bằng chứng về khoáng chất amiăng gây hại phổi; tương tự, các công ty
thuốc lá đã làm như vậy khi họ tìm cách che giấu bằng chứng về việc hút thuốc lá
có thể gây ung thư phổi. Hậu quả của cách tiếp cận này không chỉ là việc mất danh
tiếng mà còn phá hoại tổ chức và tất cả các bên hữu quan có liên quan.
Cách tiếp cận phòng thủ chỉ ra ít nhất một cam kết về hành vi có đạo đức.
Những công ty và nhà quản lý phòng thủ duy trì trong phạm vi luật pháp và tuân thủ
nghiêm ngặt những yêu cầu pháp lý nhưng không cố gắng thực hiện trách nhiệm xã
hội vượt ra ngoài luật định - vì vậy họ có thể và thường hành động một cách không

có đạo đức. Hoặc khi họ ra quyết định có đạo đức, những nhà quản trị như vậy cũng
đặt lợi ích cá nhân của họ lên trước hết và thường gây hại cho các bên hữu quan khác.
Cách tiếp cận thích nghi là việc xác nhận về sự cần thiết ủng hộ trách nhiệm
xã hội. Các công ty và những nhà quản trị thích nghi đồng ý rằng những thành viên
thuộc tổ chức phải hành xử một cách hợp pháp và có đạo đức, và họ cố gắng cân
bằng lợi ích của các bên hữu quan khác nhau.
Các công ty và các nhà quản trị có cách tiếp cận tiên phong chủ động nắm
bắt nhu cầu để hành xử theo những cách thức có trách nhiệm xã hội. Họ vượt qua
cách làm thông thường của họ để tìm hiểu nhu cầu của những nhóm bên hữu quan
khác nhau và sẵn sàng sử dụng nguồn lực thuộc tổ chức để thúc đẩy lợi ích không
chỉ của cổ đông mà còn của cả các bên hữu quan khác. Các công ty như vậy luôn đi
tiên phong trong các chiến dịch vì những sự nghiệp đại nghĩa chẳng hạn như vì môi
trường không ô nhiễm, tái tạo và bảo tồn nguồn tài nguyên, giảm thiểu hoặc xóa bỏ
việc sử dụng động vật trong thử nghiệm thuốc và mỹ phẩm.
1.2.4. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt là
FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó
sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.(Trích Luật Đầu tư 2005)
Lợi ích của thu hút FDI:

SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

9


Báo cáo nghiên cứu khoa học


GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

Bổ sung cho nguồn vốn trong nước: Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh hơn thì nhân tố vốn luôn được đề cập, nếu vốn trong nước không đủ thì sẽ
cần phải huy động thêm nguồn vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý: Thu hút FDI từ các công ty đa quốc
gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh
mà các công ty nước ngoài đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những
khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, để phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó còn
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của nước thu hút đầu tư.
Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công: Vì một trong những mục đích
của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của
một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng
kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, người lao động sẽ được đào
tạo các kỹ năng nghề nghiệp mới mẻ và tiến bộ. Điều này tạo ra một đội ngũ lao
động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả
các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp
vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tạo nguồn thu ngân sách lớn: Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối
với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn
thu ngân sách quan trọng.
1.3. Các bên hữu quan và vấn đề đạo đức
Khi luật không cụ thể hóa các doanh nghiệp nên hành xử như thế nào, các
nhà quản trị phải quyết định làm thế nào là đúng hoặc có đạo đức để hành xử hướng
đến những người và các nhóm bị tác động bởi hành động của họ. Những người và
các nhóm bị tác động bởi cách thức doanh nghiệp và các nhà quản trị của nó hành
xử được gọi là các bên hữu quan. Vì các bên hữu quan có thể có lợi ích trực tiếp

hoặc bị thiệt hại do những hành động của doanh nghiệp, nên đạo đức của doanh
nghiệp và quyết định của các nhà quản trị là rất quan trọng đối với họ. Các bên hữu
quan gồm: cổ đông, các nhà quản trị, người lao động, nhà cung cấp và nhà phân
phối, khách hàng, cộng đồng xã hội và quốc gia.

SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

10


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

1.3.1. Cổ đông
Cổ đông có sự đòi hỏi với doanh nghiệp bởi khi họ mua cổ phần hay cổ
phiếu của nó, họ trở thành những người sở hữu doanh nghiệp. Cổ phiếu này thừa
nhận người mua nó sở hữu doanh nghiệp với tỉ lệ nhất định và quyền nhận bất kì
khoản cổ tức nào trong tương lai. Các cổ đông quan tâm đến cách thức doanh
nghiệp hoạt động vì họ muốn tối đa hóa thu nhập dựa trên sự đầu tư của họ. Vì vậy,
họ theo dõi doanh nghiệp và các nhà quản trị của nó một cách chặt chẽ để đảm bảo
rằng việc quản lý đang hoạt động mẫn cán nhằm tăng khả năng sinh lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Các cổ đông cũng muốn đảm bảo rằng các nhà quản trị đang hành xử
có đạo đức và không gây rủi ro cho vốn của các nhà đầu tư bằng cách có những
hành động có thể gây hại đến danh tiếng của doanh nghiệp.
1.3.2. Các nhà quản trị

Các nhà quản trị là một nhóm bên hữu quan rất quan trọng vì họ chịu trách
nhiệm về việc sử dụng các nguồn vốn tài chính và nhân lực để tăng cường hoạt
động của doanh nghiệp và vì thế tăng giá cổ phiếu của nó. Các nhà quản trị có sự
đòi hỏi ở tổ chức bởi vì họ mang đến cho nó các kĩ năng, chuyên môn, và kinh
nghiệm. Họ có quyền kỳ vọng vào một thu nhập tốt hoặc phần thưởng xứng đáng từ
việc đầu tư vốn nhân lực của họ để cải thiện hoạt động cho doanh nghiệp. Những
phần thưởng như vậy có thể gồm lương và phúc lợi tốt, triển vọng thăng tiến, quyền
mua cổ phần đặt truớc và tiền thưởng gắn với hoạt động của doanh nghiệp.
Các nhà quản trị là nhóm bên hữu quan chịu trách nhiệm quyết định mục tiêu
nào tổ chức nên theo đuổi để tạo ra lợi ích lớn nhất cho các bên hữu quan và làm thế
nào sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực để đạt được những mục tiêu đó. Khi ra
những quyết định như vậy, các nhà quản trị thường xuyên ở vào vị trí phải sắp đặt
lại lợi ích của các bên hữu quan khác, bao gồm cả chính họ. Những quyết định này
đôi khi rất khó khăn và thách thức các nhà quản lý để giữ gìn những giá trị đạo đức
bởi vì trong một số trường hợp những quyết định làm lợi cho một số nhóm bên hữu
quan (các nhà quản trị và cổ đông) nhưng lại gây hại cho những nhóm khác (những
người lao động cá thể và cộng đồng địa phương). Hành vi của họ cũng phải được
xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo họ không hành xử một cách bất hợp pháp hoặc không
có đạo đức, theo đuổi những mục tiêu đe dọa lợi ích của cổ đông và doanh nghiệp.
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

11


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa

CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

1.3.3. Người lao động
Người lao động của doanh nghiệp là những người làm việc trong các bộ phận
và phòng ban chức năng, như phòng nghiên cứu, phòng bán hàng, phòng sản xuất.
Người lao động kỳ vọng rằng họ sẽ nhận được tiền lương, thưởng xứng đáng với
cống hiến của họ. Phương thức mang tính nguyên tắc mà doanh nghiệp có thể hành
động theo cách có đạo đức hướng đến người lao động và đáp ứng các kỳ vọng của
họ là tạo ra một cấu trúc nghề nghiệp công bằng và bình đẳng cho người lao động.
Ngoài ra, người lao động còn là những người thực hiện các nghiệp vụ tác
nghiệp của một công việc kinh doanh, vì vậy, họ là người có quyết định cuối cùng
trong việc thi hành quyết định liên quan đến đạo đức. Nhận thức và năng lực của
người lao động, quan điểm đạo đức của họ đóng vai trò quan trọng. Bởi khi nhà
quản lý ra quyết định, đứng trên quan điểm của nhà quản lý thì quyết định đó là
đúng đắn, nhưng nếu người lao động cho rằng quyết định đó là phi đạo đức thì việc
thực hiện quyết định sẽ không được như mong muốn của nhà quản lý.
1.3.4. Các nhà cung cấp và nhà phân phối
Mỗi doanh nghiệp nằm trong một mạng lưới các mối quan hệ với những
doanh nghiệp khác để được cung cấp các đầu vào mà nó cần cho hoạt động. Các
doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào các nhà trung gian như những người bán buôn và
nhà bán lẻ để phân phối sản phẩm của nó đến khách hàng cuối cùng. Các nhà cung
cấp kỳ vọng được thanh toán một cách công bằng và đúng hạn cho các đầu vào của
họ; các nhà phân phối kỳ vọng nhận những sản phẩm có chất lượng với mức giá đã
thỏa thuận.
Trong quá trình doanh nghiệp ký kết hợp đồng và tương tác với các nhà cung
cấp và nhà phân phối thường phát sinh những vấn đề đạo đức, những vấn đề đó có
thể liên quan đến việc thanh toán, đặc điểm kỹ thuật và chất lượng sản phẩm.
1.3.5. Khách hàng
Khách hàng thường được xem là nhóm bên hữu quan quan trọng nhất vì
khách hàng quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trong ngành kinh doanh đó.

Trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với khách hàng của mình là phát hiện ra nhu
cầu, làm ra những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu cho khách hàng. Việc
cung cấp hàng hóa, dịch vụ không phải chỉ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng tức thời,
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

12


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

mà còn cần tính đến ước muốn lâu dài của khách hàng. Vấn đề đạo đức cũng có thể
nảy sinh từ việc không cân đối giữa nhu cầu trước mắt và nhu cầu lâu dài, ví dụ như
việc doanh nghiệp cắt giảm chi phí để hạ giá bán bằng cách xả thải ra môi trường
không qua xử lý, hay việc doanh nghiệp giảm chất lượng sản phẩm, không quan
tâm đến an toàn thực phẩm gây bệnh tật cho khách hàng…
Bởi vậy, các nhà quản trị và người lao động trong doanh nghiệp cần hướng
đến mục tiêu cung cấp sản phẩm chất lượng cao với mức giá hợp lý, tạo dựng hình
ảnh đẹp để duy trì những khách hàng trung thành và thu hút khách hàng mới tiềm
năng, cũng như thực hiện việc kinh doanh có đạo đức và trách nhiệm.
1.3.6. Cộng đồng, xã hội và quốc gia
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và việc triển khai các quyết định có
thể gây ảnh hưởng đến cộng đồng, xã hội, quốc gia nơi doanh nghiệp hoạt động.
Cộng đồng luôn quan tâm xem hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có làm ảnh
hưởng đến cuộc sống và lợi ích của họ hay không. Bởi vậy, doanh nghiệp luôn phải

có ý thức và trách nhiệm về sự bền vững và lành mạnh của môi trường tự nhiênkinh tế- văn hóa- xã hội tại cộng đồng. Để làm được điều đó, đòi hỏi doanh nghiệp
phải thực hiện đầy đủ và tự nguyện các trách nhiệm xã hội gồm các nghĩa vụ kinh
tế, pháp lý, đạo lý và nhân đạo. Cộng đồng, xã hội, quốc gia là nơi doanh nghiệp
thực hiện hoạt động kinh doanh của minh, bởi vậy, bảo vệ lợi ích cộng đồng cũng là
bảo vệ lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp.
1.4. Vai trò và ý nghĩa của đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội
1.4.1. Ý nghĩa của đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội
Những vấn đề về đạo đức là trung tâm dẫn đến cách thức mà các doanh
nghiệp và các nhà quản trị ra quyết định, chúng không chỉ tác động đến hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp mà còn tác động đến sự thịnh vượng của quốc gia.
Các nhà quản trị và mọi người nói chung nên hành động một cách có đạo
đức và giảm bớt việc theo đuổi lợi ích cá nhân của họ bằng cách xem xét ảnh hưởng
của những hành động mà họ thực hiện đến những người khác. Sự theo đuổi không
ngừng lợi ích cá nhân có thể dẫn đến thảm họa tập thể khi một hoặc nhiều người bắt
đầu kiếm lợi từ việc làm không có đạo đức bởi vì điều này khuyến khích những
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

13


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

người khác hành động theo cùng cách đó. Nhanh chóng, ngày càng nhiều người
tham gia như một phong trào, và mọi người càng cố gắng thao túng tình huống này

theo cách nó phục vụ tốt nhất mục đích cá nhân mà không quan tâm đến ảnh hưởng
từ những hành động của họ đến người khác.
Một trong những trách nhiệm quan trọng của các nhà quản trị là bảo vệ và
nuôi dưỡng những nguồn lực dưới sự kiểm soát của họ. Bất kỳ bên hữu quan thuộc
tổ chức – nhà quản trị, nhân viên, cổ đông, nhà cung cấp – giành trước lợi ích cho
riêng họ bằng cách hành xử không đạo đức hướng đến các bên hữu quan khác hoặc
bằng cách chiếm lấy nguồn lực, đều gây lãng phí nguồn lực chung. Nếu những cá
nhân hoặc nhóm khác bắt chước hành vi của bên hữu quan hành xử không có đạo
đức thì tỷ lệ nguồn lực chung bị lạm dụng tăng lên, và cuối cùng còn rất ít nguồn
lực sẵn có để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Hành vi không có đạo đức mà không bị
trừng phạt tạo động cơ cho những người khác đặt lợi ích cá nhân của họ lên trên
quyền của những người khác. Khi điều đó xảy ra, lợi ích mà mọi người thu được từ
việc cùng tham gia trong các tổ chức biến mất rất nhanh.
Khi chúng ta hoạt động trong xã hội không có đạo đức, có nghĩa là xã hội
trong đó các bên hữu quan thường cố gắng gian lận và lừa đảo người khác, thì sẽ
mất bao lâu cho họ để đàm phán việc mua bán và vận chuyển sản phẩm. Khi họ
không tin tưởng lẫn nhau, các bên hữu quan sẽ tốn hàng giờ mặc cả về mức giá hợp
lý, và đó là hoạt động hoàn toàn không có năng suất, làm giảm hiệu quả công việc.
Tất cả thời gian và nỗ lực đó có thể được sử dụng để cải tiến chất lượng sản phẩm
hoặc dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy, hành vi không đạo đức phá hủy buôn bán
kinh doanh, và xã hội có một mức sống thấp hơn vì có ít hàng hóa và dịch vụ chất
lượng hơn được sản xuất.
Mặt khác, giả sử rằng doanh nghiệp và các nhà quản trị của họ hoạt động
trong xã hội có đạo đức, có nghĩa là các bên hữu quan tin tưởng rằng họ đang giao
dịch với những người cơ bản có đạo đức và trung thực. Khi sự tin tưởng tồn tại, các
bên hữu quan có nhiều khả năng hơn để phát tín hiệu về những ý định tốt đẹp của
họ bằng cách hợp tác và cung cấp thông tin giúp làm dễ dàng hơn cho việc trao đổi
và đặt giá hàng hóa và dịch vụ, khách hàng cũng tin tưởng vào doanh nghiệp hơn
khi doanh nghiệp có uy tín và hoạt động có đạo đức. Khi một người hành động một
SVTH:


Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

14


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

cách đáng tin cậy, điều này khuyến khích những người khác hành động theo cách
tương tự. Theo thời gian, khi lòng tin giữa các bên hữu quan phát triển mạnh hơn,
họ có thể làm việc cùng nhau hiệu quả và hợp lý, và điều đó làm tăng kết quả hoạt
động của doanh nghiệp. Khi mọi người nhìn thấy kết quả tích cực của hành động
trung thực, hành vi có đạo đức sẽ trở thành chuẩn mực xã hội có giá trị và xã hội
nói chung sẽ hoạt động hay kinh doanh có đạo đức hơn.
Ngoài ra, đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội còn ảnh hưởng trực tiếp
đến danh tiếng của doanh nghiệp, việc doanh nghiệp hoạt động không có đạo đức
và trách nhiệm sẽ là tiềm năng khiến cho họ mất đi danh tiếng. Danh tiếng là sự quý
trọng hoặc tiếng tăm tốt mà mọi người hay tổ chức đạt được khi họ hành xử một
cách có đạo đức, là tài sản quan trọng và quý giá của mỗi con người, mỗi tổ chức.
Đối với doanh nghiệp, danh tiếng là lòng tin của những người khác đối với doanh
nghiệp mà điều này sẽ khiến họ muốn làm việc kinh doanh với doanh nghiệp hơn.
Phần thưởng cho danh tiếng tốt của doanh nghiệp là làm tăng hoạt động kinh doanh
và cải thiện khả năng nhận được nguồn lực từ các bên hữu quan. Do đó danh tiếng
có thể làm tăng khả năng sinh lợi nhuận và xây dựng sự thịnh vượng cho các bên
hữu quan. Như vậy, việc hành xử có đạo đức và trách nhiệm xã hội là hành động
đúng đắn mang tính kinh tế, mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích trong ngắn

hạn cũng như dài hạn. Các doanh nghiệp khi đã xây dựng được danh tiếng trên thị
trường cần phải bảo vệ danh tiếng đó. Để bảo vệ được danh tiếng cho doanh nghiệp
còn phụ thuộc vào cách hành xử của các bên hữu quan. Một nhà quản trị hoạt động
không có đạo đức sẽ gặp khó khăn khi hợp tác với các doanh nghiệp khác, các cổ
đông có thể từ chối đầu tư vào doanh nghiệp của họ, và điều này sẽ giảm giá cổ
phiếu, hủy hoại danh tiếng của doanh nghiệp và cuối cùng đưa công việc của các
nhà quản trị đó đến rủi ro. Các nhà cung ứng cung cấp đầu vào có chất lượng kém
sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và từ đó ảnh hưởng đến uy tín của doanh
nghiệp. Người lao động lẩn tránh trách nhiệm đối với công việc, làm việc không
theo quy chuẩn đạo đức của doanh nghiệp sẽ làm lệch lạc quy trình sản xuất, không
đảm bảo hiệu quả công việc. Nói chung, nếu một bên hữu quan hay một doanh
nghiệp bị tiếng là không có đạo đức, các bên hữu quan khác đều có khả năng nhìn
nhận cá nhân hoặc tổ chức đó với sự nghi ngờ và thái độ không tốt, và danh tiếng
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

15


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

của cá nhân hoặc tổ chức đó sẽ trở nên tồi tệ. Nhưng nếu doanh nghiệp được biết
đến do hoạt động kinh doanh có đạo đức, doanh nghiệp đó sẽ phát triển được danh
tiếng trên thị trường.
1.4.2. Vai trò của đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội

1.4.2.1. Đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh doanh
Đạo đức kinh doanh bổ sung và kết hợp với pháp luật điều chỉnh các hành vi
kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật và quỹ đạo của các chuẩn mực đạo đức xã
hội. Không một pháp luật nào dù hoàn thiện đến đâu chăng nữa cũng có thể là
chuẩn mực cho mọi hành vi của đạo đức kinh doanh. Pháp luật không thể thay thế
vai trò của đạo đức kinh doanh trong việc khuyến khích mọi người làm việc thiện,
tác động vào lương tâm của các doanh nhân. Bởi vì phạm vi ảnh hưởng của đạo đức
rộng hơn pháp luật, nó bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần, trong khi pháp
luật chỉ điều chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ Nhà nước, chế độ xã hội.
1.4.2.2. Đạo đức kinh doanh góp phần nâng cao chất lượng của doanh nghiệp và
giúp doanh nghiệp tăng hiệu quả kinh doanh
Phần thưởng cho doanh nghiệp có quan tâm đến đạo đức là được nhân viên,
khách hàng và công luận thừa nhận. Phần thưởng cho việc thực hiện đạo đức và
trách nhiệm xã hội trong các quyết định kinh doanh bao gồm: hiệu quả trong các
hoạt động hàng ngày và sự tận tâm của các nhân viên tăng cao, chất lượng sản phẩm
được cải thiện, sự trung thành của khách hàng và lợi ích về kinh tế lớn hơn.
Tăng sự tin tưởng, trung thành của nhân viên: Khi quan tâm tới các chuẩn
mực đạo đức kinh doanh, tức là doanh nghiệp cũng rất tôn trọng và quan tâm tới nhân
viên. Doanh nghiệp càng quan tâm tới nhân viên, nhân viên càng tận tâm với doanh
nghiệp. Hơn nữa, bất cứ ai cũng muốn làm việc cho những doanh nghiệp có hoạt
động kinh doanh minh bạch, trong sáng. Họ tin tưởng hơn vào sự phát triển bền vững
của doanh nghiệp. Khi làm việc trong một doanh nghiệp hướng tới cộng đồng, hướng
tới lợi ích của xã hội, bản thân mỗi nhân viên cũng thấy công việc của mình có giá trị
hơn. Họ làm việc tận tâm hơn và sẽ trung thành với doanh nghiệp hơn.

SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga


16


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

Tăng sự tin tưởng, thỏa mãn của đối tác và khách hàng: Đối với những
doanh nghiệp luôn gắn lợi ích của mình với lợi ích của khách hàng và xã hội, sự tin
tưởng và thỏa mãn của khách hàng cũng sẽ ngày càng tăng lên. Mối quan hệ giữa
doanh nghiệp và khách hàng là mối quan hệ tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau. Một
khách hàng vừa lòng, sẽ quay lại với doanh nghiệp và kéo tới cho doanh nghiệp
những khách hàng khác. Ngược lại, một khách hàng không vừa lòng sẽ không bao
giờ trở lại và cũng kéo đi những khách hàng khác. Các nhà đầu tư cũng rất quan tâm
đến vấn đề đạo đức, trách nhiệm xã hội và uy tín của các doanh nghiệp mà họ đầu
tư bởi các nhà đầu tư biết rằng, một môi trường đạo đức là nền tảng cho sự hiệu
quả, năng suất và lợi nhuận.
Góp phần nâng cao hình ảnh doanh nghiệp: Doanh nghiệp quan tâm tới đạo
đức kinh doanh sẽ có được sự trung thành của nhân viên, sự tin tưởng, hài lòng của
khách hàng và các nhà đầu tư. Khi có trách nhiệm cao với cộng đồng, xã hội, doanh
nghiệp cũng sẽ nhận được sự ủng hộ tích cực của cộng đồng. Hình ảnh doanh
nghiệp được nâng cao hơn, tạo dựng được sự tín nhiệm lâu dài đối với mọi người
cũng như sẽ có lợi thế cạnh tranh tốt hơn và dành được nhiều cơ hội kinh doanh
cũng như lợi nhuận hơn. Điều này không phải doanh nghiệp nào cũng làm được và
cũng không phải có tiền là tạo dựng được.
Tóm lại, trong xã hội phức tạp, đa dạng, các doanh nghiệp và cộng đồng nói
chung cần nhận ra họ là một phần của một nhóm xã hội lớn hơn. Cách thức họ ra
quyết định và hành động không chỉ tác động đến cá nhân họ mà còn tác động đến
cuộc sống của nhiều người khác. Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội có vai

trò rất lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Từ thực tế, các nhà kinh tế đã
chứng minh rằng lợi nhuận doanh nghiệp gắn liền với đạo đức, và mức độ tăng lợi
nhuận gắn với mức độ tăng đạo đức. Vì vậy, khi không hiểu được vai trò của đạo
đức kinh doanh, không có ý thức xây dựng đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp,
các doanh nghiệp sẽ rất khó đi tới con đường thành công cao nhất. Khi doanh
nghiệp hành xử có đạo đức và trách nhiệm đối với xã hội thì doanh nghiệp sẽ dễ
dàng được ghi nhận, khách hàng có thêm niềm tin và danh tiếng của doanh nghiệp
nhờ vậy cũng được nâng cao, điều này rất cần thiết khi doanh nghiệp muốn tồn tại
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

17


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

1.5. Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện Đạo đức kinh doanh và Trách
nhiệm xã hội
Vai trò của Nhà nước là rất quan trọng trong việc điều chỉnh các hành vi làm
ảnh hưởng đến môi trường và xã hội. Tuy đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã
hội không được thể chế hóa thành luật nhưng khi doanh nghiệp có hành vi vi phạm
dẫn đến những hậu quả ảnh hưởng đến môi trường và xã hội thì vẫn sẽ bị xử phạt
theo luật định và Nhà nước sẽ là cơ quan pháp lý thực hiện việc xử phạt doanh
nghiệp. Trong thời gian qua, Nhà nước đã và đang áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp

ngăn chặn và hạn chế sự sai phạm của các doanh nghiệp như tuyên truyền giáo dục,
kinh tế, hành chính và hình sự, cụ thể bằng việc ban hành một số văn bản quy phạm
pháp luật như: Luật bảo vệ môi trường, Luật đất đai, Luật khoáng sản, Luật tài
nguyên nước, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp… và
đưa ra một số điều trong Bộ luật hình sự như Điều 195 “Tội vi phạm các quy định
về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng”, Điều 180 “Tội vi phạm các quy
định về quản lý và bảo vệ rừng”…để xử lý và điều chỉnh các hành vi vi phạm làm
ảnh hưởng đến môi trường và xã hội. Nhà nước thông qua các điều luật này để cụ
thể hóa những việc doanh nghiệp được phép và không được phép làm, bởi vậy sẽ
hạn chế được những tác động tiêu cực cho các bên hữu quan của doanh nghiệp.
1.5.1. Yêu cầu đối với doanh nghiệp trong việc thực hiện đạo đức kinh doanh
1.5.1.1. Những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức kinh doanh doanh nghiệp cần
thực hiện:
Tính trung thực: Đối với Nhà nước, trung thực trong chấp hành luật pháp,
không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn bán những
mặt hàng quốc cấm, không thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ tục
Việt Nam. Đối với khách hàng và bạn hàng: không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo
trá để kiếm lời, giữ lời hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh, nhất quán trong nói và
làm, không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, vi phạm bản
quyền. Trung thực ngay với bản thân: không hối lộ, tham ô, thụt két…
Tôn trọng con người: Đối với những người cộng sự và dưới quyền cần tôn
trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên,
quan tâm đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác. Đối
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

18



Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

với khách hàng: tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng. Đối với đối thủ
cạnh tranh: tôn trọng lợi ích của đối thủ, tôn trọng sản phẩm và ý tưởng của đối thủ.
Gắn lợi ích của Doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi
trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội, không vì lợi nhuận mà làm ảnh hưởng
đến các đối tượng hữu quan và ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên.
1.5.1.2. Xây dựng chương trình đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng được một chương trình đạo đức hiệu quả
đảm bảo tất cả các nhân viên đều hiểu và tuân thủ theo các nguyên tắc đạo đức kinh
doanh đưa ra. Doanh nghiệp hướng dẫn mọi thành viên thực hiện, đồng thời thường
xuyên kiểm tra, đánh giá chương trình đạo đức và không ngừng hoàn thiện chương
trình đạo đức. Xây dựng và phát triển đạo đức trong doanh nghiệp là cả quá trình,
đòi hỏi sự tận tâm của mọi thành viên trong doanh nghiệp.
STT

Các bước

Giải thích

1

Xây dựng
chương trình
đạo đức


2

Phổ biến chươngDoanh nghiệp phổ biến bản quy định về đạo đức cho tất cả
trình đạo đức các nhân viên, các doanh nghiệp con, doanh nghiệp liên kết
đảm bảo mọi thành viên trong doanh nghiệp đều chấp nhận
và thực hiện theo. Có thể áp dụng nhiều hình thức khác
nhau: thông qua các chương trình đào tạo, các buổi gặp mặt
truyền thống, các buổi hướng dẫn, trao đổi trực tiếp với nhân
viên.

SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

Doanh nghiệp lập ra một ban chịu trách nhiệm xây dựng
chương trình đạo đức cho doanh nghiệp. Ban này cần có sự
tham gia và chịu trách nhiệm của ban giám đốc hoặc các nhà
quản lý cấp cao. Chương trình đạo đức doanh nghiệp đề ra
các nguyên tắc, quy định phù hợp với các chuẩn mực đạo
đức kinh doanh, với văn hóa, với mục tiêu tổng quát của
doanh nghiệp. Các nguyên tắc, quy định cần phải rõ ràng, cụ
thể, cần cho nhân viên biết rõ hành vi nào được chấp nhận,
hành vi nào không được chấp nhận trong doanh nghiệp.

19


Báo cáo nghiên cứu khoa học


GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

3

Thực hiện, kiểm Trước hết, bản thân ban giám đốc, lãnh đạo phải là người
tra, đánh giá
thực hiện những quy định về đạo đức đầu tiên. Nếu những
chương trình
người đứng đầu doanh nghiệp hành động vô đạo đức thì rất
đạo đức
khó tạo ra và phát triển một môi trường đạo đức trong doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp hướng dẫn nhân viên thực hiện theo những
quy định đã được đề ra. Bản quy định về đạo đức cần trở
thành đạo đức nghề nghiệp của mọi nhân viên, trở thành một
bộ phận của văn hóa công ty.
Doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá xem việc thực hiện các
nguyên tắc, quy định của các thành viên đạt tới đâu. Trong
quá trình đánh giá, cần có mức thưởng công bằng đối với
những người làm tốt và nhắc nhở kịp thời những người làm
chưa tốt.

4

Không ngừng
hoàn thiện
chương trình
đạo đức.


Cùng với sự phát triển của doanh nghiệp, bản chương trình
đạo đức cũng cần phát triển và hoàn thiện dần. Doanh nghiệp
cam kết phục vụ khách hàng tốt hơn, quan tâm tới đời sống
nhân viên hơn, có trách nhiệm với xã hội, cộng đồng hơn
nữa. Tất cả những hoạt động đó cần được duy trì và phát
triển gắn liền với sự phát triển của doanh nghiệp.

Ngoài ra, để xây dựng chương trình đạo đức hiệu quả cần phải biết kết hợp
giữa các yếu tố: đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức cá nhân và đạo đức
tổ chức. Đây là các yếu tố cơ bản xác định sự khác nhau trong đạo đức kinh doanh
của một nhà quản trị, của một công ty và của một quốc gia.
Đạo đức xã hội là những tiêu chuẩn quản lý về việc các thành viên của một
xã hội nên đối xử với nhau như thế nào về những vấn đề nảy sinh có liên quan. Đạo
đức xã hội xuất phát từ luật pháp, tục lệ, các hoạt động, từ những giá trị và chuẩn
mực không được viết ra của một xã hội, chúng ảnh hưởng đến việc mọi người
tương tác lẫn nhau như thế nào. Mọi người trong một đất nước cụ thể có thể hành
xử có đạo đức một cách tự động vì họ đã bị nội hóa những giá trị, niềm tin, và
những chuẩn mực nhất định để chỉ rõ họ nên hành xử như thế nào khi đương đầu
với tình thế lưỡng nan về đạo đức. Đạo đức xã hội thay đổi giữa các xã hội, các
quốc gia; có những vấn đề ở quốc gia này, khu vực này là vi phạm đạo đức nhưng ở
quốc gia khác, khu vực khác lại chấp nhận được. Bởi vậy, doanh nghiệp hoạt động
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

20


Báo cáo nghiên cứu khoa học


GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

trong xã hội nào cần lưu ý đến những chuẩn mực đạo đức của xã hội đấy để xây
dựng chương trình đạo đức cho doanh nghiệp hiệu quả và phù hợp.
Đạo đức nghề nghiệp là những tiêu chuẩn để quản lý việc các thành viên
của một nghề chuyên môn, một nghề thương mại hoặc một nghề thủ công cần cư xử
như thế nào khi họ thực hiện những hoạt động liên quan đến công việc. Giống như
trong một xã hội tự do, hầu hết các nhóm nghề nghiệp có thể áp đặt những hình phạt
do vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức. Các quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp thường
quản lý việc doanh nghiệp nên ra quyết định như thế nào để gia tăng lợi ích của các
bên hữu quan. Bởi vậy, khi doanh nghiệp hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng
cần tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực nghề nghiệp của ngành nghề đó.
Đạo đức cá nhân là những tiêu chuẩn và giá trị mang tính cá nhân xác định
việc mọi người xem những trách nhiệm của họ đối với những người và các nhóm
khác như thế nào, và từ đó họ nên hành xử như thế nào trong những tình huống khi
lợi ích cá nhân của riêng họ bị đe dọa. Nguồn gốc của đạo đức cá nhân bao gồm
những ảnh hưởng của gia đình, người cùng tuổi, và điều kiện lớn lên nói chung của
người đó. Chính vì lẽ đó, nhiều quyết định hoặc hành vi mà một người thấy không
có đạo đức nhưng lại có thể chấp nhận được với người khác tùy vào quan điểm cá
nhân của mỗi người. Bởi vậy, đạo đức cá nhân không thể áp dụng cho một xã hội
rộng lớn mà cần phải kết hợp với những chuẩn mực đạo đức khác để cân bằng giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích của những nhóm người khác. Các nhà quản trị và người
lao động trong tổ chức có thể cho rằng những hành động mà họ tiến hành để xúc
tiến hoặc bảo vệ tổ chức là quan trọng hơn so với bất cứ thiệt hại nào những hành
động đó có thể gây ra cho các bên hữu quan theo đạo đức cá nhân của họ, nhưng
như vậy họ đã hành xử không có đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp, và khi
điều đó bị phát hiện ra thì họ cũng bị trừng phạt. Nên khi xây dựng chương trình
đạo đức, các nhà quản trị không chỉ được dựa vào đạo đức, quan điểm cá nhân mà

cần xây dựng một cách khách quan dựa trên nhiều cơ sở khác.
Đạo đức tổ chức là việc chỉ dẫn những hoạt động và lòng tin qua đó doanh
nghiệp cụ thể và các nhà quản trị của nó nhìn nhận trách nhiệm của họ hướng đến
các bên hữu quan. Đạo đức cá nhân của những người sáng lập và các nhà quản trị
cấp cao của doanh nghiệp là đặc biệt quan trọng trong việc định hình chuẩn mực về
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

21


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

đạo đức của tổ chức đó. Nếu các nhà quản trị cấp cao của doanh nghiệp nhất quán
tán thành những nguyên tắc đạo đức trong chương trình đạo đức, họ có thể ngăn cản
nhân viên khỏi bị lầm đường. Nhân viên có nhiều khả năng hành động không có
đạo đức hơn khi không có chương trình đạo đức rõ ràng.
1.5.2. Các nghĩa vụ trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Nghĩa vụ

Nội dung
Với xã hội: Doanh nghiệp cần tìm kiếm nguồn lực, thúc đẩy tiến
bộ khoa học công nghệ để sản xuất hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn
người tiêu dùng và tạo ra lợi nhuận để trả thù lao xứng đáng cho
người lao động cũng như hoàn thành trách nhiệm nộp thuế, lệ phí cho

Nhà nước, đây là việc doanh nghiệp góp phần tăng thêm phúc lợi cho
xã hội.
Với người tiêu dùng là cung cấp hàng hóa và dịch vụ, các vấn đề
liên quan đến chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản
phẩm, phân phối và bán hàng. Đáp ứng nhu cầu của khách hàng với
mức giá hợp lý.

Với người lao động là tạo công ăn việc làm với mức lương tương
xứng, cơ hội việc làm ngang nhau, cơ hội phát triển nghề và chuyên
Về kinh tế môn, được hưởng môi trường làm việc an toàn vệ sinh, đảm bảo
quyền riêng tư cá nhân.
Đối với chủ tài sản: Bảo tồn và phát triển các giá trị và tài sản
được ủy thác, đảm bảo quyền và phạm vi sử dụng các tài sản được ủy
thác, phân phối và sử dụng phúc lợi thu được từ tài sản và việc sử
dụng tài sản, báo cáo thông tin về hoạt động giám sát.
Với các đối tượng liên quan khác trách nhiệm của doanh nghiệp là
mang lại lợi ích tối đa và công bằng cho họ, có thể được thực hiện
bằng cách cung cấp trực tiếp những lợi ích như hàng hóa, việc làm,
giá cả, chất lượng, lợi tức đầu tư…cho các đối tượng hữu quan tương
ứng. Doanh nghiệp cũng cần phải lựa chọn biện pháp cạnh tranh có
lợi cho các đối tượng liên quan (tránh độc quyền, ép giá…).
Về pháp


Điều tiết cạnh tranh: Các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc
luật pháp hỗ trợ cạnh tranh, tránh tình trạng độc quyền, phối hợp với
Nhà nước ngăn chặn các biện pháp định giá không cân bằng.
Bảo vệ người tiêu dùng: Tổ chức kinh doanh phải cung cấp thông
tin chính xác về các sản phẩm và dịch vụ, tuân thủ các tiêu chuẩn an
toàn sản phẩm.


SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

22


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

Bảo vệ môi trường: Không thải các chất độc hại trong sản xuất vào
môi trường. Không làm ô nhiễm không khí, nước, đất đai và tiếng ồn.
Bên cạnh những vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên, vật chất, vấn đề
bảo vệ môi trường văn hóa – xã hội, phi vật thể cũng được chú trọng,
bởi vậy, các doanh nghiệp cần chú ý đến vấn đề marketing, quảng cáo,
tránh làm ảnh hưởng đến giá trị văn hóa và đạo đức truyền thống.
An toàn và bình đẳng: Luật pháp bảo vệ người lao động trước tình
trạng phân biệt đối xử. Luật pháp thừa nhận quyền của các công ty, tổ
chức trong việc tuyển dụng những người có năng lực, tuy nhiên, luật
pháp cũng ngăn chặn việc sa thải người lao động tùy tiện và bất hợp
lý. Những quyền cơ bản của người lao động cần được bảo vệ là quyền
được sống và làm việc, có cơ hội việc làm như nhau, nếu không có
bằng chứng cụ thể khi sa thải nhân viên là việc làm vi phạm đạo đức.
Luật pháp cũng bảo vệ quyền của người lao động được hưởng một
môi trường làm việc an toàn, không có chất độc hại, có đủ các loại
bảo hiểm theo quy định. Những điều này doanh nghiệp cần phải thực

hiện đúng theo luật định.
Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn những hành vi sai trái: hầu
hết các trường hợp vi phạm về đạo đức đều là do các công ty vượt
khỏi giới hạn của các chuẩn mực do công ty hay ngành quy định. Bởi
vậy các doanh nghiệp cần xây dựng các chương trình giao ước đạo
đức trong đó thiết lập được hệ thống phòng ngừa, ngăn chặn, phát
hiện và xử lý kịp thời các hành vi sai trái và bảo vệ người phát giác.
Về đạo
đức

Về nhân
văn

SVTH:

Liên quan đến những hành vi hay hành động được các thành viên
trong tổ chức, cộng đồng xã hội mong đợi hay không mong đợi nhưng
không được thể chế hóa thành luật. Nghĩa vụ đạo đức trong trách
nhiệm xã hội được thể hiện thông qua các tiêu chuẩn, chuẩn mực và
nó phản ánh quan niệm của các đối tượng hữu quan về đúng, sai, công
bằng, quyền lợi cần được bảo vệ của họ, được trình bày trong bản sứ
mệnh và chiến lược của tổ chức. Thông qua những tuyên bố trong các
tài liệu này về quan điểm của tổ chức, những nguyên tắc và giá trị đạo
đức trở thành kim chỉ nam cho sự phối hợp hành động của mỗi thành
viên và những người hữu quan.
Liên quan đến việc doanh nghiệp đóng góp cho cộng đồng và cho
xã hội, những đóng góp này được thể hiện trên bốn phương diện:
nâng cao chất lượng cuộc sống, san sẻ bớt gánh nặng cho chính phủ,
nâng cao năng lực lãnh đạo cho nhân viên và phát triển nhân cách cho
người lao động. Ví dụ như doanh nghiệp làm các công tác từ thiện,

nhân đạo, đầu tư cho giáo dục…

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

23


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

1.5.3. Vai trò của nhà quản trị doanh nghiệp trong việc thực hiện đạo đức kinh
doanh và trách nhiệm xã hội
Các nhà quản trị là người nhận thức được bản chất của mối quan hệ trong
kinh doanh, những vấn đề và mâu thuẫn tiềm ẩn, tìm ra biện pháp quản lý khắc
phục những trở ngại có thể dẫn đến bất đồng, tạo dựng bầu không khí làm việc
thuận lợi cho mọi người hoà đồng, tìm được hướng chung tạo ra sức mạnh tổng hợp
của sự đồng thuận, đóng góp cho sự phát triển của tổ chức.
Sự lãnh đạo chú trọng vào việc xây dựng các giá trị đạo đức tổ chức vững
mạnh cho các nhân viên sẽ tạo ra sự đồng thuận về chuẩn mực đạo đức và trách
nhiệm xã hội. Các lãnh đạo ở địa vị cao trong tổ chức đóng vai trò chủ chốt trong
việc truyền bá các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Các nhà lãnh đạo có thể thiết
lập các chương trình đào tạo đạo đức chính thức và không chính thức, cũng như các
hướng dẫn khác, giúp các nhân viên phải lưu tâm đến khía cạnh đạo đức trong quá
trình đưa ra quyết định của mình. Nhận thức của các nhân viên về doanh nghiệp của
mình là có một môi trường đạo đức sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp trong hoạt
động của tổ chức.
Để làm được những điều này, người lãnh đạo trước hết phải là người có đạo

đức cá nhân tốt, ngoài ra cần có kinh nghiệm, sự chính trực và nhận thức đúng đắn
về đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.
1.6. Những bài học thành công và thất bại điển hình của các doanh nghiệp
trong và ngoài nước về vấn đề Đạo đức kinh doanh và Trách nhiệm xã hội
1.6.1. Bài học từ Max Burgers
Mọi người thường cho rằng những lời kêu gọi hướng tới một hành tinh xanh
chỉ đến từ những chính trị gia hay những tổ chức bảo vệ môi trường. Nhưng trên
thực tế, rất nhiều doanh nghiệp, từ nhỏ đến lớn, bắt đầu áp dụng công nghệ bảo vệ
môi trường vào hoạt động của mình để hướng tới một mô hình bền vững với lợi
nhuận cao hơn cũng như thực hiện việc kinh doanh có đạo đức và trách nhiệm hơn.
Max Burgers - chuỗi cửa hàng ăn nhanh nổi tiếng của Thụy Sỹ, đã bắt đầu
thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường cùng với chiến dịch kinh doanh của
mình từ năm 2006. Cửa hàng chỉ mua duy nhất năng lượng từ sức gió và bù đắp
toàn bộ lượng CO2 mình thải ra bằng cách trồng một lượng cây tương đương tại
SVTH:

Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

24


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: TS. Nguyễn Thế Hòa
CN. Hoàng Thị Thu Thỏa

Uganda. Cửa hàng cũng đưa ra những chính sách để cắt giảm bớt 20% lượng điện
tiêu thụ.
Đến năm 2008, Max đưa thêm nhãn CO2 vào trong thực đơn của mình, với

thông số chính xác về lượng CO2 trong từng gói khoai chiên hay trong mỗi món ăn.
Cửa hàng cũng đồng thời đưa ra cảnh báo về việc sản xuất thịt bò trong các loại
burger tạo ra lượng CO2 cao gấp 5 lần so với các loại burger chay và 6 lần so với
sandwich cá. Bằng những chỉ báo này, cửa hàng hy vọng khách hàng sẽ có những
lựa chọn phù hợp hơn. Và họ đã thành công. Khách hàng khi tới Max Burgers bắt
đầu lựa chọn những loại burger không có thịt bò còn doanh số các loại burger ít tạo
ra CO2 hơn tăng 16%. Nhờ vào chiến lược này, Max Burgers đã tăng trưởng mạnh.
Từ năm 2005 đến năm 2011, Max đã mở thêm 45 cửa hàng mới và tăng gấp
đôi thị phần tại Thụy Sỹ. Năm 2008 - năm mà cửa hàng thêm nhãn CO2 vào trong
thực đơn của mình - Max trở thành chuỗi cửa hàng burger được nhiều người tìm
đến nhất Thụy Sỹ, vượt qua Mc Donald bất chấp việc Mc Donald có số lượng cửa
hàng nhiều gấp 3 lần Max tại Thụy Sỹ.
Những sáng kiến bảo vệ môi trường thực sự đem lại lợi nhuận và hiệu quả
kinh doanh cho công ty. Theo một cuộc điều tra của Mindshare, những sáng kiến
này đã tăng cường lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm của Max,
đồng thời tăng thêm 27% lượng khách trong giai đoạn từ 2007 - 2009. Thêm vào
đó, họ còn thu về những khách hàng mới. Những người ăn chay giờ đây cũng tìm
đến Max burger để thưởng thức Greenburgare, salad đậu hay sữa dâu lắc. Với lợi
nhuận hàng năm lên đến 16%, Max trở thành một trong những cửa hàng có lợi
nhuận cao nhất nước. Hiện tại, cửa hàng này đang mở rộng dịch vụ sang Nauy và
các quốc gia thuộc EU.
Max Burgers không phải là doanh nghiệp duy nhất triển khai các chiến lược
bảo vệ môi trường vào trong sản phẩm của mình. Nhìn thấy lợi nhuận cũng như khả
năng phát triển bền vững từ việc áp dụng chiến lược này, nhiều công ty lớn trên thế
giới cũng đang áp dụng các mô hình tương tự. Chẳng hạn như General Electric
(GE). Kể từ năm 2006, công ty này đã bán được 12 tỉ USD sản phẩm có lợi cho môi
trường (bao gồm cả pin mặt trời). GE cũng đang tiến hành làm sạch con sông
Hudson mà mình từng làm ô nhiễm.
SVTH:


Ngô Thúy Hằng
Bạch Ngọc Nga

25


×