Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Khái quát tình hình doanh nghiệp và trợ giúp phát triển DNNVV năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.09 KB, 27 trang )

Khái quát tình hình doanh nghiệp và trợ giúp phát triển DNNVV năm
2014
B áo c áo củ a Cụ c P h át tr i ể n d o an h n g h i ệ p tại c u ộ c h ọ p H ội đ ồ n g k hu y ế n
k hí c h p h át tr i ể n D NN V V th án g 1 2/ 2 01 4

I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH DOANH NGHIỆP
Tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 diễn ra trong bối cảnh kinh
tế thế giới hồi phục chậm và không đồng đều giữa các nền kinh tế sau
suy thoái toàn cầu. Ngoài ra, tình hình chính trị bất ổn tại một số quốc
gia, nhất là khu vực châu Âu dẫn đến kinh doanh trong lĩnh vực thương
mại và công nghiệp cũng như xuất khẩu của khu vực đồng EURO bị ảnh
hưởng mạnh bởi các biện pháp trừng phạt kinh tế giữa các nước trong
khu vực.
Ở trong nước, kinh tế vĩ mô diễn biến theo hướng tích cực. Tuy
nhiên, tổng cầu của nền kinh tế tăng chậm, hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp còn khó khăn, tồn kho hàng hóa vẫn ở mức
cao. Sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu.
Trước tình hình đó, Đảng, Quốc hội và Chính phủ tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp và địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu
quả các giải pháp nhằm từng bước thực hiện tốt mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của cả năm, trong đó đáng lưu ý là:
(i) Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt các ngành,
các cấp và địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số
01/NQ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2014. Chính phủ đã có nhiều hành
động cụ thể chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp (DN).


(ii) Nhằm đẩy mạnh tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động của
khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tại Hội nghị triển khai nhiệm
vụ tái cơ cấu DNNN 2014-2015 ngày 18/02/2014, Thủ tướng Chính phủ


đã ra Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 12/03/2014 về đẩy mạnh tái cơ cấu
DNNN. Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết số 15/NQ-CP ngày
06/03/2014 về việc đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Ngày
15/7/2014, tại Hà Nội, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị triển khai Nghị
quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới
và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm
nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ cũng tổ chức nhiều cuộc họp của Ban Chỉ
đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, tổ chức các đoàn công tác của
Ban chỉ đạo cùng các bộ ngành liên quan kiểm tra, đôn đốc, xử lý kịp
thời những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện tái cơ cấu DNNN.
(iii) Để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng DN, tại Hội
nghị Thủ tướng Chính phủ với DN năm 2014 được tổ chức vào ngày
28/04/2014 tại Hà Nội, Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg
ngày 21/05/2014 vềgiải quyết khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, thúc
đẩy phát triển sản xuất kinh doanh của DN, góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2015.
Sự quyết tâm của Chính phủ, các cấp, các ngành cùng với nỗ lực
của cộng đồng DN đã góp phần giữ ổn định vĩ mô, từng bước phục hồi
và phát triển sản xuất, tạo tăng trưởng kinh tế hợp lý và bảo đảm an
sinh xã hội. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2014 đạt 5,9%, cao
hơn so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra (5,8%) và cao hơn năm 2013
(5,42%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Kinh tế vĩ
mô duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới mức 5%, mặt bằng


lãi suất giảm, cán cân thương mại thặng dư, thị trường ngoại hối ổn
định, thanh khoản của hệ thống ngân hàng duy trì tốt, niềm tin nhà đầu
tư tiếp tục bảo đảm. Mặc dù có những chỉ báo tích cực về tình hình
kinh tế vĩ mô nhưng nhìn chung hoạt động sản xuất của DN vẫn còn
khó khăn và tiếp tục cần có các giải pháp tháo gỡ, hỗ trợ để có thể duy

trì động lực phát triển.
Theo thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư), trong năm 2014, cả nước có 74.842 DN đăng ký thành lập
mới với tổng số vốn đăng ký là 432.286 tỷ đồng, giảm 2,7% về số DN
và tăng 8,4% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, xu hướng thanh lọc diễn ra mạnh mẽ từ năm 2013
đến nay đã sàng lọc lại những DN thực sự có chất lượng, không chỉ linh
hoạt để tồn tại qua giai đoạn khó khăn nhất mà còn tìm kiếm thêm cơ
hội kinh doanh mới để mở rộng quy mô hoạt động. Cụ thể, trong năm
2014, có 22.758 lượt DN thay đổi tăng vốn với tổng số vốn đăng ký
tăng thêm là 595.707 tỷ đồng. Như vậy, tổng số vốn đăng ký mới và
đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế trong năm 2014 là 1.027.993 tỷ
đồng.
Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN trong năm 2014 đạt
5,8 tỷ đồng, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2013. Số lao động dự kiến
được tạo công việc làm của các DN thành lập mới trong năm 2014 là
1.091 nghìn lao động, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy,
mặc dù vẫn chưa thực sự thoát khỏi bối cảnh khó khăn nhưng xét trên
khía cạnh quy mô vốn, doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2014 đã
tăng hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Điều đó cho thấy môi trường kinh


doanh đã được cải thiện, tạo niềm tin cho cộng đồng DN vào môi
trường kinh doanh.
Trong năm 2014, một số ngành, lĩnh vực hoạt động có sự gia tăng
về DN thành lập mới, như: nghệ thuật, vui chơi và giải trí; nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, đặc biệt là sự phục hồi trở lại của lĩnh
vực kinh doanh bất động sản, phản ánh hiệu quả các biện pháp của
Chính phủ trong việc tháo gỡ khó khăn của chương trình tín dụng
30.000 tỷ đồng cho vay hỗ trợ nhà ở người có thu nhập trung bình, thu

nhập thấp. Bên cạnh đó, vẫn còn một số ngành, lĩnh vực có số DN
thành lập mới giảm so với năm 2013, gồm: khai khoáng; khoa học,
công nghệ; dịch vụ tư vấn, thiết kế; quảng cáo và chuyên môn khác;
xây dựng; dịch vụ việc làm; du lịch; cho thuê máy móc thiết bị, đồ
dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác và bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe
máy.
II. TÌNH HÌNH TRỢ GIÚP DNNVV NĂM 2013-2014
1. Tổng quan về chính sách trợ giúp DNNVV
Nhằm tạo khung khổ pháp lý cho hoạt động trợ giúp phát triển
DNNVV, ngày 30/6/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV và tiếp đến là Nghị
quyết số 22/NQ-CP ngày 05/5/2010 của Chính phủ nhằm đẩy mạnh
triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP. Kế hoạ ch phá t triể n
DNNVV 5 năm giai đoạ n 2011-2015 (ban hành kèm theo Quyết định số
1231/QĐ-TTg ngày 07/9/2012) đã đượ c xây dự ng, trong đó cụ thể hó a
nhiề u giả i phá p trợ
56/2009/NĐ-CP.

giú p DNNVV quy đị nh tạ i Nghị định số


Trên cơ sở khung phá p lý về trợ giú p phá t triể n DNNVV, Chính
phủ đã ban hà nh nhiề u chí nh sá ch trợ giúp phát triển DNNVV (hoặ c
liên quan đế n trợ giú p DNNVV) trong cá c lĩ nh vự c: hỗ trợ tài chính
tí n dụ ng; mặt bằng sản xuất kinh doanh; đổi mới, nâng cao năng lực
công nghệ; xúc tiến mở rộng thị trường; thông tin và tư vấn; phát triển
nguồn nhân lực.v.v… cho các DNNVV. Điể n hì nh là mộ t số chương
trì nh, hoạ t độ ng liên quan đế n trợ giú p DNNVV trong cá c lĩ nh vự c
sau:
- Hỗ trợ tà i chí nh, tí n dụ ng: hỗ trợ DNNVV vay vố n tạ i cá c

ngân hàng thương mại (NHTM); bả o lã nh tí n dụ ng cho cá c DNNVV
vay vố n tạ i NHTM (thông qua cá c Quỹ bả o lã nh tí n dụ ng cho DNNVV
tạ i cá c đị a phương và thông qua Ngân hàng Phát triển Việ t Nam); hỗ
trợ DN thông qua gia hạn, miễn, giảm một số khoản thu NSNN (thuế
Thu nhập DN, thuế Giá trị gia tăng, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất…)
theo cá c Nghị quyế t củ a Quố c hộ i và củ a Chí nh phủ .v.v…
- Đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trì nh độ kỹ thuậ t cho
cá c DNNVV: Chương trì nh đổ i mớ i khoa họ c công nghệ quố c gia đế n
năm 2020[1] ; Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn
2011-2015 [2] ; Chương trình quốc gia nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm, hàng hóa của DN Việt Nam đến năm 2020 [3] ; và mộ t số cơ
chế và chí nh sá ch khuyế n khí ch DN đầ u tư và o khoa họ c công nghê
̣ . v.v…
- Trợ giú p phá t triể n nguồ n nhân lự c cho DNNVV: Đà o tạ o, bồ i
dưỡ ng nguồ n nhân lự c cho cá c DNNVV [4] ; Chương trì nh nâng cao
năng lự c quả n lý (thuộ c Chương trì nh khuyế n công quố c gia); Nâng


cao năng lự c phá p lý cho DN (thuộ c Chương trì nh hỗ trợ phá p lý liên
ngà nh).v.v…
- Hỗ trợ thông tin và tư vấ n: Nghị đị nh số 78/2002/NĐ-CP củ a
Chí nh phủ quy đị nh về hoạ t độ ng cung ứ ng và sử dụ ng dị ch vụ tư
vấ n; Nghị đị nh số 77/2008/NĐ-CP củ a Chí nh phủ quy đị nh về tư vấ n
phá p luậ t; Hoạ t độ ng hỗ trợ phá p lý thuộ c Chương trì nh hỗ trợ phá p
lý liên ngà nh; Hoạ t độ ng tư vấ n khuyế n công .v.v…
- Xú c tiế n, mở rộ ng thị trườ ng: cá c hoạ t độ ng xú c tiế n thương
mạ i (thông qua Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia của các Bộ,
ngành, địa phương).v.v…
Trong các năm 2013 và 2014, Nhà nước đã dành nguồn lực từ
NSNN và cá c nguồ n huy độ ng, tà i trợ khá c thông qua cá c chương

trì nh, hoạ t độ ng, dự á n để thực hiện trợ giúp các DNNVV ( tổng hợp
tại Phụ lục kèm theo ).
2. Đánh giá một số kết quả đạt được trong trợ giúp DNNV
2.1. Cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan
Trong năm 2013 và 2014, với việc sửa đổi, bổ sung các Luật
thuế: Thu nhập DN, Thu nhập cá nhân, Giá trị gia tăng, Luật Quản lý
thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành [5] , đặc biệt với sự chỉ đạo
quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết số
19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia; Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 21/5/2014 của Thủ tướng Chính
phủ về giải quyết khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, thúc đẩy phát triển
sản xuất kinh doanh của DN, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2015 và Chỉ thị số


13/CT-TTg ngày 01/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy nhanh
thực hiện các giải pháp và giải quyết các thủ tục hỗ trợ, giúp đỡ các
DN bị thiệt hại tại một số địa phương, thủ tục hành chính trong lĩnh
vực thuế đã có những cải cách mạnh mẽ, mang lại những tác động tích
cực đối với cộng đồng DN.
Điển hình là giảm thiểu đáng kể thủ tục hành chính thuế như rút
ngắn thời gian hoàn thuế GTGT đối với trường hợp hoàn thuế trước,
kiểm tra sau (giảm từ 15 ngày xuống 6 ngày); thay đổi về thuế suất
thuế thu nhập DN như: thuế suất phổ thông giảm từ 25% xuống còn
22%, DN có doanh thu không quá 20 tỷ đồng/năm xuống 20% (và còn
tiếp tục giảm theo lộ trình); kê khai nộp thuế GTGT theo quý (thay vì
theo tháng)… Kế t quả thực hiện về kê khai thuế điện tử cũng cho thấ y,
tính đến ngày 25/10/2014, cả nước đã có 416.689 DN khai thuế qua
mạng (chiếm 85,5% số DN đang hoạt động). Nhiều Cục Thuế đã triển

khai có số lượng DN kê khai thuế qua mạng chiếm trên 96% như Cục
Thuế Tp. Hồ Chí Minh (100%), Hà Nội (99,99%), Bà Rịa-Vũng Tàu
(98,98%), Nghệ An, Hải Dương…
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế cũng đã đặt
ra với các chỉ tiêu cụ thể để đến cuối năm 2014 giảm thời gian thực
hiện thủ tục khai thuế, nộp thuế xuống còn không quá 300 giờ/năm và
đến năm 2015 bằng với mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6 (171
giờ/năm); giảm số lần nộp thuế xuống tối thiểu bằng với mức trung
bình của các nước trong khu vực.
Bên cạnh đó, với việc ban hành Luật Hải quan năm 2014 (được
Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 23/6/2014), việc kê
khai hải quan được thực hiện theo phương thức điện tử và kiểm tra hồ


sơ hải quan được thực hiện thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải
quan hoặc trực tiếp bởi công chức Hải quan. Về hồ sơ hải quan, Luật đã
đưa ra quy định chung thống nhất về hồ sơ hải quan theo hướng đơn
giản hóa, chỉ có tờ khai hải quan là chứng từ bắt buộc phải có khi làm
thủ tục hải quan. Về thời hạn làm thủ tục hải quan, quy định rõ thời hạn
kiểm tra hồ sơ hải quan chậm nhất là 02 giờ làm việc; thời gian kiểm
tra thực tế hàng hóa là 8 giờ làm việc; bổ sung quy định cơ quan Hải
quan thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa vào ngày lễ, ngày
nghỉ và ngoài giờ làm việc để bảo đảm kịp việc xếp dỡ hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu, việc xuất cảnh, nhập cảnh của hàng khách, phương
tiện vận tải.
Ngày 01/4/2014, Hệ thống thông quan điện tử và cơ chế một cửa
quốc gia VNACCS/VCIS chính thức đi vào vận hành. Việc thực hiện
Hệ thống VNACCS/VCIS có ý nghĩa rất quan trọng đối với cộng đồng
DN, sẽ tạo thuận lợi hơn nữa cho DN trong quá trình làm thủ tục hải
quan, giúp rút ngắn thời gian thông quan. Tính đến ngày 15/9/2014, Hệ

thống VNACCS/VCIS đã triển khai tại 34/34 Cục Hải quan tỉnh, thành
phố (100%) với 170 Chi cục, với số lượng tờ khai là 2,56 triệu tờ khai,
kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 103,3 tỷ USD (xuất khẩu: 51,72 tỷ USD,
nhập khẩu: 51,58 tỷ USD), với 42.700 DN tham gia.
2.2. Về hỗ trợ tài chính, tín dụng cho DNNVV
Trong năm 2013 và các tháng đầu năm 2014, trên cơ sở bám sát
các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 01/CTNNHH ngày 15/1/2014 về tổ chức chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt
động ngân hàng an toàn, hiệu quả. Theo đó, NHNN đã điều hành chính


sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, chủ động nhằm giảm lạm phát, giảm
mặt bằng lãi suất, ổn định lãi suất, ổn định tỷ giá, quản lý thị trường
vàng, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường
kinh doanh của DN. NHNN đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ
khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải
quyết nợ xấu của DN, điển hình là:
- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ thanh
khoản cho các TCTD để đảm bảo cân đối vốn phục vụ phát triển sản
xuất kinh doanh;
- Điều hành chính sách lãi suất theo hướng giảm dần để hỗ trợ
cho DN, đặc biệt là DNNVV. Theo đó, từ tháng 5/2012, NHNN đã quy
định lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh
vực ưu tiên, trong đó có DNNVV với mức lãi suất thấp hơn 1-2%/năm
so với các lĩnh vực kinh doanh khác, qua đó góp phần tháo gỡ khó khăn
về chi phí vay vốn cho các DNNVV.
- Chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tập trung hỗ trợ cho vay
đối với các lĩnh vực ưu tiên, trong đó có DNNVV; hỗ trợ DN gặp khó
khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh (như cơ cấu lại thời gian trả
nợ, cơ cấu lại các khoản vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh

và khả năng trả nợ của khách hàng; tạo điều kiện thuận lợi cho các DN
có triển vọng phát triển, có sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường
nhưng đang gặp khó khăn về tài chính); triển khai thí điểm một số
chương trình tín dụng như Chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát
triển nông nghiệp nhằm hỗ trợ, khuyến khích người dân, DN ứng dụng
công nghệ cao, liên kết trong sản xuất nông nghiệp.


- Phối hợp với các Bộ, chính quyền địa phương triển khai chương
trình kết nối DN-ngân hàng trên địa bàn các tỉnh, thành phố để nắm bắt
các khó khăn, vướng mắc của DN trong quan hệ tín dụng với ngân hàng
và đưa ra các giải pháp tháo gỡ, tạo điều kiện cho DN vay vốn hiệu
quả. Điển hình là tại Tp. Hồ Chí Minh, trong năm 2013 đã tổ chức 28
đợt ký kết và có 654 DN được ký kết (chủ yếu là các DNNVV) với số
vốn cam kết cho vay là 13.704 tỷ đồng và số vốn giải ngân đạt 12.300
tỷ đồng (90% tổng số vốn cam kết) với lãi suất cho vay ngắn hạn
9%/năm và trung và dài hạn là 9-12%/năm. Trong 6 tháng đầu năm
2014, Chương trình kết nối ngân hàng-DN đã cam kết tài trợ cho DN là
40.625 tỷ đồng. Theo chỉ đạo của NHNN, sắp tới việc tổ chức kết nối
ngân hàng-DN sẽ được triển khai trên phạm vi toàn quốc.
- Tăng cường huy động các nguồn lực của các tổ chức quốc tế bổ
sung nguồn vốn cho vay với lãi suất thấp nhằm giảm chi phí vay vốn
cho DN như Dự án tài chính DN nông thôn của ADB, Chương trình tài
chính vi mô của Tây Ban Nha, Dự án hỗ trợ DNNVV do Chính phủ
Nhật Bản hỗ trợ thông qua Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
(JBIC).v.v…
- Về cấp tín dụng cho DNNVV: Tính đến 31/5/2014, dư nợ tín
dụng đạt 885.894 tỷ đồng, tăng 1,79% so với thời điểm 31/12/2013.
Ước đến cuối tháng 6/2014, dư nợ tín dụng cho DNNVV tăng 2% so với
cuối năm 2013, chiếm trên 25% dư nợ cho vay nền kinh tế. Bên cạnh

đó, Dự án tài trợ DNNVV giai đoạn III do JICA tài trợ (SMEDF III)
được triển khai thực hiện từ năm 2010. Tổng giá trị cho vay lại của
SMEDF III là 16,7 tỷ Yên. Tính đến hết năm 2013, tổng số vốn đã giải
ngân là 991 tỷ đồng cho 504 khoản vay. Tính đến 30/6/2014, tổng số


vốn giải ngân là 368 tỷ đồng cho 182 khoản vay và tổng giá trị đã rút
vốn từ nhà tài trợ là 15,9 tỷ Yên. Về tổng thể, Dự án đã giải ngân được
khoảng 95% nguồn vốn của JICA, đồng thời tiếp tục giải ngân từ tài
khoản quỹ quay vòng của Dự án trong vòng 30 năm tính từ thời điểm có
hiệu lực của Dự án, góp phần hỗ trợ các DNNVV ở Việt Nam.
Ngoài ra, NHNN đã triển khai một số chương tình tín dụng như:
cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp, cho vay DN ứng dụng
công nghệ cao, liên kết trong sản xuất nông nghiệp (số tiền các NHTM
cho vay là 2.700 tỷ đồng); thí điểm triển khai sản phẩm tín dụng liên
kết 4 nhà trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, xây dựng cơ bản (88 dự án
với tổng số tiền 77.800 tỷ đồng).v.v…
2.3. Đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trì nh độ kỹ thuậ t
cho cá c DNNVV:
Trong năm 2013 và 6 tháng đầu năm 2014, Bộ Khoa học và Công
nghệ đã tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai các
chương trình, hoạt động hỗ trợ DN đổi mới, nâng cao năng lực công
nghệ. Điển hình là:
- Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 20112015: Chương trình triển khai đã có những tác động tích cực, tạo ra giá
trị gia tăng và hiệu quả kinh tế-xã hội như nâng cao nhận thức và thúc
đẩy hoạt động sáng tạo trong khoa học, công nghệ và sở hữu trí tuệ;
huy động sự tham gia đông đảo các nhà sản xuất kinh doanh, đặc biệt là
nông sản; đưa kết quả nghiên cứu sáng chế vào thực tiễn đời sống, phục
vụ lợi ích dân sinh. Trong năm 2013 và 2014, Chương trình đã triển
khai mạnh, rộng khắp trên cả nước: phối hợp với Chương trình

ECAPIII tổ chức hướng dẫn đăng ký chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài cho


các địa phương và DN đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài; phối
hợp với WIPO và Thái Lan tổ chức gian hàng triển lãm sản phẩm được
bảo hộ chỉ dẫn ở Băngkok cho 13 loại sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý
của Việt Nam; triển khai đăng ký sáng chế cho 20 giải pháp kỹ thuật,
trong đó có nhiều kết quả sáng tạo của các DNNVV.v.v... Chương trình
đã góp phần đưa hoạt động sở hữu trí tuệ tới nhiều địa phương, xã hội
hóa công tác đầu tư cho hoạt động bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ,
từ cơ sở triển khai của Chương trình 68, rất nhiều tỉnh, thành phố
(Quảng Ninh, Thanh Hóa, Lạng Sơn, Hải Phòng, An Giang, Quảng Ngãi
...) đã phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ riêng cho
các DN, các sản phẩm đặc thù của địa phương mình; đã thực hiện 11 dự
án đưa các kết quả nghiên cứu, sáng chế vào thực tiễn đời sống, nâng
cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần phục vụ
lợi ích dân sinh và phát triển bền vững kinh tế-xã hội.
Trong năm 2013, tổng kinh phí thực hiện Chương trình là 34,054
tỷ đồng; 6 tháng 2014 thực hiện 10,053 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm
2014 là 38 tỷ đồng.
- Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến 2020 [6] : Năm
2013, Bộ KH&CN đã tổ chức xét chọn và thẩm định được 04 nhiệm vụ
do DN chủ trì với tổng kinh phí hơn 57 tỷ đồng (đã cấp 6,4 tỷ đồng
năm 2013). Năm 2014, Bộ KH&CN đã nhận được 119 đề xuất của Bộ,
ngành, địa phương, DN và phê duyệt được 03 đề xuất do DN chủ trì có
tính cấp bách, khả thi để đưa vào triển khai trong năm 2014. Đối với
các hoạt động hỗ trợ DN ứng dụng công nghệ, Bộ KH&CN đã phối với
với Ban chỉ đạo Chương trình để khảo sát, lựa chọn 120 đơn vị, DN sản
xuất, kinh doanh hiệu quả cao trên cơ sở sử dụng nguồn nhân lực cho



chất lượng và có ứng dụng đổi mới công nghệ; phối hợp với Văn phòng
IPP thực hiện 04 dự án hỗ trợ hoàn thiện công nghệ, đổi mới công nghệ
sản xuất sản phẩm mới và ứng dụng; hoạt động trình diễn và kết nối
cung cầu công nghệ năm 2014 tại Bắc Giang cho các DN trong nước và
nước ngoài, viện nghiên cứu, trường đại học để tổng hợp nhu cầu và
nguồn cung công nghệ trong và ngoài nước; tổ chức diễn đàn đối thoại
”DN với ứng dụng và đổi mới công nghệ” để nắm bắt thực trạng và nhu
cầu đổi mới, ứng dụng chuyển giao công nghệ của DN, giới thiệu DN
xu hướng công nghệ trong nước và trên thế giới .v.v... ; đẩy mạnh các
hoạt động hợp tác công nghệ với các quốc gia như Vương quốc Anh,
Cộng hòa Séc, Đức, Phần Lan.v.v...
- Ch ươn g t rìn h p há t t riển th ị t rườn g và cô ng ng hệ đ ến n ă m 20 20 đã
tích cực triển khai các hoạt động trong năm 2013, 6 tháng 2014. Cụ thể,
Chương trình đã xác định được danh mục hơn 189 loại nhu cầu công
nghệ của các DN theo các lĩnh vực công nghệ; xác định được danh mục
315 loại nguồn cung công nghệ trong và ngoài nước phù hợp theo nhu
cầu DN; hỗ trợ kết nối thành công được hơn 46 loại biên bản ghi nhớ,
giá trị ký kết hơn 521 tỷ đồng; lựa chọn được hơn 365 sản phẩm
KH&CN mới (công nghệ, thiết bị) của hơn 196 tổ chức, cá nhân và DN
trong và ngoài nước đưa vào trưng bày, giới thiệu, công bố, trình diễn
tại các kỳ tổ chức sự kiện qua đó thu hút được hơn 1.600 đại biểu quan
tâm tham dự; xây dựng và phát sóng các chương trình/bản tin phổ biến,
đưa tin, viết bài về các hoạt động/sự kiện trên 100 phương tiện thông
tin đại chúng ở Trung ương và địa phương.
Về hỗ trợ và ươm tạo DN khoa học và công nghệ [7] , Bộ KH&CN
đã tổ chức phổ biến, tuyên truyền pháp luật về phát triển thị trường


công nghệ, DN khoa học và công nghệ; tiếp tục hỗ trợ các DN khoa học

và công nghệ tiếp cận các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập DN, trao
đổi với các cơ quan có thẩm quyền để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong thụ hưởng các chính sách ưu đãi thuế thu nhập DN; tiếp tục hỗ
trợ các Sở KH&CN địa phương rà soát, thống kê các DN tiềm năng,
thẩm định cấp Giấy chứng nhận DN khoa học và công nghệ, tư vấn hỗ
trợ các DN xây dựng hồ sơ, đề án tham gia chương trình, đề án khoa
học và công nghệ; tư vấn hỗ trợ một số trường đại học, viện nghiên cứu
xúc tiến thành lập các trung tâm ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN khoa
học và công nghệ .v.v...
2.4. Hỗ trợ xúc tiến thương mại

( X T T M)

Năm 2013, Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia với tổng
kinh phí thực hiện là 93.730 triệu đồng, đã phê duyệt 138 đề án với hơn
6.834 lượt DN tham gia, trong đó có 6.000 lượt DNNVV tham gia với
10.583 gian hàng, 281.385 lượt giao dịch, 572 hợp đồng, biên bản ghi
nhớ được ký kết đạt giá trị hơn 1,4 tỷ USD và 162 tỷ đồng; thu hút
được 1.850 lượt khách tham quan, mua sắm tại các hội chợ, phiên chợ
và doanh thu đạt 380,8 tỷ đồng. Sự hỗ trợ từ Chương trình đã tạo điều
kiện cho các DN đưa các sản phẩm xuất khẩu Việt Nam tại các thị
trường truyền thống như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản ngày càng mở
rộng. Chương trình đã hỗ trợ nhiều DN có cơ hội trở lại thị trường Nga
và các nước Đông Âu cũ, tăng cường hoạt động tại thị trường
Myanmar, Lào, Camphuchia và một số nước Châu Mỹ Latinh và Châu
Phi; xúc tiến đẩy mạnh hoạt động thương mại, đầu tư, nâng cao vị thế
và hình ảnh của Việt Nam. Chương trình đã đóng góp tích cực vào kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Các hoạt động đưa hàng về nông thôn,



miền núi và biên giới đã giúp các DN tiếp cận được thị trường vùng
sâu, vùng xa, tăng thị phần cung cấp hàng hóa, nắm bắt nhu cầu thị
hiếu, tập quán tiêu dùng; qua đó, cải tiến mẫu mã, hoàn thiện sản phẩm
với giá hợp lý phục vụ khách hàng miền núi, vùng sâu, vùng xa; tạo
nền tăng phát triển thương mại nội địa bền vững, góp phần thực hiện có
hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam tiêu dùng hàng Việt Nam” do
Bộ Chính trị phát động.
Kết quả 6 tháng đầu năm 2014, Chương trình đã phê duyệt được
202 đề án trong đó có 107 đề án đã thực hiện, thu hút 2.372 lượt DN
tham gia. Ngân sách cho hoạt động này năm 2014 là 80.340 triệu đồng.
Ngoài ra, Bộ Công thương cũng tích cực triển khai chương trình thương
hiệu quốc gia nhằm hỗ trợ DN phát triển thương hiệu cho các mặt hàng
có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam như gạo, cà phê, cá tra, thủ công
mỹ nghệ…
Ở cấp địa phương, hầu hết các tỉnh đều triển khai thực hiện trợ
giúp mở rộng thị trường thông qua tổ chức các hoạt động hội chợ, triển
lãm, tổ chức đoàn xúc tiến thương mại trong khu vực và nước ngoài
theo mục tiêu chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Nhiều tỉnh có
hoạt động triển khai mạnh mẽ như Đà Nẵng, Cà Mau, Bình Dương,
Đồng Nai, Lâm Đồng, Đắk Lắk…
2.5. Chương trình khuyến công quốc gia:
Năm 2013, Chương trình đã phê duyệt và thực hiện 232/278 đề
án với kinh phí 75,318 tỷ đồng để hỗ trợ tổ chức đào tạo nghề, truyền
nghề cho 21.033 lao động; hỗ trợ tổ chức đào tạo nâng cao năng lực
quản lý cho 1.600 học viên; hỗ trợ xây dựng 64 mô hình trình diễn kỹ
thuật sản phẩm, công nghệ mới; hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị hiện


đại cho 40 cơ sở công nghiệp nông thôn; hỗ trợ 925 lượt cơ sở công
nghiệp nông thôn tham gia các hội chợ triển lãm trong nước với 2.505

gian hàng tiêu chuẩn; tổ chức các hội nghị, hội thảo giới thiệu các thị
trường tiềm năng...
6 tháng đầu năm 2014, thực hiện Chương trình đạt 69% kế hoạch
và giải ngân 23.212 tỷ đồng, đạt 27% kế hoạch năm 2014. Năm 2014 dự
kiến đạt 95,5% kế hoạch với một số kết quả gồm đào tạo cho gần
14.500 lao động, nâng cao năng lực quản lý cho 2.400 học viên; hỗ trợ
xây dựng 59 mô hình trình diễn kỹ thuật sản phẩm mới, công nghệ mới;
hỗ trợ ứng dụng máy móc, thiết bị hiện đại cho 37 cơ sở công nghiệp
nông thôn để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; hỗ trợ tổ chức 3
hội chợ hàng công nghiệp nông thôn cấp khu vực; hỗ trợ các cơ sở công
nghiệp nông thôn tham gia khoảng 1.800 gian hàng tiêu chuẩn tại các
hội chợ triển lãm trong nước; hỗ trợ đăng ký 41 thương hiệu cho các cơ
sở công nghiệp nông thôn; hỗ trợ các cơ sở công nghiệp nông thôn
tham gia triển lãm hội chợ nước ngoài.v.v..
2.6. Phát triển nguồn nhân lực cho DNNVV
Năm 2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC [8] ngày 13/8/2014
hướng dẫn đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV. Theo đó,
Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC đã định hướng công
tác đào tạo cho DNNVV theo hướng có trọng tâm, trọng điểm; tập trung
nâng cao năng lực quản trị cho DNNVV trong một số ngành, lĩnh vực
ưu tiên đào tạo theo định hướng phát triển của Nhà nước; đa dạng hóa
các hình thức đào tạo (như đào tạo qua truyền hình, qua internet) để
tăng khả năng tiếp cận đào tạo cho các DNNVV; bổ sung các khóa đào


tạo chuyên sâu cho các DNNVV đối với một số chuyên đề chuyên sâu;
giảm thời lượng đào tạo khởi sự doanh nghiệp (xuống còn 3 ngày),
quản trị doanh nghiệp (xuống 5 còn ngày) để phù hợp với tình hình
thực tế; bổ sung kinh phí giám sát đào tạo để tăng cường công tác quản

lý, giám sát đào tạo của các đơn vị thực hiện.v.v...
Năm 2013, ngân sách Trung ương hỗ trợ khoảng 40 tỷ đồng với
tổng số khóa đào tạo 877 cho 35.000 học viên trên phạm vi cả nước.
Ngân sách địa phương hỗ trợ hơn 15,3 tỷ đồng cho 603 khóa với hơn
40.000 học viên. Năm 2014, các Bộ ngành, tổ chức hiệp hội dự kiến tổ
chức triển khai 730 khóa đào tạo khởi sự doanh nghiệp và quản trị
doanh nghiệp (với tổng kinh phí 35 tỷ đồng) cho khoảng hơn 25.000
học viên là các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý DNNVV trên phạm vi
cả nước nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng cần thiết để khởi sự doanh
nghiệp và nâng cao kỹ năng điều hành, quản trị doanh nghiệp trong một
số ngành/lĩnh vực, địa bàn ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV
như ngành công nghiệp hỗ trợ, ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp
mũi nhọn (cơ khí chế tạo, điện tử-tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt
may, da giầy, nhựa; thép; hóa chất; cơ khí chế tạo; thiết bị điện tử;
viễn thông và công nghệ thông tin; sản phẩm công nghệ mới như năng
lượng mới, tái tạo; công nghiệp phần mềm, nội dung số; công nghiệp hỗ
trợ cho phát triển công nghiệp, công nghệ cao; chế biến nông lâm, thủy
hải sản); các DNNVV ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh
tế-xã hội đặc biệt khó khăn, các DNNVV do đồng bào dân tộc, phụ nữ,
người tàn tật… làm chủ doanh nghiệp.v.v…
Về tá c dụ ng củ a chương trì nh: Theo đá nh giá củ a họ c viên, bao
gồm cá n bộ quả n lý DNNVV, hầ u hế t đánh giá việc tham gia khoá đào


tạo là cần thiết và hữu ích. Họ cho biế t, sau khi đượ c đà o tạ o họ tự tin
hơn trong kinh doanh và điề u hà nh DN và điề u quan trọng hơn đó là
nhậ n thứ c củ a lã nh đạ o DN đố i vớ i sự cầ n thiế t phả i đà o tạ o nhân lự c
ở DN đượ c nâng cao. Cá c khoá đào tạo triển khai tại các địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn có tá c độ ng rấ t tí ch cự c tớ i cá c
DN. Theo đá nh giá chung, chương trì nh cần cải thiện hơn về nội dung

và cách thức triển khai để đá p ứ ng tốt hơn nhu cầu đào tạo củ a
DNNVV.
Bên cạnh đó, Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành (Chương
trình 585) do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện đã tổ chức các khóa bồi
dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp; bồi dưỡng kỹ
năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp và cán bộ thực hiện
công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trong năm 2013, Chương
trình 585 tiếp tục tổ chức thực hiện 32 lớp bồi dưỡng tại các tỉnh, thành
phố (trong đó, có 07 tỉnh làm điểm): Cần Thơ, Hà Nội, Vĩnh Phúc, TP.
Hồ Chí Minh, Bạc Liêu, Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình, Sóc Trăng,
Đắc Lắc, Tuyên Quang, Đồng Nai, Đà Nẵng, Sơn La, Bình Dương,
Quảng Ninh... thu hút gần 5.000 đại biểu đại diện cho các doanh nghiệp
tham dự. Tính đến tháng 9 năm 2014, Chương trình 585 đã tổ chức 9
khóa bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp.
2.7. Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ pháp lý cho
DN[9] nhằm góp phần khắc phục những yếu kém của các DN trong việc
tiếp cận với thông tin pháp luật, thực thi pháp luật, đồng thời hỗ trợ
các DN hạ n chế cá c rủ i ro trong kinh doanh và tăng cườ ng năng lự c
cạ nh tranh củ a doanh nghiệ p. Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành


2010-2014 [10] với tổng kinh phí dự tính khoảng 190 tỷ đồng, trong đó
ngân sách Nhà nước cấp 170 tỷ đồng, các cơ quan, tổ chức, DN tham
gia chương trình đóng góp 20 tỷ đồng. Chương trình đã triển khai thực
hiện nhiều hoạt động hỗ trợ cho DN như: xây dựng cơ sở dữ liệu pháp
luật phục vụ hoạt động DN; Tài liệu giới thiệu, phổ biến pháp luật; Bồi
dưỡng kiến thức pháp luật cho DN; Giải đáp pháp luật cho DN; tiếp
nhận kiến nghị DN và hoàn hiện pháp luật.
Trong năm 2013, phát huy kết quả hoạt động từ năm 2011 và

2012, Chương trình 585 tiếp tục triển khai mở rộng ra các tỉnh thành
phố trong cả nước, các Bộ, ngành và địa phương, các tổ chức đại diện
cho doanh nghiệp được giao hoạt động với 26 tọa đàm, hội thảo về các
chuyên đề pháp luật kinh doanh tại các địa phương: Quảng Bình, Hưng
Yên, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hà Tĩnh,
Cần Thơ, Tuyên Quang, Đắk Lắk, Ninh Bình, Hồ Chí Minh, Khánh
Hòa, Nghệ An, Hà Nam, Đà Nẵng thu hút gần 4.000 đại biểu là các đối
tượng khác nhau như: các chủ sở hữu doanh nghiệp, cán bộ thực hiện
công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, luật sư, luật gia, cố vấn pháp
lý tại các doanh nghiệp. Tính đến tháng 9/2014, đã tổ chức 10 tọa đàm,
hội thảo về các chuyên đề pháp luật kinh doanh.
Năm 2013 Chương trình tiếp tục thực hiện 180 chuyên đề ‘Kinh
doanh và pháp luật trên Đài Tiếng nói Việt Nam (kênh VOV) và 51
chương trình ‘Kinh doanh và pháp luật’ phát sóng của Đài Truyền hình
Việt Nam (kênh VTV2). Với thời lượng phát sóng 04-06 phút/01
Chương trình trên sóng VOV1, VOV2 hàng ngày (đối với chương trình
trên Đài Tiếng nói Việt Nam) và 15 phút/01 chương trình Kinh doanh
và pháp luật phát trên sóng VTV2 (đối với Chương trình trên Đài


truyền hình Việt Nam). Tính đến tháng 6 năm 2014 thực hiện 64 chuyên
đề ‘Kinh doanh và pháp luật’ trên Đài Tiếng nói Việt Nam (kênh VOV)
và 19 chương trình ‘Kinh doanh và pháp luật’ phát sóng của Đài
Truyền hình Việt Nam (kênh VTV2).
Năm 2013 là năm đầu tiên Chương trình 585 bắt đầu triển khai
hoạt động thiết lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các
địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Chương trình đã tiến hành thí điểm thực hiện hoạt động triển khai mạng
lưới tại 5 địa phương: Quảng Bình, Hà Nội, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc,
Đắk Lắk. Tính đến Tháng 9 năm 2014 đã triển khai mạng lưới tại 6 địa

phương: Đồng Nai, Cần Thơ, Ninh Bình, Khánh Hòa, Bình Thuận, Nghệ
An.
3. Mộ t số hạn chế, bất cập trong trợ giú p DNNVV
Cơ chế chí nh sá ch trợ giú p DNNVV đã đượ c xây dự ng và ban
hà nh khá toà n diệ n trên nhiề u lĩ nh vự c nhằ m trợ giú p cho cá c
DNNVV, nhưng thự c tế cho thấ y, việ c hướ ng dẫ n và triể n khai thự c
hiệ n ở cá c Bộ , ngà nh, đị a phương cò n nhiề u hạ n chế và mứ c độ triể n
khai cò n ở mứ c rấ t thấ p. Các chương trình, dự án, hoạt động hỗ trợ
DNNVV năm 2013 và 2014 vẫn còn nổi lên mộ t số hạn chế, bất cập
sau:
- Triển khai thực hiện chính sách trợ giúp DNNVV vẫn còn chậm
trễ, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
Điển hình là hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV năm 2014
chưa có nhiều cải thiện và dừng cung cấp bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPTVN) từ năm
2011 đến nay. Tính đến nay, số dư Quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh là 226


tỷ đồng trên tổng số 2.410 tỷ đồng giá trị chứng thư cam kết bảo lãnh
tại NHPTVN còn hiệu lực. NHPTVN đã trả nợ thay DN kể từ khi thực
hiện nghiệp vụ bảo lãnh đến này là 276 tỷ đồng, trong đó doanh nghiệp
đã hoàn trả cho NHPTVN là 28,4 tỷ đồng. Theo báo cáo của NHPTVN,
số cam kết bảo lãnh 2.410 tỷ đồng là các khoản bảo lãnh có tiềm ẩn rủi
ro lớn, đang có nhiều tranh chấp giữa NHPTVN và các NHTM và có
nguy cơ trả nợ thay cao.
Hoạ t độ ng bả o lã nh tí n dụ ng cho DNNVV cò n nhiề u hạ n chế do
nhiề u nguyên nhân khá c nhau, cả về nguồ n vố n, cơ chế hoạ t độ ng,
năng lự c thực hiện củ a cá c Quỹ nà y. Về mặt thể chế , Quỹ bả o lã nh tí n
dụ ng cho DNNVV tiếp tục đượ c hoà n thiệ n, nhưng hoạ t độ ng củ a các
Quỹ này rõ rà ng cò n chưa đá p ứ ng được nhu cầ u củ a DNNVV. Từ năm

2011 đến nay, NHPTVN và NHTM đã dừng thực hiện chính sách này và
chỉ tập trung vào việc xử lý, thu hồi nợ. Cơ chế chính sách bảo lãnh tín
dụng cho DNNVV đã được sửa đổi, bổ sung nhưng trong thực tế không
khả thi. Từ khi Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg ngày 10/01/2011 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh tín dụng cho DNNVV
vay vốn tại NHTM, nhưng NHNN chậm trễ trong việc ban hành Thông
tư hướng dẫn thực hiện. Hiện đang còn nhiều bất cập về quy định pháp
lý tại Quy chế này và dẫn đến sự chưa thống nhất giữa Bộ Tài chính và
Ngân hàng Nhà nước trong việc hướng dẫn các NHTM phối hợp với
NHPTVN. Điển hình một số vướng mắc khi thực hiện Quy chế gồm quy
trình, thủ tục xem xét, thẩm định cho vay và bảo lãnh cho tạo thuận lợi
cho DNNVV; DNNVV có tài sản bảo đảm mới được NHPTVN bảo lãnh;
quy định về trích lập dự phòng rủi ro của NHTM, v.v...


Hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tại các Quỹ Bảo lãnh
tín dụng cho DNNVV ở các đị a phương [11] với quy mô nhỏ, ít DNNVV
nhậ n đượ c bả o lã nh, mặc dù có thêm một số địa phương đã thành lập
các Quỹ Bảo lãnh tín dụng mới như Thanh Hóa, Cần Thơ, Lạng
Sơn, Bình Dương, Đồng Nai, An Giang, Bình Định, Hòa Bình.
Bên cạnh đó, tiế p cậ n tí n dụ ng củ a DNNVV vẫn gặp một số khó
khăn, vướng mắc. Trong thời gian qua, mặc dù các ngân hàng luôn chủ
động và sẵn sàng về nguồn vốn cho vay, nhưng tình hình cấp tín dụng
cho DNNVV vẫn còn nhiều vướng mắc. Theo báo cáo đánh giá của
NHNN, nguyên nhân chủ yếu vẫn là chất lượng thông tin tài chính của
DNNVV chưa cao. Các DNNVV chưa hoặc không đáp ứng được các
điều kiện vay vốn theo quy định. Năng lực sản xuất kinh doanh và khả
năng tự chủ tài chính của các DNNVV còn hạn chế, quy mô vốn chủ sở
hữu nhỏ, thị trường tiêu thụ chưa ổn định, tài sản đảm bảo vay vốn
chưa đáp ứng yêu cầu (tính pháp lý chưa rõ ràng, tài sản không có khả

năng phát mãi, giá trị đảm bảo thấp)... Trong khi đó, các TCTD đang bị
chi phối nhiều bởi tài sản thế chấp trong thẩm định cho vay các
DNNVV. Vì vậy, đa số các DNNVV vẫn gặp nhiều khó khăn và vẫn
chưa tiếp cận được vốn tín dụng, mặc dù ngân hàng lại thừa vốn cho
vay.
- Tá c độ ng củ a hoạ t độ ng trợ giú p đố i vớ i cá c DNNVV chưa
thể hiệ n rõ , hoạ t độ ng trợ giú p DNNVV chưa có trọ ng tâm, trọng
điểm
Phần lớn các chính sách, chương trình trợ giú p chủ yế u hướng vào đối
tượng là DN nói chung, không có quy đị nh ưu tiên hoặc dành riêng hỗ
trợ DNNVV (trừ mộ t số chính sách về bảo lãnh tín dụng cho DNNVV


tạ i cá c Quỹ bả o lã nh tí n dụ ng cho DNNVV tạ i cá c đị a phương và
thông qua NHPTVN; chính sách trợ giúp đào tạo, bồ i dưỡ ng nguồn
nhân lực cho cá c DNNVV.v.v… xác định rõ đối tượng thụ hưởng trực
tiếp là các DNNVV).
Cá c chí nh sá ch, chương trì nh trợ giú p đượ c xây dự ng và phê duyệ t
dự a trên cá c tiêu chí , hoạ t độ ng riêng củ a từ ng bộ , ngà nh, đị a
phương, không có quy đị nh cụ thể về số lượ ng DNNVV đượ c thụ
hưở ng từ chí nh sá ch hoặ c nguồn ngân sách dà nh cho trợ giú p DNNVV.
Điều này dẫ n tớ i tì nh trạng một số cơ quan thự c hiệ n chí nh sá ch,
chương trì nh chưa chú ý tới công tá c hỗ trợ cá c DNNVV trong quá
trình thực hiện; chưa có số liệ u thố ng kê phù hợ p để đá nh giá đượ c
tá c độ ng, kế t quả trợ giú p DNNVV. Hệ thố ng thông tin về DNNVV
yế u, chưa có số liệ u thố ng kê phả n á nh thự c sự tì nh hình hoạt động,
nhu cầu trợ giúp của DNNVV cũ ng như công tá c kiểm tra, giám sát tình
hình triể n khai chí nh sá ch trợ giú p nên nhiề u cơ chế chí nh sá ch trợ
giú p DNNVV bấ t cậ p trong thự c tiễ n chưa đượ c sử a đổ i, bổ sung kị p
thờ i, phù hợp với điều kiện thực tiễ n của DNNVV.

- Hệ thống cơ quan triển khai thực hiện chính sách, chương trình
hỗ trợ DNNVV còn yếu
Về hệ thống triển khai thực hiện chính sách, chương trình trợ
giúp DNNVV còn thiếu và yếu, chưa được hình thành đồng bộ từ Trung
ương đến địa phương. Ở cấp Trung ương, cơ quan đầu mối trợ giúp
phát triển DNNVV chỉ mới tập trung vào công tác xây dựng các cơ chế,
chính sách, giải pháp phát triển DNNVV, chưa có đủ điều kiện để đẩy
mạnh việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách, các chương trình trợ
giúp phát triển DNNVV do nguồn nhân lực hạ n chế , cơ sở vật chất yếu


kém và nguồn kinh phí thực hiện các chương trình trợ giúp phát triển
DNNVV hạn hẹp, kể cả một số hoạt động chính như đào tạo, nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác trợ giúp phát triển DNNVV.
Ở cấp địa phương, các tỉnh/thành phố còn gặp khó khăn về nguồn nhân
lực và kinh phí xây dựng và thực hiện chính sách, chương trình hỗ trợ
DNNVV.v.v… Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước của địa
phương trong lĩnh vực phát triển DNNVV còn thiếu, năng lực hạn chế
và phần lớn chưa được qua đào tạo, bồi dưỡng về công tác trợ giúp phát
triển DNNVV. Trên 70% địa phương chưa có bộ phận chuyên trách
triển khai chính sách trợ giúp phát triển DNNVV trên địa bàn. Theo
Báo cáo của 52/63 địa phương về thực trạng năng lực cơ quan đầu mối
triển khai thực hiện chính sách trợ giúp phát triển DNNVV ở địa
phương, số cán bộ phụ trách vấn đề trợ giúp phát triển DNNVV tại các
tổ chức được giao nhiệm vụ triển khai chính sách trợ giúp DNNVV
thuộc ngành Kế hoạch và Đầu tư khoảng 200 cán bộ (số cán bộ chuyên
trách rất thấp chỉ khoảng 30%, phần lớn là kiêm nhiệm), trong đó 40
cán bộ ở cấp Trung ương. Đa số các cán bộ kiêm nhiệm không chỉ xây
dựng chính sách trợ giúp DNNVV mà còn thực hiện nhiều chức năng,
nhiệm vụ khác nhau như đăng ký thành lập DN; xúc tiến, tư vấn đầu tư;

tư vấn đấu thầu, thương mại và du lịch… và được thành lập dưới mô
hình tổ chức khác nhau như đơn vị cấp phòng (trực thuộc Sở Kế hoạch
và Đầu tư) hoặc trung tâm (là đơn vị sự nghiệp công lập, trực thuộc Sở
Kế hoạch và Đầu tư hoặc UBND cấp tỉnh). Số lượng cán bộ còn quá ít
so với yêu cầu công tác hỗ trợ DNNVV trên địa bàn phụ trách. Vì vậy,
việc triển khai các hoạt động trợ giúp DNNVV ở các địa phương còn
hạn chế.


- Trì nh tự , thủ tụ c để thụ hưở ng cá c chí nh sá ch, chương trì nh
hỗ trợ củ a Nhà nướ c cò n nhiề u bấ t cậ p, gây khó khăn cho cá c
DNNVV tiế p cậ n.
Đây là mộ t trong nhữ ng nguyên nhân chí nh dẫ n đế n tỷ lệ
DNNVV tham gia hoặ c đượ c thụ hưở ng từ cá c chí nh sá ch hỗ trợ củ a
Nhà nướ c cò n khá thấ p. Một số chính sách và nộ i dung chương trì nh
hỗ trợ chưa thực sự rõ ràng, gây ké o dà i thờ i gian và tố n nhiề u công
sứ c để có các hướng dẫn thi hành, nhưng chưa đạ t đượ c hiệ u quả
cao.Kế t quả là số lượng các dự án đủ điều kiện để tuyển chọn thực
hiện còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu và kế hoạch đặt ra. Điể n
hì nh là hoạ t độ ng hỗ trợ áp dụng sáng chế, hỗ trợ soạn thảo hồ sơ đăng
ký sáng chế, hỗ trợ công tác đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ,
định giá tài sản trí tuệ. Cá c cơ quan xây dự ng cơ chế chí nh sá ch chưa
có điều kiện, năng lực đánh giá đầy đủ tác động của các chính sách hỗ
trợ cũng như sự tham gia, hưởng lợi của các DNNVV từ các chính sách
hỗ trợ của Nhà nước.
Bên cạ nh đó , cò n phả i kể đế n công tá c tuyên truyề n, phổ biế n
về cá c chí nh sá ch, chương trì nh hỗ trợ củ a Nhà nướ c chưa đượ c chú
trọ ng củ a cá c đơn vị chủ trì thự c hiệ n nên sự lan tỏa các chính sách
tới các vùng, miền và địa phương còn chậm, í t DN biế t để tham gia. Vì
vậy, trên thực tế, chủ yếu là các DN lớn tiếp cận được các chính sách,

chương trình hỗ trợ của Nhà nước.
4.

M ột s ố đ ị nh h ư ớn g , gi ải p h áp t r ợ g i úp D NNV V t h ời g i an t ới

Công tác trợ giúp phát triển DNNVV trong thời gian tới cần đẩy mạnh
triển khai các nhóm giải pháp đề ra tại các Nghị quyết của Quốc hội và
Chính phủ, thực hiện hiệu quả và đúng tiến độ các nhóm giải pháp quy


×