Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

đặc điểm tôn giáo và sự phát triển du lịch tôn giáo ở ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN LỊCH SỬ - ĐỊA LÝ - DU LỊCH
------------

ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN

ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH DU LỊCH

Cần Thơ, Tháng 5/2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN LỊCH SỬ - ĐỊA LÝ - DU LỊCH
----------

ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN
HG09012

ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH DU LỊCH

Người hướng dẫn: HUỲNH TƯƠNG ÁI



Cần Thơ, Tháng 5/2013


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

LỜI CẢM ƠN

Kính thưa quý Thầy, Cô cùng các bạn sinh viên thân mến!
Trong suốt quá trình học Đại học, chắc hẳn mỗi chúng ta đều đã tích lũy được cho
mình một vốn kiến thức khá vững chắc để làm nền tảng cho những bước đi tiếp theo
trong cuộc sống. Để hoàn thành chương trình đại học của mình và đề tài luận văn này,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và chân thành từ phía Thầy, Cô cũng như các
bạn sinh viên lớp Du Lịch khóa 35.
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn tất cả quý Thầy, Cô của bộ môn Lịch Sử Địa Lý – Du Lịch đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để giúp tôi hoàn thành đề tài luận văn
của mình.
Người mà tôi muốn gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc của mình là Thầy
Huỳnh Tương Ái, người đã dành nhiều thời gian quý báu của mình để hướng dẫn tận
tình, cùng đồng hành với tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài luận văn này.
Ngoài ra, tôi xin cảm ơn đến toàn thể các bạn sinh viên lớp Du Lịch khóa 35 đã
luôn ở bên cạnh để giúp đỡ cũng như động viên tôi mỗi khi tôi gặp khó khăn trong lúc
thực hiện đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn của mình, mặc dù đã cố gắng nỗ lực hết
sức mình nhưng có thể sẽ có những sai sót khó tránh khỏi, nên tôi rất mong nhận được
sự thông cảm cũng như sự đóng góp ý kiến chân thành của quý Thầy, Cô để đề tài luận
văn của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 02 tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Đặng Thị Hồng Ngân

MSSV: HG09012
Lớp: Du lịch A2 – Khóa 35

ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU, HÌNH
HÌNH
1
2
3
4
5
6
BẢNG
1

NỘI DUNG
Bản đồ nước cộng hòa Ấn Độ
Bản đồ phân bố các tôn giáo ở Ấn Độ
Biều đồ thể hiện số lượt khách du lịch đến Ấn Độ giai đoan
1997 – 2011
Biều đồ thể hiện doanh thu từ du lịch của Ấn Độ giai đoạn 1997
– 2011
Bản đồ tuyến đường sắt tốc độ cao ở Ấn Độ
Bản đồ hệ thống cảng hàng không ở Ấn Độ

Bảng thống kê số lượng tôn giáo theo các tôn giáo ở Ấn Độ

ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

TRANG
10
25
47
50
54
56
24

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 1
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 1
4. Thực trạng vấn đề nghiên cứu ................................................................................ 2
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 2
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................. 3
1.1 Khái quát về du lịch .............................................................................................. 3
1.1.1 Khái niệm du lịch ........................................................................................... 3
1.1.2 Các loại hình du lịch ....................................................................................... 3

1.2 Một số vấn đề về tôn giáo..................................................................................... 5
1.2.1 Khái niệm tôn giáo ......................................................................................... 5
1.2.2 Đặc điểm tôn giáo ........................................................................................... 6
1.3 Một số vấn đề về du lịch tôn giáo......................................................................... 8
1.3.1 Khái niệm du lịch tôn giáo ............................................................................. 8
1.3.2 Vai trò của tôn giáo đối với hoạt động du lịch .................................................. 8
Chương 2: KHÁI QUÁT VỀ ẤN ĐỘ VÀ ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ . 10
2.1 Khái quát chung về Ấn Độ ................................................................................... 10
2.1.1 Vị trí địa lý...................................................................................................... 10
2.1.2 Lược sử Ấn Độ ............................................................................................... 11
2.1.2.1 Lịch sử tên gọi .......................................................................................... 11
2.1.2.2 Lịch sử Ấn Độ qua các thời kì .................................................................. 11
2.1.3 Điều kiện tự nhiên .......................................................................................... 18
2.1.4 Đặc điểm kinh tế - xã hội ............................................................................... 19
2.1.4.1 Dân số, phân bố dân cư và vấn đề dân tộc, sắc tộc .................................. 19
2.1.4.2 Tình hình phát triển kinh tế ở Ấn Độ ....................................................... 20
2.1.5 Nguồn tài nguyên du lịch ............................................................................... 21
2.1.5.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên ...................................................................... 21
2.1.5.2 Tài nguyên du lịch nhân văn .................................................................... 21
2.2 Đặc điểm tôn giáo ở Ấn Độ .................................................................................. 23
2.2.1 Đôi nét chung về tôn giáo ở Ấn Độ ................................................................ 23
2.2.2 Sự hình thành và phát triển của các dòng tôn giáo tiêu biểu ở Ấn Độ ........... 26
2.2.2.1 Ấn Độ giáo (Hinduism) ............................................................................ 26
2.2.2.2 Hồi giáo (Islam) ........................................................................................ 27
2.2.2.3 Đạo Sikh (Sikhism) .................................................................................. 27
2.2.2.4 Phật giáo (Buddhism) ............................................................................... 28
2.3 Tiềm năng trong phát triển du lịch tôn giáo ở Ấn Độ .......................................... 30
2.3.1 Một số thánh địa quan trong của Ấn giáo ...................................................... 30
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

2.3.1.1 Sông Hằng ................................................................................................
2.3.1.2 Hang động Amarnath - đền thờ thần Shiva ..............................................
2.3.2 Các thánh đường Hồi giáo tiêu biểu ở Ấn Độ ................................................
2.3.2.1 Taj Mahal – tình yêu bất diệt ....................................................................
2.3.2.2 Fatehpur Sirki – nhà thờ Jama Masjid ......................................................
2.3.3 Những thánh địa nổi bật của đạo Sikh............................................................
2.3.3.1 Harmandir Sahib (Đền Vàng) ...................................................................
2.3.3.2 Sri Hemkunt Sahib ...................................................................................
2.3.4 Hành trình Phật đạo ........................................................................................
2.3.4.1 Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ..................................................................
2.3.4.2 Sarnath (Vườn Lộc Uyển) .......................................................................
2.3.4.3 Thánh địa Kushinagar................................................................................
Chương 3: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ ....
3.1 Hiện trạng phát triển du lịch ở Ấn Độ ..................................................................
3.2 Hiện trạng phát triển du lịch tôn giáo ở Ấn Độ ....................................................
3.3 Hiện trạng cơ sở hạ tầng – cơ sở vật chất phục vụ du lịch ở Ấn Độ ....................
3.3.1 Phương tiện giao thông...................................................................................
3.3.1.1 Giao thông đường bộ ................................................................................
3.3.1.2 Giao thông đường sắt ...............................................................................
3.3.1.3 Giao thông đường hàng không .................................................................
3.3.2 Hệ thống nhà hàng – khách sạn ......................................................................
3.3.2.1 Hệ thống nhà hàng ....................................................................................
3.3.2.2 Hệ thống khách sạn ..................................................................................
3.4 Những khó khăn, hạn chế trong việc phát triển du lịch ở Ấn Độ.........................
3.5 Đôi nét về quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ ..........................................

KẾT LUẬN ...............................................................................................................
1. Kết quả đạt được .....................................................................................................
2. Hướng nghiên cứu tiêp theo ...................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Những điều cần biết khi du lịch đến Ấn Độ..............................................
Phụ lục 2: Một số chương trình tour...........................................................................
Phụ lục 3: Một số hình ảnh về Ấn Độ ........................................................................

ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

30
33
34
34
35
36
36
38
39
39
42
44
47
47
49
52
52
53
54

56
56
56
57
58
59
62
62
62
63
65
69
77

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, khi ngành du lịch trên Thế Giới đang ngày càng phát triển, không chỉ đáp
ứng nhu cầu vui chơi, nghỉ dưỡng của du khách mà còn đang tiến xa hơn với những
loại hình du lịch mới mẽ và cũng khá phát triển như du lịch hội nghị, du lịch thể thao,
và bên cạnh đó một loại hình du lịch cũng khá phát triển mạnh mẽ đó chính là du lịch
tôn giáo hay còn gọi là du lịch hành hương. Xuất phát từ nhu cầu muốn tìm hiểu về
những yếu tố tâm linh, hiện nay đa phần các du khách đều chọn điểm đến là những
điểm du lịch mang yếu tố linh thiêng, huyền bí.
Và Ấn Độ - đất nước có vị thế khá đặc biệt với lưng dựa vào dãy núi Himalaya
hùng vĩ nhất trên Thế Giới, mặt nhìn ra biển Ấn Độ Dương mênh mông. Ngoài ra còn

có hai con sông lớn là sông Ấn và sông Hằng như hai dòng sữa tươi nuôi một bình
nguyên bao la và cũng là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp định cư vào thời cổ
đại. Chính nơi địa linh nhân kiệt này đã sinh ra nhiều bậc vĩ nhân nổi tiếng trên Thế
Giới như đức phật Thích Ca Mâu Ni, thánh Mahatma Gandhi, hiền triết Jiddu
Krishnamurti, thi hào Rabindranath Tagore. Ấn Độ còn là chiếc nôi của các nền tôn
giáo, trường phái triết học lớn trên Thế Giới và còn là mảnh đất của những thánh địa
nổi tiếng bậc nhất trên thế giới.
Với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về nền văn minh nổi tiếng trong thời cổ đại,
cùng với sự tồn tại và phát triển của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ, nên tôi đã chọn đề tài
“Đặc điểm tôn giáo và sự phát triển du lịch tôn giáo ở Ấn Độ” để làm đề tài luận
văn cho mình. Hy vọng thông qua đề tài luận văn này, tôi sẽ nâng cao thêm kiến thức
của mình đối với sự phát triển du lịch về tôn giáo cũng như mở rộng sự hiểu biết của
mình về nền văn minh Ấn Độ cổ đại. Thông qua đó, tôi cũng muốn giới thiệu đến
những người yêu thích du lịch và có hứng thú tìm hiểu về vấn đề tôn giáo có thêm
thông tin để lựa chọn cho mình một điểm du lịch thích hợp.

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Với việc chọn đề tài “Đặc điểm tôn giáo và sự phát triển du lịch tôn giáo ở Ấn
Độ”, sẽ giúp tôi đào sâu hơn về vấn đề tôn giáo ở Ấn Độ cũng như loại hình du lịch
tôn giáo đang ngày càng phát triển mạnh ở đất nước này. Mặt khác trong quá trình tìm
hiểu và thực hiện đề tài luận văn của mình, tôi còn rèn luyện được kỹ năng tư duy
logic thông qua việc tìm hiểu, thu thập và sắp xếp tư liệu sao cho nội dung nghiên cứu
của mình được hoàn chỉnh và rõ ràng hơn.

3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Do khoảng cách địa lý khá xa và đối tượng nghiên cứu khá rộng nên đề tài luận văn
này chỉ tập trung nghiên cứu chủ yếu ở vấn đề tôn giáo và thực trạng phát triển du lịch
tôn giáo ở Ấn Độ. Trước hết là tìm hiểu về vị trí địa lý, lịch sử hình thành cũng như
những nét văn hóa độc đáo của nước Ấn Độ, sau đó là đi sâu hơn vào sự hình thành
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)


1

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

cũng như sự du nhập của các tôn giáo vào Ấn Độ. Cuối cùng là tìm hiểu thực trạng
phát triển du lịch ở Ấn Độ, tự đó đánh giá được tiềm năng cũng như những khó khăn
gặp phải trong phát triển du lịch để có những giải pháp khắc phục và đưa ra hướng
phát triển trong thời gian tới.

4. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Có thể nói, hiện nay vấn đề về tôn giáo là một vấn đề đang được quan tâm hàng đầu
trên Thế giới, đặc biệt là Ấn Độ là nơi sinh trưởng của bốn tôn giáo lớn trên Thế giới
nên các nguồn tài liệu viết về sự phát triển tôn giáo ở Ấn Độ cũng khá đa dạng và
phong phú.
Cụ thể là trong cuốn sách “Hành trình về Phương Đông” – NXB Hồng Đức do
Nguyên Phong biên dịch đã giới thiệu rất cụ thể về sự hình thành cũng như sự sinh
trưởng của các tôn giáo trên mảnh đất Ấn Độ huyền bí. Ngoài ra còn có một số cuốn
sách như “Những tôn giáo lớn trong đời sống nhân loại” – NXB Tôn giáo – 2007 do
Thích Tâm Quang dịch hay cuốn “Lịch sử văn minh Ấn Độ” – NXB Văn hóa thông
tin – 2006 do Nguyễn Hiến Lê dịch cũng có đề cập một cách chi tiết và rõ ràng đến
nền tôn giáo ở Ấn Độ. Thông qua những cuốn sách trên, tôi đã thu thập được rất nhiều
thông tin bổ ích về lịch sử của nước Ấn Độ cũng như sự phát triển mãnh mẽ của những
tôn giáo tại đất nước này. Chính những nguồn tài liệu hữu ích này sẽ là nền tảng để tôi
tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực du lịch tôn giáo – du lịch hành hương tại Ấn
Độ.
Bên cạnh nguồn sách tham khảo, tôi còn tìm được khá nhiều kênh thông tin từ

truyền hình cũng như qua mạng internet. Hiện nay có rất nhiều trang mạng giới thiệu
về vùng đất thánh địa Ấn Độ và những điểm hành hương hấp dẫn cho du khách. Đó
cũng là một thuận lợi giúp cho tôi hoàn thành đề tài luận văn của mình hơn.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1 Phương pháp thu thập - xử lý thông tin – phân tích tổng hợp tài liệu
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp các tài liệu, thông tin
liên quan đến đề tài giúp chủ thể khái quát hóa, mô hình hóa các vấn đề nghiên cứu đạt
được mục tiêu đề ra. Đồng thời sắp xếp và xử lý nguồn từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Quá trình tổng hợp sẽ có cái nhìn bao quát nhất về đặc điểm tôn giáo cũng như việc
phát triển du lịch hành hương ở Ấn Độ. Qua phân tích, các thông tin được chắt lọc với
độ tin cậy và mang lại hiệu quả cao nhất cho đề tài.
5.2 Phương pháp bản đồ
Với phương pháo bản đồ này giúp tôi có thể đánh giá được vị trí, vị thế của Ấn Độ
trong việc phát triển du lịch, biết được các địa điểm hành hương nổi tiếng trong nước
Ấn Độ, từ đó đưa ra hướng kết hợp các điểm du lịch hành hương đạt hiệu quả và hấp
dẫn hơn.

ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

2

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH
1.1.1 Khái niệm về du lịch

Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội thu hút nhiều sự quan
tâm của cộng đồng trên Thế Giới. Và xoay quanh vấn đề khái niệm về du lịch thì có
nhiều cách hiểu khác nhau mà cho đến nay vẫn chưa thống nhất được với nhau.
Năm 1963, với mục đích quốc tế hoá, tại Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp ở
Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp
các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành
trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay
ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc
của họ.”
Theo định nghĩa của Đại học kinh tế Praha (Cộng hòa Séc): “Du lịch là tập hợp
các hoạt động kỹ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan đến cuộc hành trình của con
người và việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau,
loại trừ mục đích hành nghề và thăm viếng có tổ chức thường kỳ”.
Tổ chức Du lịch Thế giới định nghĩa: “Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của
một cá nhân đi đến là lưu trú tại những điểm ngoài nơi ở thường xuyên của họ trong
thời gian không dài hơn một năm với mục đích nghỉ ngơi, công vụ và mục đích khác”.
Ở Việt Nam, khái niệm du lịch được nêu trong Pháp lệnh du lịch như sau: “Du lịch
là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn
nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Từ các định nghĩa trên cho ta thấy du lịch là một hoạt động liên quan đến một cá
nhân, một nhóm hay một tổ chức đi ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ bằng các
cuộc hành trình ngắn ngày hoặc dài ngày ở một nơi khác với nhiều lục đích khác nhau.
Quá trình đi du lịch của họ được gắn với các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ, hiện
tượng ở nơi họ đến.
1.1.2 Các loại hình du lịch:
Du lịch là lĩnh vực hoạt động rất đa dạng và phức tạp nên có nhiều cách phân loại
du lịch khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại du lịch thông dụng nhất:
- Theo mục đích đi du lịch: Phân loại theo mục đích còn gọi là theo động cơ đi du
lịch. Tức là phân loại dựa vào mục đích chuyến đi của khách. Có thể chia thành các
loại mục đích như sau:

+ Du lịch tham quan: tham quan là hành vi quan trọng của con người để nâng cao
hiểu biết về thế giới xung quanh. Đối tượng tham quan có thể là một tài nguyên du lịch
tự nhiên như một phong cảnh kỳ thú, cũng có thể là tài nguyên du lịch nhân văn như
một di tích một công tình đương đại hay một cơ sở nghiên cứu khoa học hay cơ sở sản
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

3

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

xuất… về mặt ý nghĩa, hoạt động tham quan là một trong những hoạt động để chuyến
đi được coi là chuyến du lịch.
+ Du lịch giải trí: Mục đích của chuyến đi là thư giãn, xả hơi, bức ra khỏi công việc
thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khỏe (vật chất cũng như tinh thần). Với mục
đích này du khách chủ yếu muốn tìm đến những nơi yên tĩnh, có không khí trong lành.
Trong chuyến đi du lịch nhu cầu giải trí là nhu cầu không thể thiếu được. Do vậy ngoài
thời gian tham quan, nghỉ ngơi, cần thiết phải có các chương trình vui chơi, giải trí cho
du khách trong chuyến đi. Với sự phát triển của xã hội, mức sống gia tăng, số người đi
du lịch phần nhiều mang mục đích giải trí, tiêu khiển bằng các trò chơi cũng gia tăng
đáng kể. Để đáp ứng xu thế này cần quan tâm mở rộng các loại hình và các cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như các công viên, các khu vui chơi giải trí.
+ Du lịch nghỉ dưỡng: Một trong những chức năng xã hội quan trọng của du lịch là
phục hồi sức khỏe cộng đồng. Theo một số học giả trên thế giới, với chế độ du lịch
hợp lý, cộng đồng có thể giảm được trung bình 30% ngày điều trị bệnh trong năm. Từ
xa xưa người ta đã phát hiện giá trị phục hồi sức khỏe, giá trị chữa bệnh của các vùng
biển miền Nam. Ngày nay, nhu cầu đi nghỉ càng lớn do sức ép của công việc căng
thẳng, của môi trường ô nhiễm, của các quan hệ xã hội. Số người đi nghỉ nhiều lần

trong năm cũng tăng lên rõ rệt. Số người đi nghỉ cuối tuần ở các nước công nghiệp
phát triển chiếm hơn 1/3 dân số. Địa chỉ cho các chuyến nghỉ dưỡng thường là những
nơi có không khí trong lành, khí hậu dễ chịu, phong cảnh ngoạn mục như các vùng
núi, vùng nông thôn, vùng ven bờ nước, đặc biệt là các bãi biển.
+ Du lịch thể thao: Chơi thể thao nhằm mục đích nâng cao thể chất, phục hồi sức
khỏe, thể hiện mình… được coi là một trong các mục đích du lịch. Đây là loại hình du
lịch xuất hiện nhằm đáp ứng lòng đam mê các hoạt động thể thao của con người.
Trong những dịp có thời gian rỗi, nhiều người thay vì chọn một chuyến đi nghỉ thụ
động lại tìm đến những nơi có điều kiện để tự mình được chơi một môn thể thao nào
đó nhưng không phải là tham gia thi đấu chính thức mà chỉ đơn giản là để giải trí. Để
kinh doanh loại hình này yêu cầu có các điều kiện tự nhiên thích hợp và có cơ sở trang
thiết bị phù hợp cho từng loại hình cụ thể. Mặt khác nhân viên cũng cần được huấn
luyện để có thể hướng dẫn và giúp đỡ cho du khách chơi đúng quy cách. Có thể phân
biệt thể thao chủ động và thể thao bị động. Du lịch thể thao chủ động là loại hình mà
du khách tham gia trực tiếp vào một hay nhiều môn thể thao, trong đó có tất cả những
môn thể thao mạo hiểm, nhằm mục đích thể hiện bản thân, rèn luyện sức khỏe. Du lịch
thể thao thụ động là các chuyến đi để xem các cuộc thi đấu thể thao mà du khách ưa
thích. Trong trường hợp này các cổ động viên chính là du khách.
+ Du lịch nghiên cứu: Loại hình du lịch này ngày càng trở nên phổ biến do nhu cầu
kết hợp học tập lý thuyết với tìm hiểu thực tiễn, học đi đôi với hành. Nhiều môn học,
ngành học cần có hiểu biết thực tế như địa lý, địa chất, lịch sử, khảo cổ, môi trường,
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

4

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ


sinh học, dân tộc học… Để đáp ứng nhu cầu này, nhiều nhà cung ứng du lịch đã xây
dựng các chương trình du lịch đặc thù thích hợp với yêu cầu của từng ngành.
+ Du lịch thăm thân: Đối với những nước có nhiều ngoại kiều, loại hình du lịch này
rất được coi trọng vì nó đáp nhu cầu giao tiếp, thăm hỏi của những người thân giữa các
miền, các nước. Kiên Giang là một trong những tỉnh có số lượng kiều bào động của cả
nước, vì vậy loại hình du lịch thăm thân cũng nên được xem trọng và đầu tư đúng
mức.
+ Du lịch kinh doanh: Không thể phủ nhận mục đích kinh tế trong chuyến đi của
nhiều người, đặc biệt là thương gia. Tìm cơ hội làm ăn, tìm đối tác kinh doanh … là
những mục tiêu chính của họ trong chuyến đi. Song đối với các cơ sở kinh doanh du
lịch, đặc biệt là các cơ sở lưu trú, đây lại là đối tượng phục vụ đặc biệt. Đây là nhóm
đối tượng du khách chiếm tỷ lệ khá cao so với các nhóm đôi tượng du khách khác
trong ngành du lịch. Fam Trip là một chuyến đi gần gũi và thân thiện dành cho các
công ty lữ hành để giới thiệu cho họ các sản phẩm du lịch tốt tại các điểm đến. Đây là
một hình thức mới, tiết kiệm được chi phí và nâng cao hiệu quả xúc tiến, vì chỉ trong
một thời gian ngắn các doanh nghiệp đã có dịp tiếp xúc với rất nhiều đối tác để giới
thiệu sản phẩm du lịch của đơn vị mình.
Và cuối cùng là loại hình du lịch tôn giáo, một loại hình du lịch đang ngày càng
phát triển phổ biến và rộng rãi ở nhiều nước trên Thế giới. Từ xa xưa, du lịch tôn giáo
là một loại hình du lịch phổ biến. Đó là các chuyến đi với mục đích tôn giáo như
truyền giáo của các tu sĩ, thực hiện lễ nghi tôn giáo của tín đồ tại các giáo đường, dự
các lễ hội tôn giáo. Ngày nay du lịch tôn giáo được hiểu là các chuyến đi của du khách
chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu thực hiện các lễ nghi tôn giáo của tín đồ, hay tìm hiểu,
nghiên cứu về tôn giáo. Điểm đến của du khách này là chùa chiền, nhà thờ, thánh địa...
1.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÔN GIÁO
1.2.1 Khái niệm:
Thuật ngữ “Tôn giáo” vốn có nguồn gốc từ phương Tây và bản thân nó cũng có
một quá trình biến đổi nội dung và khi khái niệm nó trở thành phổ biến trên toàn thế
giới thì lại vấp phải những khái niệm truyền thống không tương ứng của những cư dân
thuộc các nền văn minh khác, vì vậy trên thực tế đã xuất hiện rất nhiều quan niệm,

định nghĩa khác nhau về tôn giáo của nhiều dân tộc và nhiều tác giả trên thế giới.
Theo định nghĩa của trang web vi.wikipedia.org, tôn giáo hay đạo (tiếng Anh:
“religion” và “religion” xuất phát từ thuật ngữ “legere” (tiếng Latinh) có nghĩa là thu
lượm thêm sức mạnh siêu nhiên – xét trên một cách thức nào đó, đó là một phương
cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên, từ đó làm lợi ích cho
vạn vật và con người), đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là
niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý,
lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo
chia thế giới thành hai phần: thiêng liêng và trần tục. Trần tục là những gì bình thường
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

5

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

trong cuộc sống của con người, còn thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần thánh. Đứng
trước sự thiêng liêng, con người sử dụng lễ nghi bày tỏ sự tôn kính, sung bái, và đó
chính là cơ sở của tôn giáo. Trong nghĩa tổng quát nhất, có quan điểm đã định nghĩa
tôn giáo là kết quả của tất cả các câu trả lời để giải thích nguồn gốc, quan hệ giữa nhân
loại và vũ trụ; những câu hỏi về mục đích, ý nghĩa cuối cùng của sự tồn tại. Chính vì
thế, những tư tưởng tôn giáo thường mang tính triết học. Số tôn giáo được hình thành
từ xưa đến nay được xem là vô số, có nhiều hình thức trong những nền văn hóa và
quan điểm cá nhân khác nhau. Tuy thế, ngày nay trên thế giới chỉ có một số tôn giáo
lớn được nhiều người theo hơn những tôn giáo khác.
Đôi khi từ “tôn giáo” cũng được dùng để chỉ đến những cái gọi đúng hơn là “tổ
chức tôn giáo” - một tổ chức gồm nhiều cá nhân ủng hộ việc thờ phụng, thường có tư
cách pháp nhân. “Tôn giáo” hay được nhận thức là “tôn giáo” có thể không đồng nhất

với những định nghĩa trên đây trong niềm tin tối hậu nơi mỗi tôn giáo (tức là khi một
tín hữu theo một tôn giáo nào đó, họ không có cái gọi là ý niệm “tôn giáo” nơi tôn giáo
của họ, tôn giáo chỉ là một cách suy niệm của những người không có tôn giáo bao phủ
lấy thực tại nơi những người có tôn giáo).
Như vây: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo,
nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được
biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa
khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ,
những hành vi tôn giáo khác nhau. (Nguồn: Ban tôn giáo chính phủ).
- Một số thuật ngữ tương đồng với “tôn giáo”:
+ Đạo: từ này xuất phát từ Trung Hoa, tuy nhiên “đạo” không hẳn đồng nghĩa với
tôn giáo vì bản thân từ đạo cũng có thể có ý nghĩa phi tôn giáo. “Đạo” có thể hiểu là
con đường, học thuyết. Mặt khác, “đạo” cũng có thể hiểu là cách ứng xử làm người:
đạo vợ chồng, đạo cha con, đạo thầy trò…Vì vậy khi sử dụng từ “đạo” với ý nghĩa tôn
giáo thường phải đặt tên tôn giáo đó sau từ “đạo”. Ví dụ: đạo Phật, đạo Kitô...
+ Giáo: từ này có ý nghĩa tôn giáo khi nó đứng sau tên một tôn giáo cụ thể. Chẳng
hạn: Phật giáo, Nho giáo, Kitô giáo… “Giáo” ở đây là giáo hóa, dạy bảo theo đạo lý
của tôn giáo. Tuy nhiên “giáo” ở đây cũng có thể đươc hiểu với nghĩa phi tôn giáo là
lời dạy của thầy dạy học.
1.2.2 Đặc điểm tôn giáo
Tôn giáo do con người sáng tạo ra nên chịu tác động của thời gian, thiên nhiên, địa
lý phát tích và do chính con người chi phối. Đồng thời mỗi tôn giáo đều mang những
giá trị đặc sắc riêng, không nhầm lẫn giữa tôn giáo này với tôn giáo khác.
Trong xã hội chưa có giai cấp, Ăng Ghen cho rằng tôn giáo xuất hiện ngay trong
thời kì nguyên thủy, từ những quan niệm cổ xưa của con người về bản thân mình và
thiên nhiên bao quanh họ. Các tôn giáo nguyên thủy, sơ khai thể hiện niềm tin bản
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

6


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

năng của con người và lúc ấy chưa gắn với các lợi ích về kinh tế - xã hội. Các hình
thức phổ biến của tôn giáo nguyên thủy là các dạng như sau :
- Ma thuật giáo: Ma thuật theo tiếng Hy Lạp cổ là phép phù thủy. Đây là biểu hiện
của việc người nguyên thủy tin vào khả năng tác động đến tự nhiên bằng những hành
động tượng trưng (cầu khẩn, phù phép, thần chú…) nghĩa là bằng con đương siêu
nhiên. Nhờ các biện pháp ma thuật, người nguyên thủy cố gắng tác động đến những sự
kiện và làm cho nó diễn ra theo ý mình mong muốn. Về sau, ma thuật trở thành một
thành tố quan trọng không thể thiếu được của các tôn giáo phát triển. Việc thờ cúng
của bất kỳ tôn giáo nào cũng phải có ma thuật (cầu nguyện, làm phép,…). Tàn dư của
ma thuật là các hiện tượng bói toán, tướng số ngày nay.
- Bái vật giáo: Bái vật theo tiếng Bồ Đào Nha là bùa hộ mệnh, phép lạ. Bái vật giáo
xuất hiện vào lúc mới hình thành tôn giáo và sự thờ cúng. Bái vật giáo đặt niềm tin vào
những thuộc tính siêu nhiên của các vật thể như hòn đá, gốc cây, bùa, tượng. Họ cho
rằng một lực lượng siêu nhiên, thần bí trú ngụ trong vật đó. Bái vật giáo là thành tố tất
yếu của sự thờ cúng tôn giáo. Đó là sự thờ cúng các tượng gỗ, cây thánh giá… hoặc
lòng tin vài sức mạnh kì quái của các lá bùa.
- Vật linh giáo: Là hình thức tôn giáo xuất hiện muộn hơn, khi mà ý thức của con
người đã đủ khả năng hình thành nên những khái niệm. Vật linh giáo là lòng tin ở linh
hồn. Lòng tin này là cơ sở quan trọng để hình thành nên quan niệm về cái siêu nhiên
của người cổ xưa. Giai đoạn này đã có ảo tưởng cho rằng có hai thế giới : một thế
giứoi tồn tại thật sự và một thế giới siêu nhiên, trong đó thế giới siêu nhiên thống trị
thế giới thực tại. Thế giới siêu nhiên này của người nguyên thủy cũng đầy đủ động vật,
thực vật, các đối tượng do tinh thần tưởng tượng ra và không khác biệt gì lắm so với
thế giới thực tại.

Trong xã hội có giai cấp, sự xuất hiện các nhà nước, quốc gia với các vùng lãnh thổ
riêng biệt, tôn giáo lúc này không chỉ còn là một nhu cầu tinh thần của một quần
chúng mà còn là một phương tiện để giai cấp thống trị duy trì sự thống trị áp bức giai
cấp và bóc lột của mình và thực hiện sự bành trướng, xâm lược. Vì vậ, tôn giáo gắn
liền với chính trị và bị dân tộc hóa. Từ đó đã dẫn đến sự xuất hiện các tôn giáo dân tộc
và tôn giáo thế giới.
- Tôn giáo dân tộc: Đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia dân tộc của
nó. Các vị thần được tạo lập mang tính quốc gia dân tộc và phạm vi quyền lực giới hạn
trong phạm vi quốc gia. Thậm chí một số tôn giáo lớn cũng bị dân tộc hóa ở mỗi quốc
gia và trở thành tôn giáo có tính chất quốc gia.
- Tôn giáo thế giới: Sự phát triển của tôn giáo vượt ra khỏi biên giới một quốc gia
đã hình thành nên các tô giáo khu vực và thế giới như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi
giáo,… Khác với các tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế giới mang tính đa quốc gia, ảnh
hưởng đến nhiều khu vực rộng lớn trên thế giới.
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

7

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

Và dù là tôn giáo gì thì những tín đồ của một tôn giáo thường họp mặt để làm lễ,
đọc hay tụng kinh, cầu nguyện, thờ phụng và giúp đỡ tinh thần lẫn nhau. Tuy nhiên,
cầu nguyện và ngồi thiền một mình cũng thường được xem là quan trọng, cũng như
sống theo tín ngưỡng ngoài đời hay với những người không theo đạo đó. Đây thường
là một chức năng của tôn giáo.
1.3 MỘT SỐ VẪN ĐỀ VỀ DU LỊCH TÔN GIÁO
1.3.1 Khái niệm

Trong cụm từ du lịch tôn giáo ta thấy có hai phần : Tôn giáo + du lịch.
Du lịch: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghĩ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định (theo Luật du lịch Việt Nam).
Như vậy ta thấy rằng, du lịch tôn giáo là một hình thức của du lịch, là sự kết hợp
của người hành hương giữa việc đi du lịch để mở mang kiến thức với việc tế lễ, thờ
cúng.
Tóm lại, du lịch tôn giáo là các chuyến đi nhằm thỏa mãn nhu cầu tôn giáo của con
người theo các tôn giáo khác nhau như truyền giáo tu sĩ, thực hiện các nghi lễ tôn giáo
tại các giáo đường, dự các lễ hội tôn giáo hay tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo. Vì vậy,
nơi tổ chức các loại hình du lịch này là các địa bàn liên quan đến hoạt động tôn giáo
hoặc lịch sử tôn giáo như các chùa, thánh địa, khu giáo dân. Các trung tâm nổi tiếng
của du lịch tôn giáo là Thánh địa Vartican, Jerusalem. (theo Nguyễn Minh Tuệ (1996),
Địa lý du lịch Việt Nam).
Hành hương: là từ được dùng để chỉ những người đi đến nơi thần thánh, tôn giáo
của mình để tôn bái cầu nguyện. Như vậy, hành hương cũng được xem là một dạng
của du lịch tôn giáo.
Như vậy, khái niệm trên đã nói đến một chuyến đi mang tính chất và mục đích của
tôn giáo. Khách hành hương đi cúng bái, tìm hiểu tôn giáo trong sự thành kính với tôn
giáo bản xứ. Yếu tố du lịch và bản sắc của đức tin tôn giáo phải đi đôi với nhau, như
vậy mới có một khái niệm du lịch tôn giáo đúng nghĩa.
1.3.2 Vai trò của tôn giáo đối với hoạt động du lịch
Muốn phát triển du lịch thì điều kiện tiên quyết là phải có nguồn tài nguyên du lịch,
đồng thời cũng cần có sự tác động của con người đến hoạt động du lịch. Đối với loại
hình du lịch tôn giáo, thì điều kiện tất yếu quyết định sự phát triển chính là yếu tố tôn
giáo. Để khai thác nguồn tài nguyên này chúng ta có thể tìm hiểu ở nhiều khía cạnh
như các cơ sở thờ tự có đặc trưng về kiến trúc, lịch sử, mỹ thuật, các lễ hội, nghi lễ hay
những sinh hoạt gắn liền với tôn giáo.
Du lịch tôn giáo gắn liền với tôn giáo theo đúng tên gọi của nó. Bất kỳ một tôn giáo
nào muốn tồn tại thì phải có những hành vi thờ cúng và những hành vi này phải liên

quan đến niềm tin, giáo lý và được thực hiện bởi các chức sắc, những người làm nghi
lễ tôn giáo - người giữ một vai trò quan trọng và có ý nghĩa trong đời sống tín ngưỡng
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

8

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

của họ. Nghi lễ hay còn gọi là lễ thức là mối quan hệ của các thực thể bên kia với cuộc
sống trần gian của cộng đồng và cá nhân, nó làm cho nội dung giáo lý tôn giáo trở nên
sống động hơn, phổ biến thông qua những hành vi của tôn giáo. Đối với các tôn giáo,
việc thực hiện nghi lễ có tác dụng dẫn con người đến với các đối tượng mà họ thờ
cúng, ngược với nội dung tôn giáo là dẫn thế giới siêu linh đến với con người như là
cầu nguyện, khấn lễ hay sự kiêng kỵ.
Lễ hội cũng là một hoạt động vô cùng quan trọng trong đời sống tôn giáo. Có thể
nói tôn giáo sẽ không tồn tại nếu không có thờ cúng hay lễ hội. Hoạt động của lễ hội
diễn ra theo chu kỳ được tổ chức trong cộng đồng nhằm khơi dậy niềm tin, gợi lên
cho từng cá nhân nhận thấy mình thuộc về một cồng đồng tôn giáo hay một xã hội
nhất định, nó làm cho con người thấy mình không lẻ loi, thấy mình được đùm bọc và
che chở bởi cộng đồng.
Chính những yếu tố trên đã góp phần tạo nên nhu cầu về du lịch tôn giáo. Vì vậy
mà ngày nay có khá nhiều tour được tổ chức để nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của
người hành hương trên khắp thế giới có được cơ hội đến tham quan những điểm linh
thiêng – là nơi mà các tín đồ hành hương luôn mong muốn được đến dù chỉ một lần
trong đời.
Thông qua du lịch tôn giáo, khách hành hương có cơ hội được tìm hiểu và thị sát
thực tế những nơi gắn liền với tâm linh của họ, được giao lưu với những người đồng

đạo đến từ các quốc gia khác nhau trên thế giới. Đến với những nơi hành hương của
mình, khách du lịch không chỉ lĩnh hội được đầy đủ thông tin về cội nguồn tôn giáo
mà trong suốt quá trình hành hương, họ còn được sống cùng nhau trong một môi
trường tâm linh: cầu nguyện, chiêm bái, niệm kinh, tịnh tâm,… tạo cho họ có thêm sức
mạnh, niềm tin vào tôn giáo.
Ngoài ra thì tôn giáo còn là một yếu tố cơ bản để tạo nên các loại sản phẩm du lịch
tôn giáo, làm cho hoạt động du lịch thêm phần phong phú và đặc sắc. Muốn thu hút
khách du lịch đến với loại hình du lịch tôn giáo này thì đòi hỏi các sản phẩm của du
lịch tôn giáo phải độc đáo, đa dạng và phải luôn đổi mới về hình thức cũng như chất
lượng. Bên cạnh đó, chính du lịch tôn giáo lại là động cơ để duy trì và phát triển nguồn
tài nguyên tôn giáo, phải chú trọng sự kết hợp hài hòa giữa các loại tài nguyên tôn giáo
thì mới có hấp dẫn du khách và nâng cao chất lượng sản phẩm của loại hình du lịch
tôn giáo so với các loại hình du lịch khác.
Mặt khác, sự hòa đồng, gần gũi giữa các tôn giáo trong xã hội cũng có ý nghĩa rất
quan trọng, góp phần vào sự phát triển du lịch tôn giáo bởi lẽ đây là một vấn đề nhạy
cảm trong xã hội. Nếu như có sự phân hóa giữa các tôn giáo, mẫu thuẫn dẫn tới xung
đột, dẫn đến việc du khách không cảm thấy an toàn, thoải mái khi tham gia vào hoạt
động du lịch gắn với tôn giáo. Đồng thời, một môi trường du lịch tôn giáo an toàn, văn
minh với những chính sách bình đẳng, hòa đồng, gần gũi, thân thiện sẽ thúc đẩy được
số lượng khách tham quan gia tăng.
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

9

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

Chương 2

KHÁI QUÁT VỀ ẤN ĐỘ VÀ ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ
2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ẤN ĐỘ
2.1.1 Vị trí địa lý

Hình 1. Bản đồ nước Cộng hòa Ấn Độ
( />
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

10

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

Ấn Độ với quốc hiệu đầy đủ là Cộng hoà Ấn Độ, là một quốc gia nằm ở khu vực
Nam Á, nằm trên bán đảo Trung Ấn và chiếm hầu hết lãnh thổ của bán đảo này.
Thủ đô chính là thành phố New Delhi.
Ấn Độ có ranh giới lãnh thổ giáp với các quốc gia Pakistan, Trung Quốc, Myanma,
Nepal, Bangladesh, Afranistan, Bhutan
Với diện tích khá rộng lớn trên 3.287.590 km2, xếp hạng 7 trên toàn Thế giới, người
ta thường nghĩ đến Ấn Độ như là một tiểu lục địa đông dân với sự da dạng về chủng
tộc, ngôn ngữ, văn học, triết học và đặc biệt là tôn giáo.
2.1.2 Lược sử Ấn Độ:
2.1.2.1 Lịch sử tên gọi
Tên gọi đầy đủ của Ấn Độ hiện nay là “Cộng hòa Ấn Độ”, cái tên Ấn Độ bắt
nguồn từ thời nguyên thủy xa xưa, bắt nguồn từ con sông Ấn linh thiêng.
Theo ngôn ngữ của những người Ấn cổ đại, thì “Hindu” có nghĩa là dòng sông,
bắt nguồn từ sông Indus (sông Ấn), về sau người ta dùng tên gọi này để chỉ cả tiểu lục
địa Nam Á, cho đến khi Pakistan và Ấn Độ chia thành hai quốc gia riêng biệt thì người

ta mới dùng tên gọi này để chỉ nước Ấn Độ.
Đến thời Trung Cổ, người phương Tây dùng khái niệm “India” để chỉ phần phía
đông của xứ Persia (Ba Tư). “India” là một khái niệm địa lý để chỉ vùng đất chưa được
xác định rõ trên bản đồ của người châu Âu thời bấy giờ.
2.1.2.2 Lịch sử phát triển Ấn Độ qua các thời kì
Lịch sử Ấn Độ được ghi chép sớm nhất giờ đây nằm ở phế tích, vùng phía tây đất
nước, ở nơi khi xưa là thung lũng màu mỡ của người Indu. Vào khoảng năm 3000
trước CN, khu đô thị tại Mohenjodaro và Harappa (ngày nay, cả hai đều ở Pakistan)
thuộc nền Văn minh Thung lũng Indus. Cho đến ngày nay, tàn tích của những thành
phố này chỉ rõ sự hiện hữu của người dân có mức độ phát triển cao, thể hiện ở các khu
dân cư – các khu này cho thấy một sự hiểu biết tinh tường về thiết kế đô thị, được bố
trí theo hình kẻ ô gồm các con đường lát đá chạy vuông góc với nhau, nhà gạch xây
chắc chắn, kho lúa gạo, nhà tắm công cộng và thậm chí cả hệ thống thoát nước nữa.
Cư dân của nền văn hóa chủ yếu là nông nghiệp này cũng sử dụng tiền tệ, tham
gia hoạt động kinh doanh và sử dụng chữ viết. Những con dấu khai quật được cho biết
một số điều về cuộc sống và thời đại của họ. Trên những con dấu được tìm thấy nhiều
nhất thường có hình con trâu, tượng trưng cho nền văn hóa nông nghiệp; còn trên các
con dấu khác có hình nữ thần, cho thấy phụ nữ được kính trọng.
Một thay đổi lớn diễn ra cùng với sự xuất hiện của người Aryan vào năm 1.500
trước CN. Một số nhà sử học cho họ là quân xâm lược, số khác cho rằng họ là dân di
cư đi thành từng làn sóng kế tiếp nhau. Người ta hiện đang tranh cãi về việc liệu có
phải người Aryan ép buộc cư dân của nền Văn minh lưu vực Indus đi về phương nam,
hay sự di cư này là do các yếu tố khác gây ra, như động đất và lũ lụt chẳng hạn. Dù do
nguyên nhân nào đi chăng nữa, thì kết quả là, những người Aryan đầu tiên đã ổn định
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

11

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

cuộc sống ở thung lũng Indus và trở thành xã hội nông nghiệp và lập nên các cộng
đồng làng xã nhỏ ở Punjab.
Về phần mình, người Aryan cũng có một số đóng góp đáng kể. Họ mang theo kỵ
binh và tôn giáo của họ. Chiến tranh kỵ binh khiến văn hóa Aryan lan nhanh khắp
miền bắc Ấn Độ, gieo mầm các đế chế lớn. Tiếng Phạn – ngôn ngữ của người Aryan –
là cơ sở và nhân tố chung trong nhiều ngôn ngữ Ấn Độ, còn đền thờ các vị thần, thần
thoại và truyền thuyết của người Aryan trở thành nền tảng của tôn giáo Hindu.
Lối sống định cư này đã dẫn đến việc hình thành các hệ thống hành chính, hình
thức chính phủ và các mô hình xã hội phức tạp, mà quan trọng nhất trong số đó là sự
hình thành chế độ đẳng cấp. Với mục đích ban đầu là hoạt động như chế độ phường
hội, chế độ đẳng cấp đã chuyển thành chế độ xã hội chính trị khắt khe dựa vào nguồn
gốc. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự xuất hiện các vương quốc và nước cộng hòa, sự
kiện hai bộ sử thi Ấn Độ vĩ đại Ramayana và Mahabharata; cả hai tác phẩm đều được
cho là ra đời vào khoảng thời gian này. Có tính chất phúng dụ và tượng trưng cao, hai
bộ sử thi cung cấp một số bài học hay nhất về sự khôn ngoan, từng trải. Điều này được
thấy đầy đủ trong Bhagwad Gita, một phần của Mahabharata có lời khuyên dạy của
Thần Krishna cho hoàng tử Arjuna nhà Pandava. Không lấy gì làm ngạc nhiên khi ta
tìm thấy các bản văn khác như bốn tập kinh Veda – tất cả cùng giúp biến nền văn hóa
thô lậu, thiếu tế nhị và hiếu chiến thành nền văn minh tao nhã, tinh vi.
Đến thế kỷ thứ 6 trước CN, tinh thần đúng đắn của Ấn Độ giáo bị kẹt trong cách
lý giải theo lễ nghi và khắt khe vốn khiến cho các nhà tư tưởng như Mahavir và
Gautama Buddha tìm kiếm và đưa ra các con đường khác – đó là đạo Jains (Mahavir)
và đạo Phật (Gautama Buddha). Điểm chung cho cả hai tôn giáo này là sự nhấn mạnh
lòng khoan dung, tự tu tập và phi bạo lực. Ở những người theo đạo Jains, điều này
được thể hiện rõ hơn. Tín đồ Jains truyền thống đeo mặt nạ vải và quét sạch đường
trước khi đi để không sinh vật nào bị đau hay bị giẫm bẹp. Phật tử biểu lộ đức tin này
thông qua phương pháp tiếp cận mang tính quan điểm. Đạo Jains lan truyền chủ yếu ở

Ấn Độ, thường là các vùng phía tây, còn đạo Phật được đưa sang các vùng đất khác,
bắt đầu từ Sri Lanka rồi lan sang Đông và Đông Nam Á.
Vua Mauryan – Ashoka Đại đế (268-231 trước CN), cháu hoàng đế Ấn Độ vĩ đại
đầu tiên Chandragupta Mauryan – là người quan trọng nhất trong số những người có
trách nhiệm truyền bá đạo Phật. Vương quốc mà Ashoka thừa kế từ người cha
Bindusara, trải dài gần như toàn bộ tiểu lục địa. Nói về tham vọng hoàng đế thì
Ashoka đã thôn tính thành công một vài vương quốc mà vương quốc cuối cùng là
Kalinga.
Sự kiện đó làm thay đổi cuộc đời của vị vua này và tiến trình lịch sử Ấn Độ. Mệt
mỏi với nỗi ân hận khi nhìn thấy quá nhiều máu đổ, Ashoka nhận ra tính phù phiếm
của quyền lực thế gian. Ông trở thành Phật tử nhưng không bao giờ ép buộc tôn giáo
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

12

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

của mình cho thần dân. Tuy nhiên, ông không tiếc công sức tạo điều kiện truyền bá
đạo Phật, dù là dưới dạng sắc dụ khắc trên đá hoặc trụ đá hay cử sứ giả đi các nước.
Hình bốn con sư tử trên đỉnh trụ đá Asoka – quốc huy Ấn Độ – được cho là
tượng trưng cho việc truyền bá giáo pháp Phật đi khắp bốn phương.
Đến thế kỷ thứ hai, miền Bắc Ấn Độ bị chia thành nhiều công quốc nhỏ. Tuy
nhiên, ở miền Nam nổi lên ba vương triều lớn – đó là Cholas, Pandyas và Cherasl; ba
vương triều này đã chiến đấu để giành uy quyền tối cao trong vùng. Chính trong thời
kỳ này, sự giao dịch với các tàu buôn La Mã lần đầu tiên được thiết lập. Thánh
Thomas được cho là đã đến Kerala vào thế kỷ thứ nhất sau CN và thành lập cộng đồng
Cơ đốc giáo ở đó.

Ở miền Bắc, giai đoạn từ năm 320 đến 480 sau CN chứng kiến sự xuất hiện và
phát triển của đế chế Gupta ở Magadha. Thời kỳ này, còn được gọi là Thời đại vàng
son của Ấn Độ, chứng kiến sự phát triển của các loại hình nghệ thuật cổ điển. Nghệ
thuật, kiến trúc và các công trình điêu khắc đáng chú ý nhất của thời kỳ này vừa hoàn
hảo về kỹ thuật lại vừa sinh động trong nét mới lạ. Hoạt động nghệ thuật đa dạng và
các khuynh hướng tư tưởng mới có ảnh hưởng rất mạnh. Các luận thuyết uyên bác đề
cập đến nghệ thuật tình yêu – đó là Kamasutra.
Tất cả những thứ này đều tồn tại trong thời gian ngắn. Quân xâm lược Hun
(Hungnô) ở tây bắc đã làm cho đế chế Gupta sụp đổ nhanh và tiếp theo đó là một thời
kỳ bất ổn về chính trị kéo dài.
Do vậy, trung tâm phát triển chuyển về phía nam vùng núi Vindhya. Trong vòng
600 năm kể từ giữa thế kỷ thứ 6, bốn vương quốc lớn – Chalukyas, Cholas, Pallavas và
Pandyas – dính líu vào cuộc xung đột bất phân thắng bại. Thời kỳ này chứng kiến sự
phát triển của nền văn hóa Tamil với phong cách nghệ thuật và kiến trúc khác biệt
(cũng như hệ thống chữ viết khác biệt), và đạt đến tột đỉnh vào thế kỷ 12 dưới thời
Cholas.
Các vương quốc ở phía nam biểu lộ sự nhân nhượng dân chủ mà về một ý nghĩa
nào đó, về cơ bản là mang tính chất Ấn Độ. Trong suốt thời Cholas, những người đi
biển đã đưa văn hóa Ấn Độ và Ấn Độ giáo vượt biển đến với các nước ở Đông Nam
Á; ở đó, cả hai thứ đều trở nên phổ biến và được người dân ưa thích. Quay trở lại Ấn
Độ, ở Kerala, triều đại nhà Cheras tiếp đón dòng người buôn Ả Rập tràn đến Ấn Độ
khi họ phát hiện ra tuyến đường đến nước này một cách nhanh nhất, bằng cách sử
dụng gió mùa. Nhiều người quyết định định cư ở Ấn Độ và được phép tự do hành đạo.
Hậu duệ của họ là cộng đồng Moplah hay tín đồ Hồi giáo Malabar. Đặc điểm liên văn
hóa này thể hiện rõ nhất ở quần đảo Lakshadweep ngoài khơi bờ biển Kerala, nơi đạo
Hồi truyền thống được tuân theo một cách nghiêm ngặt y hệt như truyền thống mẫu hệ
phi Hồi giáo du nhập từ đất liền.
Ảnh hưởng của đạo Hồi ở miền nam được lặp lại ở miền bắc. Bị lôi cuốn bởi
những câu chuyện về vùng đồng bằng màu mỡ ở Punjab và số lượng lớn đền Ấn Độ
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)


13

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

giáo, vua Mahmud của vương quốc Ghazni ở Afghanistan tấn công Ấn Độ lần đầu tiên
vào thế kỷ 10 sau công nguyên. Những kẻ tấn công khác ở Trung Á đi theo Mahmud.
Cuối thế kỷ 12, Qutb-ud-din Aibak lập ra triều đại Slave ở Delhi, tạo dựng trung tâm
của vương quốc Hồi giáo Delhi hay sự cai trị của các vua Thổ Nhĩ Kỹ hoặc Afghan –
đó là Khiljis, Tughlaqs, Lodis.
Nhưng bộ tộc Mughals – bộ tộc Trung Á do Babur lập ra vào thế kỷ 16 – tạo ra
ảnh hưởng lâu dài hơn nhiều. Mặc dù chinh phục Hindustan là tham vọng của Babur,
nhưng Babur chưa bao giờ quan tâm đến việc định cư ở Ấn Độ – vùng đất không có
loại “dưa thung lũng Ferghana” nổi tiếng mà ông rất thích. Nhưng số phận đã dành cho
Babur hướng phát triển khác. Sau trận Panipat đầu tiên thắng Ibrahim Lodi, Babur tự
xưng là người sáng lập triều đại Mughal.
Con trai Babur là Humayun củng cố nền móng của triều đại Mughal vững chắc
hơn, nhưng sự vĩ đại của triều đại này lại được thừa nhận dưới thời cháu Babur là
Akbar (1562-1605). Sức mạnh trần thế không phải là lý do duy nhất giải thích tại sao
hoàng đế này được gọi là Akbar Đại đế. Ngoài việc sáp nhập các vùng đất rộng lớn
vào đế chế của mình, Akbar còn nỗ lực thực hiện một trong những thể chế hành chính
hiệu quả hơn, được tiếp nối hàng thế kỷ sau đời ông. Nhưng di sản của Akbar sẽ luôn
là việc ông đã cố gắng tạo ra nền văn hóa bao gồm những điều tốt đẹp nhất của Ấn Độ
giáo và Hồi giáo trong tôn giáo Din-e-llahi của mình. Để thực hiện ý tưởng của mình,
thậm chí ông còn kết hôn với công chúa Ấn Độ, trong khi kiến trúc Sikandra và thành
phố do ông tạo dựng – Fatehpur Sikri ở gần Agra – thì pha trộn xu hướng Ấn Độ giáo
và Hồi giáo. Văn hóa Mughal đạt đến tột đỉnh dưới thời cháu Akbar là Shah Jahan –

vốn được biết đến là nhà kiến tạo và bảo trợ nghệ thuật vĩ đại. Shah Jahan dời thủ đô
từ Agra đến Delhi mặc dù ông dành bờ sông Yamuna ở Agra làm nơi yên nghỉ mãi
mãi cho người vợ yêu quí Mumtaz Mahal – đó là Taj Mahal. Là một mẫu hình tuyệt
vời của kiến trúc và công trình bằng đá, giờ đây Taj thu hút cả các nguyên thủ quốc gia
lẫn khách du lịch có cùng cảm quan về cái đẹp và kỳ quan. Như một tổng thống Mỹ
khi đến thăm quan Taj đã nhận xét: “Thế giới chia thành hai nửa: những người đã nhìn
thấy Taj và những người chưa.”
Aurangzeb – hoàng đế Mughal cuối cùng – mở rộng đế chế sang tận miền nam
Ấn Độ, nhưng do thái độ không khoan dung đối với các tôn giáo khác vốn có ở ông và
sự trỗi dậy của dòng họ Rajput và Maratha đang thách thức đế chế, nên thời kỳ trị vì
của ông là một thời kỳ náo loạn. Đó là khởi đầu cho một sự cáo chung bởi vì các
hoàng đế kế tiếp không thể ngăn chặn được các cuộc nổi dậy và ngày càng trở nên vô
dụng sau khi đế chế Anh nắm quyền ở Ấn Độ. Thậm chí Hoàng đế Mughal cuối cùng
là Bahadur Shah Zafar còn bị quân Anh trục xuất khỏi Ấn Độ, đưa đến Burma rồi chết
trong cô đơn ở đó.
Ảnh hưởng của Hồi giáo tới văn hóa Ấn Độ thật lớn. Hồi giáo ảnh hưởng lâu bền
đến sự phát triển tất cả các lĩnh vực của nỗ lực của con người, ngôn ngữ, quần áo, ẩm
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

14

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

thực, tất cả các loại hình nghệ thuật, kiến trúc, thiết kế đô thị, phong tục và giá trị xã
hội.
Trong lĩnh vực tôn giáo, lời răn dạy của hai nhân vật tôn giáo vĩ đại thế kỷ 14-15
– Kabir và Nanak – phản ánh sự hấp thu cả hai nền văn hóa. Dựa vào tín đồ Hindu

Bhakti (mộ đạo) và tín ngưỡng Hồi giáo Sufi, tinh thần khoan dung của Ấn Độ giáo và
các tư tưởng về bình đẳng của Hồi giáo, họ thực hành một thứ tôn giáo chủ trương
cuộc sống đơn giản và kinh nghiệm thực tiễn. Kabir nhấn mạnh tính độc nhất của thần
thánh trong câu thơ của mình, còn Guru Nanak lại lập ra đạo Sikh có nhiều người theo
ở Punjab.
Làn sóng ảnh hưởng tiếp theo làm thay đổi tiến trình lịch sử Ấn Độ bắt nguồn từ
người châu Âu mà cuối cùng là người Anh. Những người đi biển vùng tây bắc Âu,
Anh, Pháp, Hà Lan và Bồ Đào Nha đến Ấn Độ vào đầu thế kỷ 17 và thiết lập các
thương điểm dọc bờ biển Ấn Độ. Những người mới đến này nhanh chóng bộc lộ sự
ganh đua lẫn nhau và tìm kiếm sự giúp đỡ của người trị vì địa phương trong việc chiến
đấu cùng phe với họ, củng cố lãnh thổ hay vị trí kinh doanh của họ. Cuối cùng, việc
này biến thành tham vọng chính trị và họ lợi dụng tình trạng bất hòa giữa những người
trị vì Ấn Độ. Người Anh là kẻ chiến thắng cuối cùng và thiết lập uy quyền chính trị tối
cao ở miền đông Ấn Độ sau trận Plassey năm 1757; đến cuộc chiến tranh độc lập lần
thứ nhất năm 1857 thì người Anh đã thống trị phần lớn tiểu lục địa này.
Không giống những người đi trước, người Anh không định cư ở Ấn Độ để thiết
lập đế chế địa phương. Thay vào đó, Ấn Độ giúp thúc đẩy cuộc cách mạng công
nghiệp non trẻ ở Anh bằng cách cung cấp nguyên vật liệu thô rẻ, vốn và thị trường bị
khống chế lớn cho công nghiệp Anh. Vùng đất này được tổ chức lại theo chế độ
zamindari (địa chủ) hà khắc nhằm tạo điều kiện thu thuế, đồng thời ở một số vùng,
nông dân bị buộc phải chuyển từ trồng cây lương thực sang các cây thương phẩm như
cây chàm, đay, chè và cà phê. Điều này dẫn đến nạn đói và các cuộc nổi dậy trên phạm
vi lớn.
Một thế kỷ tích tụ mối bất bình dẫn đến sự kiện thường được gọi là binh biến và
ngày nay gọi là Chiến tranh Độc lập Ấn Độ lần thứ nhất năm 1857. Binh biến mau
chóng gây ra cuộc xung đột tự phát chống lại luật pháp Anh, như Chủ thuyết Truất
quyền của Dalhousie. Các tiểu vương quốc, tầng lớp quý tộc và nông dân cùng nhau
nổi dậy chống lại người Anh. Cuộc nổi dậy bị đàn áp dã man và năm 1858, Ấn Độ trở
thành lệ thuộc vào Anh.
Nhưng mầm mống độc lập đã được gieo. Từ đó trở đi, thông qua giáo dục và cải

cách xã hội cho đến các cuộc khởi nghĩa vũ trang và phong trào chính trị, khí phách
Ấn Độ luôn sục sôi chống lại xiềng xích bóc lột của Anh. Hệ thống đường sắt rộng lớn
do Anh thiết lập đã làm cho sự thống nhất Ấn Độ trở thành rõ ràng trong ý niệm, bởi
vì cùng với sự đi lại của người dân thì các ý tưởng và tư tưởng độc lập cũng viễn du
theo. Do một nhóm người nước ngoài không thể cai trị được nổi một đất nước to lớn
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

15

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

như Ấn Độ, nên người Anh bắt đầu kiến tạo đội ngũ tinh hoa bản xứ để giúp họ trong
nhiệm vụ này. Những người này – vốn được giáo dục theo truyền thống và tư tưởng
tốt nhất của Anh – đã khắc sâu những quan niệm phương Tây vào cơ cấu xã hội và trí
thức Ấn Độ. Chủ yếu nhờ nỗ lực của lớp trí thức được Tây hóa này, mà các ý niệm về
dân chủ, tự do cá nhân, bình đẳng, lan truyền đến quần chúng nhân dân Ấn Độ và lên
đến cực điểm ở phong trào tự do. Đây cũng là thời kỳ biến động xã hội lớn lao với sự
hiện diện của Raja Ram Mohan Roy, Bankim Chandra Chatterjee và Vidyasagar – tất
cả đều là người vùng Bengal và lãnh đạo các phong trào cải cách xã hội to lớn. Năm
1885, Đảng Quốc đại Ấn Độ được thành lập và nhận thức tâm lý về thống nhất quốc
gia được hình thành.
Cuối thế kỷ 19, phong trào tự do đến được với dân thường nhờ việc các nhà lãnh
đạo, như Bal Gangadhar Tilak và Aurobindo Ghose, phát động phong trào Swadeshi
(dùng hàng quốc nội). Nhưng chỉ khi Gandhi, một trong những nhà lãnh đạo có sức
hấp dẫn lớn nhất Ấn Độ, xuất hiện thì quần chúng mới hoàn toàn được huy động.
Mohandas Karamchand Gandhi là luật sư người Ấn Độ học luật ở Anh. Ở Nam
Phi, ông nổi tiếng nhờ việc tổ chức cộng đồng người Ấn xa xứ chống lại chủ nghĩa

Apacthai. Về sau, ông đưa ra phương pháp phản đối phi bạo lực gọi là satyagraha và
được gọi là Mahatma hay Linh hồn Vĩ đại. Khi trở về Ấn Độ vào năm 1915, ông trở
thành nhân tố quyết định của Đảng Quốc đại vốn đang tìm kiếm một lãnh tụ như thế.
Như Jawaharlal Nehru nói: “Ông là luồng không khí mới khiến chúng tôi vươn vai, hít
một hơi dài và đem lại sức sống mới cho phong trào tự do”.
Dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Đảng Quốc đại phát động một loạt phong trào
quần chúng – phong trào phi bạo lực, bất hợp tác (1920-1922), phong trào bất tuân dân
sự (1930); và khởi đầu với cuộc Hành trình muối, Gandhi đã thu hút và khích động
người dân Ấn Độ bằng việc dẫn đầu đoàn người đi theo từ Sabarmati đến Dandi, cách
xa 200 dặm, để làm muối, tức là vi phạm Luật muối của người Anh. Phong trào độc
lập lớn mạnh dần. Tháng 8 năm 1942, phong trào “Quit India” (đòi thực dân Anh rút
khỏi Ấn Độ) được phát động chống lại thực dân Anh và thực dân Anh đã dùng đến
biện pháp đàn áp dã man. Người Anh hiểu ra rằng, chỉ có thể duy trì đế chế của mình ở
Ấn Độ với cái giá phải trả khổng lồ. Cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, Chính phủ
Anh bắt đầu các bước đi có tính thể chế để thực hiện chuyển giao quyền lực cho Ấn
Độ.
Ngày 15 tháng 8 năm 1947, Ấn Độ giành được độc lập. Trong bài phát biểu lúc
nửa đêm tại Nghị viện Ấn Độ, vị Thủ tướng đầu tiên Jawaharlal Nehru nói: “Từ bao
năm qua chúng ta đã ước hẹn với số phận, và nay là lúc chúng ta thực hiện lời hứa,
không phải một cách đầy đủ hay trọn vẹn mà là một cách cơ bản. Ngay vào thời khắc
lúc nửa đêm, khi cả thế giới đang chìm trong giấc ngủ thì Ấn Độ sẽ thức giấc để được
sống và hưởng tự do. Thời khắc lịch sử hiếm hoi đang đến, khi chúng ta bước ra khỏi
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

16

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ


quá khứ để đến với tương lai, khi một thời đại sẽ kết thúc, khi hồn thiêng dân tộc, vốn
bị áp bức bao lâu nay, sẽ bắt đầu cất tiếng.”
Trong ba năm tiếp theo, Ấn Độ đã xây dựng Hiến pháp duy trì bộ khung của nền
dân chủ hiện đại vốn được tạo thành chủ yếu trên mô hình nghị viện Anh, nhưng bao
gồm các ý tưởng của ít nhất chín Hiến pháp khác trên thế giới. Ấn Độ trở thành nước
cộng hòa vào ngày 26 tháng 1 năm 1950, khi Hiến pháp có hiệu lực và người dân Ấn
Độ được quyền bầu cử, được đảm bảo quyền tự do ngôn luận, thể hiện và tín ngưỡng,
và quyền được bảo vệ chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử.
Ấn Độ áp dụng chế độ nghị viện để lãnh đạo quốc gia, với hai viện – Lok Sabha
(Hội đồng Nhân dân) và Rajya Sabha (Hội đồng các bang) – là cơ quan lập pháp tối
cao của đất nước. Các bang cũng theo phương thức này, mặc dù một số bang bỏ qua
hình thức thượng viện. Tổ chức hành pháp và tư pháp là hai bộ phận khác của bộ máy
quản lý ở Ấn Độ. Hệ thống hành chính của thực dân Anh vẫn là “khung sắt” của chế
độ quản lý, có nhiệm vụ thực thi luật pháp và các chính sách.
Các chính phủ trước đi theo lý tưởng của ý tưởng xã hội chủ nghĩa và thế tục, tìm
cách đưa nhà nước Ấn Độ vượt qua khỏi tình trạng ủng hộ một tôn giáo, một sắc tộc
hoặc một đẳng cấp nhất định hay sự phân tầng xã hội nào đó. Điều này vẫn còn là
phương châm quản lý của Ấn Độ, với dân số hơn một tỉ người thuộc mọi giáo phái tôn
giáo và thành phần xã hội. Về chính sách đối nội, nó dẫn tới một loạt hành động quyết
đoán và các chính sách cải cách ruộng đất nhằm tạo ra một trật tự bình đẳng hơn.
Về chính sách đối ngoại, tư tưởng trên khiến các nhà lãnh đạo đất nước thiên về
ủng hộ quan điểm mang tính xã hội chủ nghĩa và điều này đưa Jawaharlal Nehru – Thủ
tướng đầu tiên của Ấn Độ – trở thành một trong những người sáng lập Phong trào
Không Liên kết (NAM), không tham gia khối phương Tây do Mỹ đứng đầu hay khối
Xô-viết do Liên Xô cũ đứng đầu. Mặc dù vậy, sau năm 1971, Ấn Độ thực sự liên kết
khăng khít hơn với Liên Xô cũ, phát triển một mối quan hệ sâu sắc và bền vững. Với
việc kết thúc Chiến tranh lạnh và Liên Xô cũ tan rã thành nước Nga và các nước độc
lập khác, mối quan hệ của Ấn Độ mở rộng ra, bao gồm cả các nước cộng hòa mới.
Trong lúc đó, mô hình kinh tế hỗn hợp mà Ấn Độ đi theo trong hơn 40 năm đã bị

triệt tiêu sau năm 1991. Nhiều cải cách kinh tế nâng cao một cách cơ bản mối quan hệ
của Ấn Độ với Mỹ vốn giờ đây đang là đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ. Sự
tăng trưởng của khu vực công nghệ cao ở Ấn Độ cũng làm mối quan hệ Ấn-Mỹ và
quan hệ của Ấn Độ với các nước khác trên thế giới thêm vững chắc, vì Ấn Độ dường
như có khả năng tốt hơn trong việc “vật lộn” với những phức tạp của trật tự kinh tế
mới đang nổi lên trên thế giới.
Ngày nay, trong trật tự thương mại quốc tế đã xuất hiện, với tư cách là một trong
những thành viên đầu tiên của GATT và sau đó là WTO, Ấn Độ luôn cố gắng không
mệt mỏi nhằm đảm bảo sao cho lợi ích của thương mại toàn cầu đến với các nước đã
phát triển cũng như các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa đã thu hẹp thế giới và cảm
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

17

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

nhận về việc không còn khoảng cách hiếm khi rõ hơn so với, chẳng hạn, dân chài vùng
biển Kerala – những người thậm chí trong lúc ở ngoài khơi vẫn có thể kiểm tra được
thông tin giá cá mới nhất ở các thị trường bán buôn.
Bước sang thế kỷ 21, giờ đây Ấn Độ có thể tự hào về một số thành tựu. Đó là
nước dân chủ lớn nhất trên thế giới với hơn một tỷ người dân tham gia tích cực vào
các quá trình chính trị - xã hội của đất nước. Ấn Độ là nền kinh tế mạnh và phát triển,
vững bước tiến vào khu vực công nghệ cao và hướng tới một xã hội dựa trên các
nguyên tắc thế tục và bình đẳng.
2.1.3 Điều kiện tự nhiên
Lãnh thổ Ấn Độ khá rộng và trải dài khắp lục địa Ấn Độ, với địa hình phân hóa đa
dạng từ tây sang đông. Phần phía Bắc và Đông Bắc Ấn Độ là dãy núi Hymalaya hùng

vĩ, nơi bắt nguồn của hai con sông lớn chảy qua Ấn Độ là sông Ấn và sông Hằng, tạo
nên một vùng đồng bằng phì nhiêu màu mỡ cho vùng đất Trung Ấn. Phần còn lại ở
phía tây Ấn là sa mạc Thar rộng lớn và cũng là đường biên giới tự nhiên giữa Ấn Độ
và Pakistan, nơi đây được xem là nơi khô hạn nhất ở Ấn Độ. Phần phía Nam bán đảo
Ấn Độ là toàn bộ cao nguyên Deccan, được bao bọc bởi hai dãy núi Ghâts Tây và
Ghâts Đông.
Ấn Độ là nơi khởi nguồn của nhiều con sông lớn, trong đó có 3 con sông lớn có vai
trò quan trọng là sông Ấn, sông Hằng và sông Brahmaputra.
+ Sông Ấn (Indus) có chiều dài hơn 3.180m, xuất phát từ vùng núi Caracarums
thuộc dãy Himalaya và chảy qua vùng Jammu – Cashmir và Punjab, sau đó đổ vào
lãnh thổ Pkistan.
+ Sông Hằng có chiều dài là 2.700km và sông Brahmaputra với chiều dài là
2900km, cr hai con sông này đều bắt nguồn từ dãy Himalaya – sơn nguyên Tây Tạng
chảy qua miền Bắc Ấn Độ và đổ vào vịnh Bengal, bồi đắp vùng cửa sông thành tam
giác châu màu mỡ.
Khí hậu Ấn Độ khá phong phú và có sự tương phản từ phía Bắc xuống phía Nam.
Khí hậu ở Bắc Ấn Độ chịu ảnh hưởng của dãy núi Hymalaya, với độ cao khá lớn nên
thường có tuyết rơi trong thời gian dài, khí hậu ở vùng này chủ yếu là khí hậu ôn đới.
Nhưng đồng thời hai dãy núi Hymalaya và dãy Hindu Kush (Pakistan) lại là hai tấm lá
chắn lớn ngăn luồng gió lạnh từ Trung Á thổi xuống, khiến cho vùng Trung Ấn khá
ấm và mát mẻ. Phía tây nam Ấn Độ có khí hậu nhiệt đới, do chịu ảnh hưởng của cao
nguyên Deccan và sa mạc Thar ở phía tây mang theo gió mùa tây nam làm cho nơi này
mưa nhiều hơn.
Có thể chia khí hậu Ấn Độ ra thành ba rõ rệt như sau:
+Từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau: khí hậu nơi này tương đối mát mẻ, trời trong,
không mưa, nhiệt độ trung bình thường không quá 30oC.

ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

18


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

+ Từ tháng 2 đến tháng 6: khí hậu vào khoảng thời gian này bắt đầu trở nên oi
bức hơn, nhiệt độ cũng lên cao dần, nhiều nơi nhiệt độ lên cao đến hơn 36oC, đặc biệt
là ở vùng cao nguyên Deccan.
+ Từ tháng 6 đến tháng 10: đây là thời gian bắt đầu vào mùa mưa ở Ấn Độ, mưa
thường bắt đầu từ bờ tây của Ấn Độ, ở lưu vực sông Hằng mưa thường đến muộn hơn
từ 2 đến 3 tuần.
Lượng mưa phân bố rất mất cân đối trên vùng đất Ấn Độ:
+ Nơi có lượng mưa cao nhất là sườn tây của dãy Ghâts Tây với hơn
2000mm/năm.
+ Nơi có lượng mưa thấp nhất là lưu vực sông Ấn và cao nguyên Deccan với
lượng mưa dưới 500mm/năm.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Ấn Độ khá đa dạng và phong phú. Ấn Độ có nhiều
vùng đất màu mỡ phục vụ cho phát triển nông nghiệp, ngoài ra vùng đất đen trên nền
đá bazan ở cao nguyên Deccan còn thích hợp trồng cây công nghiệp như vải bông.
Phần lớn các loại khoáng sản có giá trị trong vùng Nam Á đều tập trung trên lãnh thổ
Ấn Độ như cao nguyên Deccan, vịnh CamBay, lưu vực sông Ấn. Ấn Độ có hệ động thực vật khá phong phú và quí hiếm, được liệt vào danh sách quốc gia có sự đa dạng
sinh học cao nhất trên Thế giới cả về số loài và số lượng cá thể. Ấn Độ hiện là quê
hương của hơn 3.000 con hổ Bengal, 10.000 voi châu Á và khoảng 8.000 con bò tót,
những loài thú quí hiếm bậc nhất thế giới.
Với thiên nhiên đa dạng và phong phú như thế, Ấn Độ có rất nhiều điều kiện để
phát triển nền kinh tế đa ngành tương xứng với qui mô “tiểu lục địa”.
2.1.4 Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.4.1 Dân số, phân bố dân cư và vấn đề dân tộc, sắc tộc
Ấn Độ là nước đông dân thứ hai trên Thế giới với ước tính khoảng 1,2 tỷ người

(2011), tỷ lệ tăng tự nhiên là 1.76%/năm trong thời gian 2001 - 2011. Mật độ dân số
trung bình là 329người/km2.
Do ảnh hưởng của sự phân hóa về địa hình cũng như tự nhiên nên sự phân bố dân
cư ở Ấn Độ trở nên mất cân đối, dân cư tập trung chủ yếu ở những vùng lưu vực sông
và vùng cửa sông, chiếm 70% dân số cả nước. Một số vùng thành thị đông dân nhất là
BomBay, Kolkata, New Delhi, Chennai và Bangalore với dân số hơn 10 triệu dân.
Vấn đề dân tộc và ngôn ngữ là một vấn đề phức tạp ở Ấn Độ, điển hình là khi
Anh đến xâm lược Ấn Độ vào thế kỉ XVIII, Ấn Độ khi đó có 600 tiểu vương quốc và
sử dụng hơn 1000 ngôn ngữ khác nhau. Ngày nay, trên cơ sở dân cư, Ấn Độ được chia
thành 29 bang và 7 vùng lãnh thổ. Theo điều tra dân số năm 2001, dân cư Ấn Độ bao
gồm 2 nhóm chính là Indo – Aryan (chiếm 71% dân số), Dravidian (chiếm 25% dân
số) và 3% còn lại thuộc về người Mông Cổ và những chủng thiểu số khác.
Ấn Độ sử dụng đến 15 ngôn ngữ là quốc ngữ, phần lớn những ngôn ngữ này xuất
phát từ hai hệ ngôn ngữ chính là hệ ngôn ngữ Ấn-Aryan (hơn 74% dân số sử dụng) và
ĐẶNG THỊ HỒNG NGÂN (HG09012)

19

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


×