Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

bình đẳng giới trong gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.83 KB, 14 trang )

“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

LỜI MỞ ĐẦU
Như ta đã biết gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con
người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”.
Nhà nước ta hiện nay, mục tiêu, chuẩn mực cơ bản, trực tiếp mà chúng
ta hướng tới chính là xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh
phúc. Trong gia đình cần chú trọng xây dựng quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa
các thành viên, bình đẳng giữa con trai và con gái, bình đẳng giữa các thành
viên nam và thành viên nữ nhất là dân chủ bình đẳng giữa vợ và chồng; điều
này góp phần tạo nên sự nề nếp, hoà thuận, kỷ cương trong mỗi gia đình. Yếu
tố này trở thành một trong những nội dung cơ bản và chủ yếu, cấp thiết trong
xây dựng gia đình mới ở Việt Nam.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng hoàn
thiện khung luật pháp, chính sách về quyền bình đẳng trên lĩnh vực bình đẳng
giới và được quy định trong một số văn bản pháp luật: Luật dân sự, Luật hôn
nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình, các
công ước quốc tế như công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ, công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em…mà trọng tâm là luật hôn
nhân và gia đình năm 2014. Luật Hôn nhân và gia đình khi điều chỉnh đã dựa
trên các nguyên tắc tự nguyện – tiến bộ. Thông qua các điều luật ta có thể
thấy rằng hệ thống pháp luật Nhà nước ta đang ngày càng khẳng định quyền
bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình đặc biệt là khẳng định quyền
bình đẳng giữa vợ chồng về mọi mặt trong gia đình.
Tuy nhiên, “bình đẳng về mặt pháp luật vẫn chưa phải là bình đẳng trong
đời sống”. Vì vậy, để làm rõ thực trạng vấn đề bình đẳng giới trong gia đình,
bình đẳng giữa các thành viên, quyền bình đẳng giữa vợ chồng cũng như tìm
ra các giải pháp thiệt thực để quyền bình đẳng được thực hiện ngày càng đảm


bảo và hiệu quả chúng em đã chọn đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình”

- Nhóm 9 -

- Trang 1 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN & CƠ SỞ PHÁP LÍ
1.1. Cơ sở lí luận:
1.1.1. Gia đình:
Theo khoản 2, điều 3, luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định
của Luật này.”
1.1.2. Bình đẳng giới:
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình
và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Bình đẳng giới là bình
đẳng về pháp luật, về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm bình đẳng trong việc
quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội (bình đẳng trong
tiếng nói).
1.1.3. Bình đẳng giới trong gia đình:
Bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ và chồng, con trai và con gái, các
thành viên nam và nữ trong gia đình có vị trí, vai trò ngang nhau, quyền được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của gia đình như
nhau, quyền được thụ hưởng về thành quả phát triển của gia đình và xã hội ngang
nhau, quyền được tham gia quyết định các vấn đề của bản thân và của gia đình.

Trên cơ sở các quyền đó, các thành viên trong gia đình được tự do tham gia vào các
công việc gia đình và ngoài xã hội tùy theo khả năng và sở thích của mình, được tự
do lựa chọn những vai trò giống nhau hoặc khác nhau trong gia đình tùy theo mục
đích của mỗi người, được tự do lựa chọn cách thức thụ hưởng các thành quả tùy
theo sở thích của mỗi người. Tuy nhiên, bình đẳng không có nghĩa là bằng nhau, do
đặc điểm sinh học khác nhau và tính chất vai trò khác nhau mà sẽ có những sự bình
đẳng thực chất phù hợp với từng cá nhân trong gia đình.
1.2.

Cơ sở pháp lí:
Hiện nay quyền bình đẳng trong gia đình được quy định trong rất nhiều các
văn bản pháp luật như Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới,
Luật phòng chống bạo lực gia đình, các công ước quốc tế như công ước về xoá bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ
em…Qua đó thể hiện quyền bình đẳng giữa vợ chồng, giữa thành viên nam và
thành viên nữ…
1.2.1. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng:

Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được quy định ở rất nhiều các văn bản
pháp luật:
+ Điều 40 Bộ luật dân sự năm 2005: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau
xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững”.

- Nhóm 9 -

- Trang 2 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

+ Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Vợ, chồng bình đẳng với
nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực
hiện các quyền, nghĩa vụ công dân đươc quy định trong Hiến pháp, luật nàu và các
luật khác có liên quan”.
+ Khoản 1, Điều 18 Luật bình đẳng giới năm 2006: “Vợ, chồng bình đẳng với
nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia
đình”.
Và các văn bản Pháp luật khác.
Qua đó cho ta thấy rõ được sự bình đẳng về mọi mặt trong gia đình.
a.

Bình đẳng trong quan hệ nhân thân:

* Bình đẳng về việc thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình:
Theo khoản 3, Điều 18 luật Bình đẳng giới năm 2006: “Vợ, chồng bình đẳng
với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch
hoá gia đình phù hợp…”.
Hiện nay nhà nước ta đang thực hiện cuộc vận động “dân số kế hoạch hóa
gia đình” nhằm vận động các cặp vợ chồng chỉ sinh ít con và giãn khoảng cách giữa
mỗi lần sinh nhằm giảm bớt tỷ lệ gia tăng dân số. Vì vậy, sinh đẻ có kế hoạch là
nghĩa vụ chung của vợ chồng, vợ chồng phải cùng nhau, tạo điều kiện cho nhau để
thực hiện tốt nghĩa vụ này.
* Bình đẳng trong việc nuôi dạy con cái:
Theo khoản 1 điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cha mẹ có nghĩa vụ
“Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con
phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của
gia đình, công dân có ích cho xã hội.”
Theo khoản 1 điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Cha, mẹ có nghĩa vụ

và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình.”
Do vậy, vợ chồng đều bình đẳng với nhau trong việc trong nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con, tạo điều kiện cho con sống trong môi trường lành mạnh.
Cha mẹ phải yêu thương con, tôn trọng ý kiến của con, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của con, quan tâm và chăm lo cho sự phát triển của con về thể chất, trí tuệ và
đạo đức để con trở thành người con hiếu thảo của gia đình và là công dân có ích
cho xã hội. Nuôi dạy con không chỉ là nghĩa vụ của vợ chồng đối với con mà còn là
nghĩa vụ của họ trước Nhà nước trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục thế hệ
trẻ - tương lai của đất nước. Nên vợ chồng cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật khi họ không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con.
* Bình đẳng trong việc lựa chọn nơi cư trú:
Theo điều 20 luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Việc lựa chọn nơi cư trú của
vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa
giới hành chính”

- Nhóm 9 -

- Trang 3 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Theo đó, việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng không bị ràng buộc theo
phong tục tập quán, địa giới hành chính, vợ chồng lựa chọn nơi cư trú hoàn toàn
dựa và hoàn cảnh thực tế, tính chất hoạt động nghề nghiệp, khả năng tài chính…
Nếu vợ chồng có nơi ở chung sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nghĩa vụ

chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau nuôi dạy con. Nếu vì lí do nghề nghiệp mà
vợ chồng không thể có nơi cư trú chung thì mỗi người có quyền tự lựa chọn nơi cư
trú của mình. Việc có nơi cư trú chung hay riêng không ảnh hưởng tới việc vợ chồng
thực hiện các nghĩa vụ đối với nhau, với con cái và việc chăm lo xây dựng gia đình.
* Bình đẳng trong tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng:
Theo điều 24 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp
luật.”
Theo điều 22 luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau”.
Đây là môt quy định nhằm xóa bỏ hiện tượng khi kết hôn một bên vợ hoặc
chồng ngăn cản sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo của bên kia làm ảnh hưởng không chỉ
quyền của công dân được pháp luật quy định mà còn ảnh hưởng đến hạnh phúc gia
đình. Không ít các trường hợp, vợ chồng mâu thuẫn dẫn tới li hôn vì lí do bất đồng
về tín ngưỡng, tôn giáo.
* Bình đẳng trong việc lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các hoạt
động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội:
Theo điều 23 luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ
tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa,
chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.”
Hiến pháp của Nhà nước ta thừa nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân trong đó có quyền có nghề nghiệp, quyền than gia vào các hoạt động
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Với tư cách là công dân thì vợ, chồng đều được
hưởng quyền công dân đó. Như vậy, vợ chồng có thể cùng bàn bạc, giúp đỡ và tạo
điều kiện cho nhau trong việc chọn nghề nghiệp, học tập hoặc tham gia các hoạt
động khác theo nguyện vọng và khae năng của mỗi người và phù hợp với quy định
của pháp luật trên nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia
đình. Quy định này không chỉ khẳng định quyền bình đẳng giữa vợ chồng mà còn
đảm bảo khuyến khích vợ chồng phát huy khả năng của bản thân để cống hiến cho
sự nghiệp phát triển chung của đất nước.

* Bình đẳng trong việc đại diện nhau trước pháp luật:
Theo khoản 2 điều 24 luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Vợ, chồng có thể ủy
quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật
này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ
chồng.”
Quy định này đã tạo điều kiện cho vợ chồng có thể ủy quyền nhau xác lập,
thực hiện và chấm dứt các giao dịch dân sự vì lí do nào đó mà một bên không thể
trực tiếp tham gia giao dịch khi giao dịch đó đòi hỏi phải có sự đồng ý của của vợ
hoặc chồng.
Vợ chồng cũng có thể đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi
dân dự mà bên kia có đủ điều kiện làm người dám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế
- Nhóm 9 -

- Trang 4 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

năng lực hành vi dân sự mà bên kia được tòa án chỉ định làm người đại diện theo
pháp luật của người đó. (Khoản 3 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014).
* Bình đẳng trong việc yêu cầu li hôn:
Theo khoản 1 điều 51 luật Hôn nhân và gia đình 2014: “ Vợ, chồng hoặc cả
hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”.
Quyền yêu cầu ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật là
quyền nhân thân gắn liền vợ chồng, chỉ có vợ hoặc chồng hay cả hai vợ chồng mới
có quyền yêu cầu ly hôn và cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu ly hôn là Tòa
án nhân dân. Trong quá trình hôn nhân, khi tình cảm vợ chồng không còn dẫn đến
tình trạng vợ chồng không thể chung sống thì cả vợ và chồng đều có quyền yêu cầu
tòa án cho họ ly hôn, chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật.

b.

Bình đẳng trong quan hệ tài sản:

Theo khoản 1 Điều 29 luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Vợ, chồng bình đẳng
với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”.
Tài sản là nguồn lực kinh tế trong đời sống vợ chồng, là cơ sở kinh tế bảo
đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội. Công nhận và bảo vệ quyền
bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng bằng pháp luật là điều kiện tiên
quyết để xác lập quyền bình đẳng về kinh tế giữa vợ và chồng trong thực tiễn và
nhằm bảo vệ khối tài sản chung, tránh những trường hợp một trong hai vợ chồng có
hành vi phá tàn tài sản chung, hủy hoài tài sản chung hoặc tự mình thực hiện những
giao dịch dân sự làm tổn thất khối tài sản chung, ảnh hưởng đến những thành viên
còn lại trong gia đình.
1.2.2. Bình đẳng giữa con trai và con gái:

Theo khoản 4, điều 18, luật Bình đẳng giới năm 2006 : “Con trai, con gái được
gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui
chơi, giải trí và phát triển”.
Theo khoản 4, Điều 69, luật Hôn nhân và gia đình 2014: “ Không được phân
biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ…”
Theo Điều 4, luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004: “Trẻ em, không
phân biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi, con riêng,
con chung; không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội,
chính kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục, được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật.”
Như vậy bình đẳng giới giữa con trai và con gái trong gia đình được hiểu là
trong gia đình giữa con trai và con gái bình đẳng trong việc, được bố mẹ chăm sóc
bảo vệ; có quyền được sống, bình đẳng về quyền được học tập, bình đẳng trong

việc thực hiện các công việc trong gia đình, bình đẳng về quyền được nghỉ ngơi,
được vui chơi và tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí phù hợp với lứa tuổi. Các
thành viên khác trong gia đình không được có hành vi phân biệt đối xử giữa các
con.
Việc thực hiện vấn đề bình đẳng giới trong gia đình sẽ tác động trực tiếp đến
trẻ vì vậy sự quan tâm, chăm sóc giáo dục không phân biệt đối xử giữa con trai và

- Nhóm 9 -

- Trang 5 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

con gái trong gia đình và xã hội sẽ giúp thế hệ trẻ có hành trang vững chắc bước
vào đời.
1.2.3. Bình đẳng giữa các thành viên nam và nữ trong gia đình:
Chương VI luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền và nghĩa
vụ của các thành viên trong gia đình cho ta thấy rõ được sự bình đẳng giữa các
thành viên trong gia đình, giữa ông bà và các cháu; giữa anh, chị, em với nhau và
giữa cô, dì, chú, bác và các cháu.
Từ đó ta thấy rằng tất cả mọi thành viên trong gia đình, bất kì là ai đều có
quyền bình đẳng với nhau về mọi mặt, không ai bị phân biệt đối xử.

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH
Ở NƯỚC TA
2.1. Quá trình hình thành và phát triển vấn đề bình đẳng giới trong gia đình ở
nước ta:
2.1.1. Thời kì trước cách mạng tháng Tám năm 1945:

Ở nước ta trước cách mạng tháng Tám năm 1945 vấn đề bình đẳng giới trong
gia đình đã dần hình thành, tuy chưa nhiều nhưng cũng đã được đề cập, quan tâm
điều chỉnh ít nhiều. Trong đó, nổi bật là những quy định của bộ luật Hồng Đức. Bộ
luật đã có những điều luật quan tâm đến quyền lợi cũng như sự bình đẳng giữa nam
giới và nữ giới trong gia đình như: con gái có quyền hưởng di sản thừa kế của cha
mẹ như con trai, vợ có thể kiện chồng và bỏ chồng nếu bị chổng bỏ lửng 5 tháng,
con gái thấy vị hôn phu có ác tật thì có thể kêu quan trả đồ sính lễ…Những quy định
đó đã cho thấy vấn đề bình đẳng giới trong gia đình đã được đề cập đến.
Sau khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930) vấn đề bình đẳng giới
trong gia đình đã được Đảng hết sức quan tâm. Có thể nói vấn đề bình đẳng trong
gia đình ở Việt Nam được quan tâm từ khá sớm. Mặc dù thế nhưng vì ảnh hưởng
của chế độ phong kiến, tư tưởng Nho giáo nên quyền gia trưởng của người chồng
trong gia đình vẫn được bảo vệ mà không quan tâm, bảo vệ quyền lợi của người
mẹ. Trong gia đình, người vợ vẫn phải phụ thuộc vào chồng và phục tùng chồng.
Thuyết “Tam tòng, tứ đức” và quan niệm “thuyền theo lái, gái theo chồng” đã phản
ảnh một cách đầy đủ và rõ nét sự bất bình đẳng đó.
Quan hệ vợ chồng trong gia đình lúc này là quan hệ phục tùng, bất bình đẳng.
2.1.2. Thời kì sau cách mạng tháng Tám năm 1945 tới nay:
- Nhóm 9 -

- Trang 6 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã
khẳng định quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Điều 9 luật Hiến pháp 1946 “Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đây là cơ sở lí luận đầu tiên khẳng
định quyền bình đẳng giữa nam và nữ và cũng chính là cơ sở pháp lí xác nhận

quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái.
Tiếp đó, trong các lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, việc bảo đảm bình đẳng
giới đều được quy định rõ ràng. Khoản 1 và Khoản 3 Điều 26 Hiến pháp năm 2013
quy định “công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo
đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Bên
cạnh đó, Luật Bình đẳng giới (năm 2006), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm
2007) cũng đã được triển khai thực hiện. Nhiều bộ luật khác có liên quan mật thiết
đến quyền lợi của nam giới và nữ giới như Luật Phòng, chống mua bán người (năm
2012), Bộ luật Lao động (năm 2012), Luật Việc làm (năm 2013),… đều được lồng
ghép vấn đề giới tính nhằm nâng cao địa vị của người phụ nữ trong thời đại mới, họ
ngày càng bình đẳng về mọi phương diện với đàn ông.
Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, bộ máy quốc gia về
bình đẳng giới cũng được củng cố. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao
nhiệm vụ là cơ quan chủ trì giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về bình đẳng giới trên phạm vi toàn quốc. Để thực hiện chức năng này, Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội thành lập Vụ Bình đẳng giới. Các bộ, ngành khác phân
công đầu mối tham mưu công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Ngoài ra, Ủy
ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam - một tổ chức phối hợp liên ngành
thành lập từ năm 1993, vẫn tiếp tục được kiện toàn và nâng cao chất lượng, gồm
các thành viên là đại diện của nhiều bộ, ngành và cơ quan trung ương, giúp phối
hợp hoạt động có hiệu quả từ các ban, ngành vì mục tiêu bình đẳng giới.
Vấn đề bình đẳng giới đang được nhà nước ta ngày càng quan tâm và chú
trọng. Việc bất bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội và trong gia đình đang từng
bước được xóa bỏ. Nước ta đang ngày càng hoàn thiện vấn đề bình đẳng và đã đạt
được nhiều thành tựu cơ bản và quan trọng.
2.2. Vai trò của bình đẳng giới trong gia đình:
Với tư cách là một thiết chế của xã hội, gia đình là một xã hội thu nhỏ, gia đình
phản ánh đầy đủ các vấn đề của xã hội, trong đó nổi bật nhất là vấn đề bất bình
đẳng giới. vì vậy, phụ nữ bình đẳng với nam giới không chỉ góp sức cho xã hội giàu
mạnh, văn minh mà trong gia đình là ngọn nguồn của hạnh phúc, đã sản sinh và

nuôi dưỡng thế hệ trẻ tốt đẹp. Bình đẳng nam nữ là nền tảng văn hoá của con
người, của gia đình và hạnh phúc. Vai trò của phụ nữ được phát huy bình đẳng
trong xã hội và trong gia đình, mang một ý nghĩa lớn đối với sự giữ gìn và phát huy
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và truyền thống văn hoá của dân tộc.
Văn hoá gia đình là nền tảng của văn hoá xã hội, ở đó vai trò của người phụ nữ với
chức năng sàng lọc và giữ gìn văn hoá dân tộc mang ý nghĩa đặc biệt.
Người mẹ Việt Nam thời đại hôm nay đứng trước sứ mệnh sàng lọc và truyền
nối để bảo vệ nền văn hoá dân tộc, trước tiên gia đình mình phải là người có đức,
có trí, có lực. Họ phải được bình đẳng thì mới đạt được những chuẩn mực mang nội
dung thời đại để từ đó xây dựng hạnh phúc gia đình, nuôi dưỡng con cái trở thành
con người mới. Trong gia đình, vợ chồng thương yêu, tôn trọng lẫn nhau thì con cái
mới được chăm sóc đầy đủ và cảm nhận được sự ấm êm, hạnh phúc, luôn luôn là

- Nhóm 9 -

- Trang 7 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

điển tựa cho con người vượt qua mọi thử thách và đây cũng là nên tảng cho sự bình
đẳng giới ngày càng hoàn thiện.
Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong mọi thời đại, đặc biệt
là ở cuộc sống hiện đại hóa công nghiệp hóa hiện nay. Bình đẳng giới trong gia đình
là môi trường lành mạnh để con người, đặc biệt là trẻ em được đối xử bình đẳng,
được giáo dục về quyền bình đẳng, được hành động bình đẳng; bình đẳng giới
trong gia đình là tiền đề quan trọng cho sự thành công trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục trẻ em; bình đẳng giới trong gia đình góp phần tăng chất lượng
cuộc sống của các thành viên gia đình, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước; và

bình đẳng giới trong gia đình góp phần giải phóng phụ nữ và góp phần xây dựng thể
chế gia đình bền vững.
2.3. Thực trạng vấn đề bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam:
2.3.1. Thành tựu:
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều bước đột phá về
nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một
trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua.
Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện
khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.
Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình là một trong các mục tiêu quan
trọng đã và đang được thúc đẩy thực hiện ở Việt Nam. Một trong những điểm dễ
nhận biết nhất trong kết quả thực hiện bình đẳng giới, đó chính là việc phân công,
sắp xếp lại công việc trong gia đình một cách hài hòa, hợp lý giữa người vợ và
người chồng. Trong gia đình hiện nay, người chồng đã biết chia sẻ với vợ về công
việc nhà, chăm sóc con; người vợ cũng đã chủ động chia sẻ với chồng gánh nặng
kinh tế gia đình.
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 đã đề ra mục tiêu:
“Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự
tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các
nguồn lực kinh tế, thị trường lao động”. Năm 2012, lực lượng lao động cả nước
khoảng 52,6 triệu người, trong đó lao động nữ chiếm 48,7% và tỷ lệ phụ nữ tham gia
điều hành, quản lý doanh nghiệp đạt hơn 20% vào loại tỷ lệ khá cao so với khu vực
và thế giới. Như vậy, khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động đã được cải
thiện, phụ nữ ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong gia đình và xã
hội. Hiện nay,
Như vậy, trong gia đình, người phụ nữ đã được tôn trọng và được tham gia
nhiều hơn vào các quyết định quan trọng vào hoạt động sản xuất nâng cao mức thu
nhập về kinh tế. Phụ nữ có nhiều điều kiện hơn để tham gia học tập và các hoạt
động xã hội, đặc biệt là phụ nữ ở thành thị. Phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực

trên cơ sở giới đang nhận được sự quan tâm của xã hội. Nhiều cơ quan, tổ chức xã
hội và các chương trình dự án phát triển đã triển khai các hoạt động tuyên truyền,
phòng, chống và hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình.
Công tác tư vấn, hỗ trợ hôn nhân, gia đình được đẩy mạnh. Nhiều mô hình
được duy trì và nhân rộng, thu hút các nhóm phụ nữ tham gia, trong đó nổi bật là mô
hình câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ gia đình không có tệ nạn
xã hội, nhóm tín dụng tiết kiệm lồng ghép truyền thông dân số/sức khỏe sinh sản
- Nhóm 9 -

- Trang 8 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

gắn với bình đẳng giới. Các mô hình mới trong tư vấn, hỗ trợ hôn nhân gia đình, hôn
nhân có yếu tố nước ngoài, phòng, chống bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ - trẻ
em và các tệ nạn xã hội khác đã được triển khai thực hiện bước đầu đáp ứng nhu
cầu của các nhóm phụ nữ. Các mô hình nhóm trẻ gia đình, dịch vụ đưa đón con đi
học, chăm sóc người cao tuổi, dịch vụ giúp việc gia đình đã được một số cấp hội thí
điểm, góp phần hỗ trợ phụ nữ giảm bớt công việc gia đình để có điều kiện tham gia
công tác xã hội nhiều hơn.
Trong gia đình, vấn đề bình đẳng giữa các con cũng đang ngày được xóa bỏ.
Nhà nước cũng đã ban hành các chính sách nhằm đảm bảo quyền bình đẳng cho
các em từ khi còn nhỏ. Điển hình là Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2004. Việc đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường cũng ngày
càng được nâng cao, giúp cho trẻ em nhận thức được những vấn đề giới và bình
đẳng giới một cách cơ bản và có hệ thống. Các hành động cụ thể trên sẽ tác động
tích cực đến nhận thức, hành vi, cơ hội của các em, điều đó góp phần rút ngắn
khoảng cách giới, tiến tới bình đẳng giới.

Ngoài ra, trong gia đình việc bình đẳng giữa các thành viên nam và thành viên
nữ như ông bà, các cô, dì, chú, bác…cũng ngày càng được chú trọng. Hệ thống
pháp luật đã có các điều luật cụ thể nhằm bảo về quyền và lợi ích cho mọi thành
viên trong gia đình, tránh sự mất bình đẳng gây rối loạn trật tự xã hội và ảnh hưởng
xấu tới nhận thức của các thế hệ sau.
Những kết quả quan trọng trên đây chính là tiền đề để chúng ta tiếp tục thực
hiện tốt việc bình đẳng giới ở Việt Nam trong 10 năm tới.
2.3.2. Hạn chế:
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, bất bình đẳng giới trên các lĩnh vực
vẫn còn tồn tại mà sự thiệt thòi chủ yếu vẫn thuộc về phụ nữ. Như trong gia đình
phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là chủ yếu; vẫn còn tư tưởng trọng
nam khinh nữ trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch hóa
gia đình; tình trạng bạo lực trong gia đình vẫn còn tồn tại và xảy ra ở một số nơi như
phụ nữ ở vùng cao. Đối với những gia đình ở khu vực nông thôn, sự chuyển dịch lao
động từ nông thôn ra thành thị đã làm cho những người phụ nữ ở lại địa phương
thêm gánh nặng, vừa đảm nhận lao động sản xuất vừa lo toan việc nội trợ. Nếu
người đàn ông phải lao động, làm việc 8 tiếng trên ngày thì người phụ nữ có thể đến
10 tiếng trên ngày hoặc hơn.
Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng. Theo số liệu thống
kê của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch trong 6 tháng đầu năm 2013 cả nước đã có
13.562 vụ bạo hành gia đình. Nhận thức về pháp luật của cán bộ và người dân về
phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Tại không ít địa phương, các cấp chính
quyền, cộng đồng vẫn coi bạo lực gia đình là chuyện riêng tư của mỗi gia đình.
Trong nhiều gia đình, giữa các thành viên nam và nữ vẫn còn mang nặng tư
tưởng “trong nam khinh nữ”. Các bé trai vẫn được ưu tiên về mọi mặt so với các bé
gái về học tập, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí.
Về mặt luật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể chế hóa quy định của pháp
luật liên quan đến bình đẳng giới chậm được ban hành. Việc triển khai quy định lồng
ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá
việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các dự thảo văn

bản quy phạm pháp luật đạt kết quả chưa cao. Việc tuyên truyền phổ biến việc bình
đẳng giới trong gia đình dù đã dược đẩy mạnh nhưng còn một số địa phương chưa

- Nhóm 9 -

- Trang 9 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chú trọng, các hoạt động tuyên tuyền giáo dục pháp luật còn nhiều hạn chế và yếu
kém.
2.3.3. Nguyên nhân:
Nhận thức về pháp luật của một bộ phận xã hội hiểu không đúng về bình đẳng
và bình đẳng giới, còn quan niệm cho rằng bình đẳng giới là ưu tiên cho phụ nữ và
việc thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của
phụ nữ và của Hội phụ nữ VN và cho rằng vấn đề bình đẳng giới trong gia đình là
chuyện riêng của từng gia đình. Nhận thức mang tính định kiến giới còn tồn tại trong
xã hội, nhất là lãnh đạo, cán bộ, công chức và nam giới…
Do vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến gia trưởng cùng sự biến đổi
chậm chạp của ý thức xã hội, các thiên kiến về giới bám rễ lâu đời trong một số tầng
lớp nhân dân, do việc xem trọng gia đình của người phụ nữ và hầu như nam giới
chưa thay đổi quan niệm trụ cột của mình với gia đình. Chính họ đã tự đặt cho mình
trọng trách lớn, phụ nữ còn tự ti, an phận, cam chịu và luôn nghĩ mình là người hỗ
trợ cho vai trò trụ cột của chồng. Phong tục, tập quán lạc hậu theo kiểu “xuất giá
tòng phu”, “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”…
còn tồn tại khá phổ biến ở nhiều nơi là một trong những nguyên nhân cản trở mục
tiêu bình đẳng giới. Đối với những gia đình nông thôn, sự chuyển dịch nhân công lao
động từ nông thôn ra thành thị (thường diễn ra với nam) đã làm cho những người

phụ nữ ở lại địa phương thêm gánh nặng: đảm nhận cả lao động sản xuất lẫn việc
nội trợ . Ở khu vực vùng sâu, vùng xa còn nặng nề quan niệm con trai hơn con gái,
công việc gia đình là trách nhiệm của riêng phụ nữ, định hướng nghề nghiệp vẫn
theo hướng truyền thống…nên việc đầu tư cho trẻ em gái trong học tập không được
chú ý và quan tâm nhiều như với trẻ em trai. Mặt khác, trình độ học vấn cũng góp
phần quan trọng trong việc tạo quyền quyết định cho nam hay nữ.
Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ hoạt động về bình đẳng giới thiếu về số lượng,
hạn chế về kiến thức giới, bình đẳng giới và kỹ năng lồng ghép giới. Xuất phát từ
nhận thức và hiểu biết về bình đẳng giới chưa đồng đều, nên việc đầu tư nguồn
nhân lực cho hoạt động bình đẳng giới chưa được coi trọng, thiếu cán bộ lãnh đạo,
quản lý và cán bộ, công chức chuyên môn có nhạy cảm giới và trách nhiệm giới, là
nguyên nhân dẫn đến việc thiếu thông tin, dữ liệu tách biệt theo giới tính hoặc có ít,
không đầy đủ, không đồng bộ, không toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; thiếu các
hướng dẫn kỹ thuật lồng ghép giới để bảo đảm bình đẳng giới trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình; nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử
quy định trong hiến pháp chưa được cụ thể hoá toàn diện và triệt để trong các văn
bản quy phạm pháp luật hiện hành; không quan tâm đến vai trò của nam giới trong
việc bảo đảm bình đẳng giới, mặc nhiên coi bình đẳng giới là vấn đề của riêng phụ
nữ. Chế tài xử phạt về vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình còn chưa nghiêm
khắc, không mang tính giáo dục cao.

CHƯƠNG III – BIỆN PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG VẤN
ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH
3.1. Đối với gia đình:
Gia đình – pháo đài kiên cố nhất của sự bất bình đẳng nam nữ và cũng chính
là môi trường tuyên truyền, giáo dục tốt nhất về bình đẳng giới. Gia đình đóng vai trò
cơ bản trong việc định hình mối quan hệ giới ngay từ những buổi đầu của cuộc sống
con người và truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình là nơi xã hội

- Nhóm 9 -


- Trang 10 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hóa vấn đề giới, truyền lại các kiến thức và kỹ năng về giới. Do vậy, nhận thức về
bình đẳng giới của các thế hệ đi trước trong gia đình như ông bà, cha mẹ… tác
động rất lớn đến nhận thức của các thế hệ kế tiếp. Trong gia đình, con người học
những bài học đầu tiên về tôn ti trật tự, về sự tuân thủ, sự phân biệt đối xử. Con trai
học cách quyết đoán và thống trị, con gái học sự phục tùng. Gia đình chính là nơi
tạo ra tôn ti trật tự. Sự nhận thức không đúng đắn về giới và bình đẳng giới sẽ tạo ra
những tôn ti trật tự trong đó làm giảm vị thế của nữ giới, dẫn đến bất bình đẳng giới
ngay trong gia đình.
Vai trò tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới của gia đình không chỉ thể
hiện trong việc truyền dạy của ông bà, cha mẹ và các thành viên khác của gia đình
mà còn thể hiện trong việc làm gương của cha mẹ, ông bà và các thành viên khác
trong gia đình. Cách đối xử của cha mẹ, ông bà với nhau phải thể hiện sự bình đẳng
giữa nam giới và nữ giới, bởi hành vi của cha mẹ, ông bà sẽ là nguyên mẫu cho con
cháu. Khi trong gia đình cha mẹ, ông bà tôn trọng nhau, chia sẻ công việc gia đình,
cùng nhau bàn bạc và giải quyết các vấn đề… sẽ là tấm gương sáng cho con cháu
học tập. Ngược lại, các hành vi thể hiện sự phân biệt đối xử hoặc bạo lực gia đình
trên cơ sở giới, hình phạt cho các hành vi không đúng đắn, các mẫu người đàn ông
và phụ nữ trong gia đình… sẽ tác động tiêu cực đến hành vi và nhận thức về bình
đẳng giới đối với thế hệ trẻ.
Như vậy, để có được bình đẳng giới, trước hết trong gia đình cha mẹ, ông bà
cần phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới vì chính họ là tác nhân quan trọng
nhất trong trong việc tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho thế hệ trẻ. Khi các
thành viên gia đình nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới thì trẻ em trai và trẻ em

gái ngay từ khi chào đời đã được cha mẹ, những người lớn tuổi đối xử bình đẳng.
Khi lớn lên, được chứng kiến quyền bình đẳng giữa cha mẹ, ông bà; được hưởng
quyền và thực hiện trách nhiệm bình đẳng với nhau. Gia đình mà trong đó nam giới
và nữ giới được bình đẳng với nhau sẽ tiếp tục là môi trường tuyên truyền, giáo dục
hiệu quả nhất về bình đẳng giới.
3.2. Đối với xã hội:
Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình giúp con cái mỗi gia đình được nuôi
dưỡng, chăm sóc chu đáo, học hành tốt, lớn lên trở thành những công dân tốt của
xã hội. Sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với con cái là môi trường quan trọng
giúp mỗi người hòa nhập vào cộng đồng và xã hội, thích ứng với đòi hỏi về nghề
nghiệp, đạo đức, vốn sống của mỗi người và giúp con cái tránh những tệ nạn xã hội
nảy sinh. Song song với đó, vai trò của Đảng và Nhà nước trong vấn đề bình đẳng
giới cũng rất quan trọng, cần xem việc thực hiện bình đẳng giới là một công việc lâu
dài và cần sự phối hợp đồng bộ của toàn xã hội. Trong những năm qua, Đảng và
Nhà nước Việt Nam thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ
khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn. Để thực hiện tốt vấn đề bình đẳng
giới trong gia đình hiện nay, thiết nghĩ cần thực hiện những giải pháp như sau:
Thứ nhất: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các vấn đề giới, bình
đẳng giới trong gia đình được quy định trong các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Xem việc thực hiện bình đẳng giới là một công việc lâu dài
và cần sự phối hợp đồng bộ của toàn xã hội. Từ đó mỗi người ý thức tốt về vấn đề
bình đẳng giới trong gia đình. Trách nhiệm bình đẳng giới không chỉ là trách nhiệm
của mỗi cá nhân, mà là trách nhiệm của mỗi gia đình và toàn xã hội; là cơ sở quan
trọng để xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”.
- Nhóm 9 -

- Trang 11 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Hai là: Tạo điều kiện thuận lợi để mỗi phụ nữ ý thức và tự phấn đấu vươn lên,
tự giải phóng mình; không ngừng cố gắng học tập nâng cao kiến thức để khẳng định
vai trò, ví trí của mình trong gia đình và ngoài xã hội.
Ba là: Đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường (đặc biệt
là các trường THPT), giúp cho thanh, thiếu niên nhận thức được những vấn đề giới
và bình đẳng giới một cách cơ bản và có hệ thống; giúp các em ý thức được trách
nhiệm trong việc xây dựng gia đình sau này.
Bốn là: Nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trò gia đình và bình đẳng
giới. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý về bình đẳng giới. Kiên quyết đấu tranh
loại bỏ các hành vi bạo lực gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi thành viên
trong gia đình được bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau thì xã hội sẽ công bằng và văn
minh.

KẾT LUẬN
Nhìn chung, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay có tiến bộ vượt bậc so với trước. Vấn đề bình đẳng giới đặc
biệt là bình đẳng giới trong gia đình đã được Đảng, Nhà nước ta đánh giá là có vai
trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Do đó, bình đẳng giới trong
gia đình trở thành trung tâm của phát triển, là một mục tiêu phát triển, là một yếu tố
để nâng cao khả năng tăng trưởng của quốc gia, xóa đói giảm nghèo và quản lý nhà
nước có hiệu quả. Thiên vị và bất bình đẳng giới gây tổn hại đến thế hệ tương lai và

- Nhóm 9 -

- Trang 12 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

làm cho sự chênh lệch giữa nam và nữ trong gia đình và ngoài xã hội trở nên dai
dẳng. Bất bình đẳng giới trong gia đình ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cá
nhân và của đất nước.
Theo các kết quả nghiên cứu, ba yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến bình
đẳng giới là: Các thể chế (gồm các chuẩn mực xã hội, luật pháp và thị trường); gia
đình; nền kinh tế. Trong ba yếu tố đó thì yếu tố gia đình tác động trực tiếp và thường
xuyên nhất. Vì vậy, gia đình là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc cách mạng về
giới. Con đường nhận thức và hành động vì sự bình đẳng giới phải bắt đầu từ gia
đình và ngay trong gia đình. Bất bình đẳng giới là nguồn gốc cơ bản về lịch sử, xã
hội của những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Những nhu cầu,
lợi ích cá nhân không được đáp ứng trong hôn nhân dần trở thành xung đột và kéo
theo hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và gia đình. Do vậy, thực hiện bình đẳng giới
trong gia đình là giải phóng phụ nữ - giải phóng một nửa của xã hội và góp phần xây
dựng thể chế gia đình bền vững. Bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong
gia đình nói riêng không phải chỉ vì phụ nữ, cũng không phải chỉ là vấn đề của phụ
nữ mà còn là vì nam giới, là vấn đề của cả nam giới. Để có sự bình đẳng giới một
cách thiết thực, đòi hỏi phải có sự tham gia của cả nam giới và nữ giới.
Hiện nay, phụ nữ và nam giới đã có sự bình đẳng về thực chất trong gia đình
trên các lĩnh vực cuộc sống, tuy nhiên, việc thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và
nữ còn nhiều hạn chế Phấn đấu để khắc phục những khoảng cách giới là nhiệm vụ
quan trọng nhằm bảo đảm lợi ích của từng giới trong việc thực thi quyền con người
ở Việt Nam như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi vấn đề bình đẳng nam nữ là “một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì trọng trai khinh gái là một thói quen
mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi
tầng lớp xã hội... Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và
khó nhưng nhất định thành công”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Luật Hôn nhân và gia đình” (Nhà xuất bản CAND năm 2013).

2. Hiến pháp Việt Nam năm 1946.

- Nhóm 9 -

- Trang 13 -


“Bình đẳng giới trong gia đình”
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

3.
4.
5.
6.
7.

Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
Luật Dân sự 2005.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2013.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
Luật Bình đẳng giới năm 2006
các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan.

8. Tạp chí Cộng sản ngày 4//2014 : “Bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt

Nam trong giai đoạn hiện nay”.
9. Tạp chí Dân chủ và pháp luật ngày 1/7/2013: “Vai trò của gia đình trong
nhận thức và thực hiện bình đẳng giới”.
10. Các tờ báo: Báo An Ninh, Báo Dân trí, Báo Ấp Bắc, Báo Vnexpress...


- Nhóm 9 -

- Trang 14 -



×