1
Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu
số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay
Nguyễn Lệ Thu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Triết học
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học; Mã số: 60 22 85
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Thạch
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Khái quát làm rõ một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới và bình đẳng
giới trong gia đình. Làm rõ thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với bình đẳng
giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay, và đề xuất
các giải pháp nhằm tăng cường bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc.
Keywords. Chủ nghĩa xã hội khoa học; Bình đẳng giới; Gia đình; Dân tộc thiểu số;
Vùng Đông Bắc
Content.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của các cuộc đấu
tranh nhằm xóa bỏ những sự bất bình đẳng xã hội, trong đó có bất bình đẳng giới. Bình
đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân loại đã theo đuổi hàng
nhiều thế kỷ.
Ngày nay khi nói đến phát triển, người ta không chỉ đề cập đến chỉ số phát triển
con người HDI mà còn xem xét đến chỉ số phát triển liên quan đến giới GDI (Gender
Devevelopment Index). Những nghiên cứu thực tế cho thấy đầu tư cho phụ nữ mang lại
hiệu quả, lợi ích cao hơn bất kỳ sự đầu tư nào ở các nước đang phát triển. Hay nâng cao
khả năng và tạo cơ hội lựa chọn cho phụ nữ không chỉ đem lại lợi ích cho họ mà còn là
cách chắc chắn nhất để đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và phát triển chung [68].
Những minh chứng đó chứng tỏ bình đẳng giới đã trở thành một trong những vấn đề
của phát triển mang tính toàn cầu.
Theo báo cáo của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đến cuối
thế kỷ XX, các quốc gia đều đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển
con người, nhưng vẫn còn có sự khác biệt trong các chỉ số phát triển giữa nam và
2
nữ. Trong đó, người ta nhận thấy rằng sự phát triển năng lực của phụ nữ ở tất cả
các quốc gia còn thấp hơn nam giới, đặc biệt tại các quốc gia chậm phát triển.
Quan sát thực trạng bình đẳng giới cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội ở các
quốc gia, UNDP cũng thấy rằng bất bình đẳng giới thực sự vừa là một trong những
nguyên nhân cơ bản của tình trạng đói nghèo, vừa là rào cản lớn đối với sự phát triển
bền vững và tác động tiêu cực không chỉ đến phụ nữ mà đến tất cả các thành viên trong
xã hội.
Trước thực tế đó, bình đẳng giới đã trở thành một trong tám mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ (MDG), được Đại hội đồng Liên hợp quốc đề ra vào đầu thiên niên kỷ
mới.
Ở nước ta, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm
ngay từ buổi đầu cách mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và Nhà
nước luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Việc chăm
lo phát triển nguồn lực con người là một nhân tố quyết định thành công của công cuộc
đổi mới, trong đó các tiêu chí phát triển được hướng vào cả nam và nữ.
Vùng Đông Bắc nước ta bao gồm 11 tỉnh, là địa bàn tụ cư của nhiều dân tộc
thiểu số. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng với hội nhập kinh tế thế giới đã tạo
cho vùng Đông Bắc có bước khởi sắc mới, đời sống của người dân từng bước được
cải thiện, nhưng đây vẫn là một trong những vùng kinh tế - xã hội phát triển chậm
so với các vùng khác trong cả nước. Hạn chế này có nhiều nguyên nhân trong đó
định kiến giới nặng nề là nguyên nhân khá nổi bật. Do vậy chưa khai thác, phát huy
được tiềm năng của lực lượng lao động nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số. Đại
bộ phận các gia đình dân tộc thiểu số đang sống ở mức nghèo đói, nhất là ở vùng cao,
vùng sâu, miền núi. Trong bộ phận dân cư ấy, phụ nữ lại là nhóm xã hội cực khổ nhất.
Họ là một lực lượng xã hội quan trọng có ảnh hưởng toàn diện đến sự phát triển của
khu vực dân tộc và miền núi. Họ vừa phải tham gia lao động sản xuất ngoài xã hội,
cộng đồng; vừa trực tiếp chăm lo công việc gia đình nên cường độ lao động và thời
gian lao động đối với họ là quá tải trong khi mức thu nhập lại thấp, thậm chí họ lao
động vất vả nhưng ít được cộng đồng, xã hội đánh giá khách quan đầy đủ.
3
Xuất phát từ lý do trên, hơn nữa được sinh ra và trưởng thành ở vùng đất này,
tác giả chọn đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc
nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Triết học chuyên ngành chủ nghĩa xã
hội khoa học, mong muốn góp một phần nhỏ vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ và thực
hiện bình đẳng giới khu vực Đông Bắc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng giới bao gồm các hoạt động nghiên cứu khoa
học và thực tiễn mang tính toàn cầu. Tuy vậy, nghiên cứu khoa học về giới và bình
đẳng giới được “phổ biến ” vào Việt Nam và chính thức trở thành một chuyên ngành
khoa học độc lập chỉ trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây (nhiều nhà khoa học coi sự
kiện thành lập trung tâm nghiên cứu phụ nữ, nay là viện Nghiên cứu Gia đình và Giới,
thuộc viện Khoa học xã hội Việt Nam vào năm 1987 như là cột mốc của sự ra đời và
phát triển của khoa học này).
Các công trình nghiên cứu của cá nhân hoặc tổ chức đã góp phần luận giải nhiều
vấn đề thực tiễn đặt ra trong nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội,
thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.
- Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng (1996), “Phụ nữ - giới và phát triển”,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Tác giả cuốn sách đã tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên
mối quan hệ giữa phụ nữ - giới và phát triển. Phân tích vị trí, vai trò của phụ nữ
trong đổi mới kinh tế - xã hội gắn với vấn đề việc làm, thu nhập, sức khỏe, học
vấn chuyên môn; phụ nữ quản lý kinh tế - xã hội; phụ nữ và gia đình; chính sách
xã hội đối với phụ nữ và ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với phụ nữ và thực
hiện bình đẳng giới.
- Lê Thi (1998), “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam”, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội. Công trình khoa học này chính là kết quả bước đầu của sự vận
dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước, cũng như quan điểm tiếp cận giới vào việc
xem xét các vấn đề có liên quan đến bình đẳng giới, kết hợp với các hình thức thu
thập thông tin qua các cuộc khảo sát đời sống phụ nữ công nhân, nông dân, trí thức
trong quá trình đổi mới đất nước. Từ đó đã nêu lên những vấn đề đáng quan tâm và
đề xuất ý kiến về một số chính sách xã hội cần thiết, nhằm xây dựng sự bình đẳng
giới trong tình hình mới.
4
- Chu Thị Thoa - Luận án tiến sĩ Triết học (2002), “Bình đẳng giới trong gia
đình ở nông dân đồng bằng sông Hồng hiện nay”. Tác giả đã phân tích thực trạng
bình đẳng giới trong gia đình ở vùng đồng bằng sông Hồng trong công cuộc đổi
mới và đề xuất những giải pháp nhằm từng bước xóa bỏ bất bình đẳng giới trong
gia đình nông dân đồng bằng sông Hồng.
- Nguyễn Linh Khiếu (2003), “Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình”, Nxb
KHXH, Hà Nội. Tác giả đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ nữ cũng như
quan hệ giới trong gia đình thể hiện trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, tiếp cận
nguồn lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh hơn đối
với phụ nữ nông thôn miền núi, vị thế của họ trong gia đình cũng như những rào
cản văn hóa đang cản trở quá trình phát triển của họ. Những kết luận mà tác giả
khái quát cũng chính là những vấn đề đặt ra cho những nhà khoa học cũng như
những nhà hoạch định chính sách đối với vấn đề phụ nữ - giới và gia đình.
- Phan Thanh Khôi - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2007), “Những vấn đề
giới - từ lịch sử đến hiện đại”. Đây là công trình của tập thể các nhà khoa học của
Viện CNXHKH - Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Các tác giả của công trình đã
nghiên cứu các vấn đề về giới từ tiếp cận trong các tác phẩm kinh điển của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đến vấn đề giới trong đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam; vấn đề giới trong một số phương
tiện thông tin đại chúng và trong sách giáo khoa. Có thể nói, đây là một công trình
đã đề cập đến tương đối đầy đủ những vấn đề về giới. Đó cũng chính là căn cứ lý
luận và thực tiễn về thực trạng quan hệ giới ở nước ta hiện nay.
- Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên), (2008),“Bình đẳng giới
ở Việt Nam”, (Phân tích số liệu điều tra). Nxb KHXH, Hà Nội. Với mục tiêu chính
là điều tra cơ bản về bình đẳng giới, xác định thực trạng bình đẳng giới về cơ hội
và khả năng nắm bắt cơ hội của phụ nữ và nam giới và tương quan giữa hai giới
trên lĩnh vực lao động - việc làm, giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe và địa vị
trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
- Trịnh Quốc Tuấn - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2008), “Khoa học giới
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Các tác giả của công trình này đã cung cấp
một bức tranh về lịch sử phát triển của khoa học giới; đồng thời nghiên cứu vấn đề
5
giới dựa trên cách tiếp cận các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội: Vấn đề
giới trong lĩnh vực kinh tế - lao động; giới trong chiến lược giảm nghèo; giới trong
lĩnh vực lãnh đạo, quản lý; giới trong hoạch định và thực thi chính sách; giới trong
lĩnh vực văn hóa; giới trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo; giới trong gia đình và
chiến lược dân số; lồng ghép giới trong các chương trình phát triển.
- Đỗ Thị Thạch (2010): “Tác động của toàn cầu hóa đối với thực hiện bình
đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” (đề tài khoa học cấp cơ sở của viện Chủ nghĩa xã
hội khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Trên cơ sở
phân tích làm rõ sự tác động của toàn cầu hóa đến việc thực hiện bình đẳng giới
trong các mặt đời sống xã hội và gia đình, đề tài đề xuất một số giải pháp để phát
huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hóa tới thực hiện
bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
Đối với gia đình dân tộc thiểu số và vai trò của người phụ nữ dân tộc thiểu số
trong gia đình và xã hội, chúng ta có thể kể đến một số công trình sau:
- Đỗ Thị Bình (2001), “Mấy vấn đề về vai trò giới trong gia đình nông thôn
hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp các xã miền núi phía Bắc), Khoa học về phụ
nữ, số 3, tr 20-33. Từ phân tích vai trò giới trong gia đình dân tộc Thái, Mông,
Dao, tác giả đã chỉ ra sự biến đổi vai trò giới trong gia đình ở đây theo cả hai xu
hướng tích cực và tiêu cực.
- Đặng Thị Hoa (2001), “Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia đình và
xã hội”, (Nghiên cứu ở bản Hang Kia, xã Hang Kia, huyện Mai Châu, Hòa Bình),
Khoa học về phụ nữ, số 1, tr 33-36. Tác giả phân tích vai trò, vị thế của phụ nữ
H’mông trong gia đình trước đây cũng như hiện nay và kết luận: Người phụ nữ
H’mông là người phụ thuộc trong gia đình lại càng trở nên bị cách biệt trong xã
hội khi họ không có trình độ học vấn, ngôn ngữ phổ thông, không thể hòa nhập
vào cộng đồng và càng không thể chủ động tham gia công tác xã hội. Những ràng
buộc về phong tục tập quán, thói quen trong suy nghĩ, cách làm của họ bị khép kín
trong cộng đồng và chưa thể hòa nhập với nhịp độ phát triển của xã hội trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
- Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Khía cạnh quan hệ giới trong gia đình nông
thôn miền núi” (Nghiên cứu trường hợp xã Cát Thịnh, Văn Chấn, Yên Bái), Khoa
6
học về phụ nữ, số 1, trang 25- 29. Trong khuôn khổ một cuộc khảo sát tiền dự án
tại một xã nghèo miền núi phía Bắc, tác giả đã chỉ ra những thành tựu đã đạt được,
những hạn chế cần phải khắc phục, cũng như những xu hướng vận động và phát
triển trong tương lai của nông thôn miền núi phía Bắc Việt Nam trong điều kiện
toàn cầu hóa hiện nay.
- Đặng Thị Ánh Tuyết (2005) “Thực hiện bình đẳng giới các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Xã hội học. Trên cơ sở phân tích
thực trạng thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia
đình (Qua khảo sát ở Yên Bái và Hà Giang), tác giả đã đề xuất phương hướng cơ
bản và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện bình đẳng giới ở một số tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam.
Những công trình trên bước đầu đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu phụ nữ -
gia đình theo phương pháp tiếp cận giới - một phương pháp nghiên cứu mới nhưng rất
hiệu quả, đã phác họa bức tranh đa dạng, nhiều vẻ về địa vị người phụ nữ trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Qua đó tác động đến suy nghĩ, quan niệm, thái độ
và hành vi của mọi người đối với gia đình và bình đẳng giới ở Việt Nam thời gian qua,
do vậy đây là những tư liệu hết sức quý cho việc triển khai đi sâu nghiên cứu của tác
giả.
Tuy nhiên hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về thực trạng thực
hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta.
Đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước
ta hiện nay” trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu trước đây về
gia đình, vai trò phụ nữ nói chung, góp phần đưa ra cái nhìn đầy đủ hơn về thực trạng
bình đẳng giới trong môi trường sinh hoạt gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Trên cơ sở làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với vấn đề bình đẳng giới
trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta, luận văn đề xuất những giải
pháp cơ bản nhằm khắc phục sự bất bình đẳng về giới, nâng cao vị thế người phụ nữ
trong gia đình, góp phần xây dựng gia đình văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội.
Nhiệm vụ
7
+ Khái quát làm rõ một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới và bình đẳng giới
trong gia đình
+ Làm rõ thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với bình đẳng giới trong gia
đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay, và đề xuất các giải pháp
nhằm tăng cường bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu bình đẳng giới (mối quan hệ giới)
trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta hiện nay.
Phạm vi: Dưới góc độ lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, luận văn tập trung
nghiên cứu làm rõ thực trạng việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu
số chủ yếu ở một số tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng với các dân tộc thiểu số là Mông, Tày
trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới,
gia đình và vị thế, vai trò của phụ nữ.
- Trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu là: phân tích, tổng
hợp, khái quát, điều tra xã hội học, so sánh, thống kê, đối chiếu….
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng bình đẳng giới trong gia đình dân tộc
thiểu số ở Đông Bắc, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
- Bước đầu luận văn nêu lên một số giải pháp nhằm hạn chế bất bình đẳng giới
trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc, góp phần thực hiện công cuộc giải
phóng phụ nữ, xây dựng gia đình văn hóa ở miền núi.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Bằng những đóng góp mới về mặt khoa học nêu trên, luận văn góp phần làm
cơ sở lý luận cho hoạch định các chủ trương, chính sách của địa phương nhằm tạo điều
kiện và cơ hội cho phụ nữ phát triển, xây dựng gia đình văn hóa.
8
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ Hội Phụ nữ nói
chung và Hội Phụ nữ Hà Giang, Cao Bằng nói riêng, làm tài liệu giảng dạy chủ nghĩa
xã hội khoa học, các chuyên đề về gia đình và giới.
8. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu và phụ lục, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG GIA ĐÌNH
1.1. Quan niệm về giới và bình đẳng giới trong gia đình
1.1.1. Quan niệm về giới
Giới là khái niệm mới xuất hiện trong khoa học về giới ở các nước nói tiếng
Anh vào cuối những năm 60 và ở nước ta vào những năm 80 của thế kỉ XX. Cho
đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giới.
Tóm lại, khi nói về giới có thể hiểu là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền
lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ. Vai trò, trách nhiệm và
quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao động, phân chia các nguồn của
cải vật chất và tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam và nữ trong xã hội.
1.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới
Khái niệm bình đẳng giới
9
có thể hiểu bình đẳng giới là sự đối xử ngang quyền giữa hai giới nam và nữ
có xét đến những đặc điểm giống nhau và khác nhau của mỗi giới, thậm chí sự cả sự
khác biệt trong giới nữ, và được điều chỉnh bởi các chính sách đối với từng giới một
cách hợp lí.
Nội dung của bình đẳng giới
Theo tinh thần của công ước CEDAW, nội dung bình đẳng giới bao gồm các
lĩnh vực:
+ Bình đẳng về chính trị
+ Bình đẳng trong kinh tế, việc làm
+ Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục
+ Bình đẳng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe
+ Bình đẳng trong vấn đề hôn nhân và gia đình
Theo Luật Bình đẳng giới (2007) của nước ta, nội dung của bình đẳng
giới gồm có:
+ Bình đẳng về chính trị.
+ Bình đẳng về kinh tế, việc làm
+ Bình đẳng trong lĩnh vực lao động
+ Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
+ Bình đẳng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
+ Bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục thể thao
+ Bình đẳng trong lĩnh vực y tế
+ Bình đẳng trong gia đình
Như vậy, bình đẳng giới trong gia đình là một trong tám lĩnh vực thực hiện
bình đẳng giới được luật hóa ở nước ta hiện nay.
1.1.3. Bình đẳng giới trong gia đình
Quan niệm về gia đình
Có khá nhiều định nghĩa về gia đình, trong phạm vi luận văn, gia đình được
hiểu: “ Là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi
giữa họ với nhau theo luật định” [55].
Bình đẳng giới trong gia đình
10
Điều 18, Luật Bình đẳng giới (2007) nêu rõ nội dung bình đẳng giới trong
gia đình qua các khía cạnh sau:
+ Lĩnh vực pháp luật:
+Lĩnh vực về quyền quyết định:
+ Lĩnh vực tái sinh sản:
+ Lĩnh vực giáo dục con cái:
+ Lĩnh vực sản xuất:
Theo Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, có thể dựa vào 4
công cụ để đánh giá bình đẳng giới hay bất bình đẳng giới trong gia đình: Phân
công công việc theo giới; tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực; ra quyết định trong
gia đình và các nhu cầu giới.
1.1.4. Tầm quan trọng của bình đẳng giới trong gia đình đối với sự phát
triển kinh tế xã hội
Thứ nhất: Bình đẳng giới trong gia đình tạo điều kiện cho người phụ nữ
hoàn thành tốt vai trò làm vợ, làm mẹ, tạo nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng
cao.
Thứ hai: Bình đẳng giới trong gia đình góp phần tăng trưởng kinh tế, giảm
nghèo.
Thứ ba: Bình đẳng giới trong gia đình là nền tảng thúc đẩy bình đẳng và tiến
bộ xã hội.
1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà
nƣớc Việt Nam về bình đẳng giới
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới
1.2.3. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới
1.3. Một số yếu tố tác động đến quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu
số ở vùng Đông Bắc
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Đông Bắc nằm ở địa đầu của Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Như
vậy, yếu tố tự nhiên đã có tác động hai mặt tới việc phát huy vai trò của người phụ
nữ trong phát triển kinh tế gia đình và địa phương. Hạn chế tối đa sự tác động tiêu
11
cực của yếu tố tự nhiên là một trong những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của vùng, tiến tới nâng cao vị thế của người phụ nữ và thực hiện
bình đẳng giới trong gia đình của người dân tộc thiểu số.
1.3.2. Tình hình kinh tế
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản
xuất hàng hóa ở vùng Đông Bắc có nhiều tiềm năng thế mạnh lớn về điều kiện tự
nhiên, song cũng bao hàm những khó khăn hết sức to lớn kể cả về điều kiện tự
nhiên cũng như mặt xã hội, đó là địa hình rừng núi hiểm trở, con người với trình độ
dân trí thấp, phong tục, tập quán lạc hậu
Có thể thấy rất rõ các tỉnh miền núi Đông Bắc nước ta là những tỉnh kinh tế
chậm phát triển.
1.3.3. Điều kiện văn hóa xã hội
Các tỉnh vùng núi Đông Bắc là vùng đa văn hóa nổi bật trong các vùng của
cả nước. Nơi đây hội tụ của nhiều dòng văn hóa, nhiều bản sắc văn hóa tộc người,
tiêu biểu nhất là bề dày lịch sử, tác động đến văn hóa vùng là văn hóa của các tộc
người Mông, TàyVùng núi Đông Bắc là nơi tụ cư của nhiều cư dân tộc người, đây
là vùng có số lượng các dân tộc nhiều nhất ở nước ta, trong số 54 dân tộc của cả
nước thì vùng có trên 30 dân tộc anh em. Sự đa dạng của các dân tộc đồng nghĩa với
sự đa dạng về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lối sống. Nhiều quan hệ xã hội đa
dạng và phức tạp cho đến nay vẫn còn tồn tại. Đáng chú ý là trong nhiều tộc người
còn lưu giữ những tàn dư của thiết chế xã hội cũ (thiết chế bản) cùng với nhiều
phong tục, tập quán, hủ tục lạc hậu gây cản trở sự phát triển của phụ nữ. Vì vậy mà
ở một số tộc người ở khu vực này đang gặp khó khăn trên con đường phát triển.
Chƣơng 2
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VÙNG
ĐÔNG BẮC NƢỚC TA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng
giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nƣớc ta hiện nay
2.1.1. Một vài nét về gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Vài nét khái quát về dân tộc Mông và dân tộc Tày.
12
* Dân tộc Mông
Người Mông chủ yếu sống bằng nghề nương rẫy nên đời sống kinh tế của
đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, thường xuyên thiếu đói về lương thực. Cây trồng
chính là ngô, lúa, dong, giềng và một số loại rau quả. Sản xuất mang tính tự cung tự
cấp trong môi trường sinh hoạt gần như khép kín. Đồng bào thường cư trú ở vùng
sâu, vùng xa, vùng núi cao, giao thông đi lại khó khăn, còn nhiều phong tục tập
quán gây ảnh hưởng nặng nề trong đời sống sinh hoạt của đồng bào. Trình độ dân
trí của người Mông nhìn chung còn thấp, tỷ lệ người viết đọc, biết viết thấp nhất
trong số các dân tộc vùng cao, đặc biệt là đối với phụ nữ.
* Dân tộc Tày
Người Tày sống dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Họ có một nền nông
nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai và rau
quả mùa nào thức đó. Với truyền thống làm ruộng nước, người Tày từ lâu đời đã biết
thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp
phai, lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ
mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày
còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc,
gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ
công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn
đẹp và độc đáo.
Khái quát về gia đình dân tộc Mông, Tày.
- Hình thái và cấu trúc gia đình
Hình thái chủ đạo của gia đình Mông, Tày là gia đình phụ hệ, do vậy trong
mỗi gia đình tính trực hệ được phản ánh rõ nét
Không giống như người Mông, hầu như người Tày không sống theo gia đình
lớn, nhiều đời cùng chung sống trong một mái nhà. Gia đình nhỏ phụ quyền là loại
hình chủ yếu, bao gồm vợ chồng và con cái.
- Quan niệm về sinh con trai
Người Mông quan niệm sinh con trai hay con gái là vấn đề lớn mà cha mẹ
phải lo lắng. Gia đình Tày con cái đều lấy theo họ bố nên giống người Mông, họ
cũng coi trọng con trai hơn con gái,
13
- Quan hệ trong gia đình
Gia đình Mông, Tày theo chế độ phụ hệ, vai trò chủ đạo trong gia đình thuộc
về ông bố (thường là người đàn ông làm chủ hộ).
2.1.2. Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số
vùng Đông Bắc
2.1.2.1. Phân công lao động theo giới
Có thể khẳng định trong hầu hết các gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông
Bắc, người phụ nữ vẫn phải đảm nhiệm nhiều loại công việc hơn nam giới và công
việc ấy được coi là công việc “nhẹ nhàng”. Không thể phủ nhận được rằng, nhiều
công việc do nam giới thực hiện đòi hỏi sức cơ bắp nhiều hơn, chẳng hạn: cày, bừa,
phun thuốc sâu (48,8%). Nhưng trên thực tế những công việc sản xuất mà phụ nữ
làm được coi là “nhẹ nhàng” nhưng lại tốn rất nhiều thời gian, công sức và phải
thực hiện liên tục hàng ngày (làm vườn 47,7%; chăn nuôi 50,9%).
Có thể khẳng định, phân công công việc trong gia đình là một trong những
lĩnh vực bất bình đẳng nhất giữa nam và nữ, những công việc gia đình ấy tưởng
chừng như là đơn giản, “nhẹ nhàng”, nhưng khối lượng công việc mà người phụ nữ
phải thực hiện là hết sức lớn và nặng nhọc, họ phải tập trung tâm trí, sức lực và thời
gian hết sức vất vả để thực hiện vai trò kép: vừa tham gia lao động sản xuất không
kém gì nam giới, đồng thời phải thực hiện sinh đẻ, nuôi dưỡng, nội trợ nên ít có thời
gian nghỉ ngơi, giải trí, làm việc không tính giờ giấc. Bình đẳng giới trong gia đình
không đồng nghĩa với việc chia đều công việc gia đình giữa nam và nữ, cũng không
phải bắt phụ nữ từ bỏ việc chăm sóc gia đình. Song gánh nặng công việc của vai trò
kép đè lên vai người phụ nữ dân tộc thiểu số sẽ cản trở sự phát triển của họ. Vì vậy,
sự cảm thông, chia sẻ của người chồng, quan tâm của xã hội là hết sức cần thiết.
2.1.2.2. Tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, lợi ích và tham gia ra các quyết
định trong gia đình
Một là: Tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, lợi ích
- Quyền kiểm soát đất đai và nguồn vốn
- Tiếp cận dịch vụ khuyến nông
- Lợi ích tinh thần
Hai là: Sự tham gia của phụ nữ vào việc ra quyết định trong gia đình
14
- Quyền quyết định trong hoạt động sản xuất
- Quyền quyết định trong việc vay vốn và sử dụng vốn
- Quản lý kinh tế hộ gia đình
2.1.2.3. Trong việc tham gia hoạt động cộng đồng và thực hiện chiến lược
dân số, kế hoạch hóa gia đình
Một là: Trong việc tham gia hoạt động cộng đồng
Các hoạt động bên ngoài phạm vi gia đình, người vợ tham gia chiếm tỷ lệ
thấp nhất là 7,2%; người chồng tham gia chiếm 22,5% gần gấp 3 lần so với sự tham
gia của người vợ. Rõ ràng, trong những công việc này, vai trò, vị thế của người vợ
thấp hơn so với người chồng. Tuy nhiên, chỉ số hai vợ chồng cùng tham gia là
tương đối cao, chiếm 54,5%. Điều này cũng nói lên cơ hội cho cả hai vợ chồng
cùng tham gia các hoạt động cộng đồng ngày càng biến đổi theo hướng bình đẳng
hơn.
Hai là: Bình đẳng giới trong hoạt động dân số, kế hoạch hóa gia đình
Thực tế cho thấy tỉ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ở người vợ là 60,4% chồng
là 15,3%, cũng như quan niện của họ ai sử dụng thì tốt hơn: 55,9% là vợ và 30,2% là
chồng thể hiện khoảng cách giới rất lớn trong lĩnh vực dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Mặt khác, phần lớn chính bản thân những người phụ nữ dân tộc thiểu số cũng quan niệm
rằng thực hiện kế hoạch hóa gia đình là trách nhiệm của người vợ.
2.1.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong gia
đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta hiện nay
2.1.3.1. Điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập của các gia đình còn thấp cản
trở tới việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình
2.1.3.2. Trình độ dân trí thấp, nhận thức của người dân còn hạn chế gây cản trở
việc thực hiên bình đẳng giới trong gia đình
2.1.3.3. Hủ tục lạc hậu ảnh hưởng lớn tới việc thực hiện bình đẳng giới trong
gia đình
2.1.3.4. Hoạt động của hệ thống chính trị hạn chế
2.1.3.5. Bản thân đa số phụ nữ dân tộc thiểu số còn cam chịu, chưa vươn lên
2.2. Một số giải pháp nhằm tăng cƣờng bình đẳng giới trong gia đình dân
tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc
15
2.2.1. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở vùng dân tộc thiểu số
tạo tiền đề thực hiện tốt bình đẳng giới trong gia đình
2.2.2. Nâng cao nhận thức về mục tiêu bình đẳng giới cho các thành viên
trong gia đình, cộng đồng
2.2.3. Tiếp tục nâng cao trình độ học vấn cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc nhất là cho phụ nữ
2.2.4. Xây dựng gia đình văn hóa trên cơ sở bình đẳng giới
2.2.5. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị
2.2.6. Hoàn thiện cơ chế chính sách về bình đẳng giới đối với phụ nữ dân tộc
thiểu số
KẾT LUẬN
Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu toàn cầu là Liên hợp quốc và
nhiều tổ chức tổ chức quốc tế khác từ lâu đã vận động và thúc đẩy. Quyền bình
đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người (1948), Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ của Liên hợp quốc (1979) và nhiều văn kiện pháp lý quốc tế khác, cũng
như đã được khẳng định trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Bình đẳng giới là mục tiêu vừa có ý nghĩa vừa có chiến lược lâu dài, vừa có
tính cấp bách trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Thực hiện mục tiêu này, nam giới
và nữ giới có thể có những điều kiện bình đẳng để phát huy đầy đủ các tiềm năng
của họ, có cơ hội để tham gia, đóng góp trong công cuộc phát triển đất nước trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Thực tiễn đời sống đã chứng
minh, bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào cũng đều dễ gây nên những căng thẳng và
xung đột xã hội. Bất bình đẳng giới không chỉ hạn chế sự phát triển của phụ nữ mà
còn cản trở tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát
triển.
Vấn đề bình đẳng giới được đề cập rất sớm ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới đã chiếu rọi con đường vươn lên của phụ
nữ Việt Nam. Các quan điểm về bình đẳng giới không chỉ được ghi nhận trong các
văn kiện của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, được cụ thể hóa bằng các văn bản,
16
những chỉ thị, nghị định, mà quan trọng hơn, ở một mức độ nhất định, đã và đang
được thực thi trong cuộc sống nhằm phát huy vai trò, vị trí và tiềm năng của phụ nữ
trong xã hội.
Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã làm thay đổi trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Gia đình là một thiết chế xã hội cũng có những biến đổi theo xu
hướng tích cực tiến bộ, đặc biệt các mối quan hệ trong gia đình ngày càng hướng tới
sự dân chủ, bình đẳng hơn. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội
ngày càng được khẳng định hơn.
Miền núi vùng Đông Bắc là vùng đất có nhiều tiềm năng và nguồn lực phát
triển về kinh tế, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo trong
hơn 25 năm qua đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân tộc thiểu
số được nâng cao, đặc biệt là phụ nữ không ngừng được cải thiện, vị thế của họ
ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế kém phát triển, trình độ
dân trí còn thấp, các tư tưởng, tập quán cũ, tâm lý trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn
tại, đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống hàng ngày của người dân, nên còn
nhiều biểu hiện chưa bình đẳng giữa nam và nữ trong hoạt động xã hội và gia đình.
So với phụ nữ ở các đô thị, đồng bằng, và phụ nữ dân tộc Kinh thì phụ nữ dân tộc
thiểu số vùng Đông Bắc trên mọi phương diện đều khó khăn hơn, kể cả những điều
kiện để phát huy khả năng của mình. Đây thật sự là một thiệt thòi lớn đối với phụ
nữ dân tộc thiểu số trong sự vận động và phát triển của xã hội.
Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc đòi
hỏi phải nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở các
địa phương này, đồng thời phải tiến hành đồng bộ các giải pháp. Chúng ta cần phải
vận động tuyên truyền mạnh mẽ hơn nữa để mọi người thay đổi cách nhìn thiên lệch
về vai trò của phụ nữ đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số trong thời đại ngày nay.
Các cấp, các ngành các tổ chức chính trị và các thành viên trong gia đình cần tạo
điều kiện cho chị em phụ nữ có cơ hội học hành, có công ăn việc làm, được đảm
bảo tốt về mặt sức khỏe…, để họ có thể vừa hoàn thành thiên chức làm vợ, làm mẹ,
mà vẫn đảm bảo tốt mọi trọng trách mà xã hội giao phó.
Bình đẳng giới không phải là làm dùm cho phụ nữ mà là tạo cơ hội, tạo điều
kiện cho phụ nữ phát huy được năng lực bản thân. Càng không phải là tạo chỗ dựa,
17
mà là giúp họ đứng vững trên đôi chân của mình để phụ nữ góp phần xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
References.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (1996), Phụ nữ, giới và phát triển, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội
2. Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới (2001), Đưa vấn đề giới
vào phát triển, Nxb VHTT, Hà Nội.
3. Báo cáo của tổ chức phi chính phủ về 10 năm thực hiện cương lĩnh hành động
Bắc Kinh.
4. Báo cáo số liệu các hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Cao Bằng, Hà Giang,
Thái Nguyên.
5. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội ở các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang.
6. Đỗ Thị Bình (1997), Một số vấn đề chính sách xã hội với phụ nữ nông thôn trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Đỗ Thị Bình (1997), Thực trạng môi trường Việt Nam hiện nay và sự tác động
của nó đến đời sống sức khỏe của phụ nữ. Mười năm tiến bộ của phụ nữ
Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
8. Đỗ Thúy Bình (1991), "Gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam. Nhận
diện gia đình Việt Nam hiện nay", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, Hà Nội.
9. Đỗ Thúy Bình (1992), "Gia đình người H
’
mông trong bối cảnh kinh tế hiện nay",
Tạp chí Dân tộc học, (2).
10. Đỗ Thúy Bình (1993), Gia đình - Những biến đổi kinh tế - văn hóa - xã hội ở
các tỉnh miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Đỗ Thúy Bình (1993), "Một số vấn đề đặt ra khi nghiên cứu thực trạng đời sống
phụ nữ các dân tộc ít người góp phần hoàn thiện chính sách xã hội", Tạp
chí Dân tộc học, (2).
18
12. Trần Bình (2002), “Một số vấn đề về nhận thức, thái độ và hành vi chăm sóc
sức khỏe sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu số ở Hà Giang”, Tạp chí khoa
học về phụ nữ, (2).
13. Bộ Chính trị (1989), "Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về một số chủ trương,
chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội miền núi”, Báo Nhân dân.
14. Bộ Tư pháp (1996), Pháp luật vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
15. Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP (1995), Việt Nam qua lăng kính
giới, Hà Nội.
16. Công ước Liên Hợp quốc (2004), Về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội (Tái bản lần 2).
17. Đào Xuân Dũng (1998), Tính dục người, viện CNXHKH, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
18. Dự án VIE/96/011, UBQGVSTBPN Việt Nam
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VI,
Nxb Sự Thật, Hà Nội.
20. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Một số văn kiện chính sách về dân tộc miền
núi, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19
27. Luân Thị Đẹp (2004), Vai trò của phụ nữ dân tộc Dao ở huyện Bạch Thông,
tỉnh Bắc Kạn, Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
28. Trần Thị Minh Đức (2006), Định kiến và phân biệt đối xử theo giới: Lý thuyết và
thực tiễn, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội
29. Phạm Thị Hoàng Hà (2005), Thực hiện bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa ở các
tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
30. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980,
1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Thanh Hiển (2008), “Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân ở
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
32. Khoa học giới những vấn đề lý luận và thực tiễn, 2008, Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
33. Hà Quế Lâm (2002), Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Lê Ngọc Lân (1996), Thực trạng đời sống và khả năng tham gia phát triển kinh tế
của gia đình phụ nữ nghèo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Kim Loan (2005), Giải phóng phụ nữ: Từ quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lênin đến tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam và thực tiễn ở nước ta, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
36. C. Mác - Ph. Ăng ghen (1967), Về vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
37. C.Mác - Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
38. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
39. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (1992), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20
41. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi.
43. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chủ Tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
47. Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Nguyễn Hữu Ngà (2005), "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức dân tộc thiểu
số", Tạp chí Dân tộc học, (3).
49. Nguyễn Thị Ngân (2004), “Bình đẳng giới trong gia đình”, trong: Tập bài giảng
Khoa học giới, Học viện Chính trị quốc gia.
50. Ngân hàng Thế giới (2000), Báo cáo tổng quan đưa vấn đề giới vào phát triển,
Hà Nội.
51. Những vấn đề giới: Từ lịch sử đến hiện đại (2007), Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội.
52. Nguyễn Quốc Phẩm- Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
về các dân tộc và quan hệ dân tộc Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
53. Nguyễn Quốc Phẩm (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời
sống xã hội nông thôn miền núi vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Trần Thị Quế (1999), Những khái niệm cơ bản về giới và vấn đề giới ở Việt
Nam, NXB Thống Kê, Hà Nội
55. Quốc hội (1992), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội
56. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
57. Quốc hội (2007), Luật Bình đẳng giới, Hà Nội
58. Đỗ Thị Thạch (1995), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ: Nguồn
gốc và giá trị hiện thực", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (4).
59. Đỗ Thị Thạch (2003), “Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ ở Việt Nam
hiện nay”, Lý luận Chính trị,(8).
21
60. Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
61. Lê Ngọc Thắng (1998), “Phụ nữ dân tộc và miền núi trong đời sống kinh tế -
văn hóa các dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, (5)
62. Lê Thi (chủ biên) (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
63. Lê Thi(1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội.
64. Lê Thi (1999), Việc làm đối với phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam.
65. Lê Thi (2005), Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số và phát triển bền vững,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Chu Thị Thoa (2002), Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng
sông Hồng hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
67. Tóm tắt tình hình giới của Liên hợp quốc tại Việt Nam (2006), Hà Nội
68. Tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (1995): Việt Nam qua lăng kính giới, Hà
Nội.
69. Đặng Thị ánh Tuyết (2005), Thực hiện bình đẳng giới các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xã hội học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
70. Ủy ban Dân tộc và miền núi (2001), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng, Báo cáo tình hình hoạt động vì sự tiến bộ của
Phụ nữ.
72. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Báo cáo tình hình hoạt động vì sự tiến bộ của
phụ nữ.
73. UNDP (2002), Bài viết về chính sách bình đẳng giới, UNDP, Niu -ooc, Hoa Kỳ.
74. Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (1999), Công ước Liên hợp
quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội.
22
75. Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2005), Hướng dẫn lồng
ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
76. Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc miền núi (2002), vấn đề dân tộc và định
hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Viện Chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2005), Phát huy nội lực từng vùng các dân tộc nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn các tỉnh miền núi, vùng
cao Tây Bắc nước ta hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.