Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Rủi ro kiểm toán gắn với việc thiết kế các mô hình rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.69 KB, 87 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Tháng 11 năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại
thế giới WTO, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam . Sự hội nhập thế giới mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội cũng như thách
thức. Nền kinh tế Việt Nam được đón nhận sự đầu tư nhiều hơn của các tổ
chức và các khu vực kinh tế cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng bên
cạnh đó nước ta phải có những điều chỉnh trong chính sách pháp luật đầu tư,
kinh doanh cho phù hợp với môi trường quốc tế, và đón nhận sự có mặt của
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh nước ngoài trên thị trường Việt
Nam. Điều đó đặt ra cho các cá nhân, các doanh nghiệp, và các tổ chức kinh
tế nước ta một bài toán lớn. Chúng ta phải đi tìm lời giải cho sự tồn tại, con
đường phát triển đúng đắn, toàn diện. Sự hình thành và lớn mạnh của các
doanh nghiệp và tổ chức kinh tế trong và ngoài nước sau gần 3 năm gia nhập
WTO và môi trường kinh doanh mới đã tạo nên nhiều kênh thông tin kinh tế
khác nhau, và kéo theo đó nhu cầu sử dụng thông tin tài chính cũng ngày càng
đa dạng và trở nên quan trọng hơn, đòi hỏi thông tin phải được cung cấp kịp
thời,độ chính xác ngày càng tăng. Trong xu thế phát triển tất yếu đó, dịch vụ
kiểm toán là có uy tín nhất trong việc thẩm định thông tin tài chính của các
doanh nghiệp. Những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp coi báo cáo kiểm toán là ý kiến cuối cùng trong việc thẩm định, xác
minh tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính. Dịch vụ kiểm toán đã phát
triển từ rất lâu trên thế giới, song tại Việt Nam mới bắt đầu hình thành từ năm
1991. Ra đời muộn nhưng sau gần 20 năm phát triển kiểm toán Việt Nam đã
tạo một vai trò đặc biệt quan trọng của mình trong việc tăng cường, nâng cao
hiệu quả quản lí, lành mạnh hóa nền tài chính Việt Nam. Với chức năng xác
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động của đơn vị được kiểm toán,
kiểm toán tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, các nhà quản trị doanh nghiệp,


khách hàng và những người quan tâm góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và
củng cố nền nếp hoạt động tài chính, kế toán nói riêng và hoạt động quản lí
nói chung. Hơn hết, nó góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lí, từ đó
đóng góp vào sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển nền
kinh tế.
Tuy nhiên, cũng như bất cứ một ngành nghề lĩnh vực kinh tế, kiểm toán
không thể tránh khỏi những rủi ro. Việc đánh giá đúng đắn rủi ro kiểm toán
có vai trò đặc biệt quan trọng đối với một cuộc kiểm toán. Qui trình đánh giá
trọng yếu và rủi ro góp một phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả của
cuộc kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán tài chính (KTTC). Một qui trình đánh
giá trọng yếu và rủi ro hiệu quả sẽ giúp kiểm toán viên (KTV) xây dựng được
một kế hoạch kiểm toán tốt nhằm đảm bảo cho quá trình thực hiện kiểm toán
được tiến hành hiệu quả, có khả năng phát hiện được các sai phạm trọng yếu
và trên cơ sở đó, KTV có thể đưa ra ý kiến thích hợp nhất đối với báo cáo tài
chính (BCTC). Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế
thị trường nói chung và trong lĩnh vực kiểm toán nói riêng, việc xây dựng qui
trình đánh giá rủi ro và trọng yếu ngày càng có ý nghĩa đối với sự hoạt động
của các công ty kiểm toán.
Nhận thức được tầm quan trọng của qui trình đối với toàn bộ cuộc kiểm
toán, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Rủi ro kiểm toán gắn với việc
thiết kế các mô hình rủi ro”. Từ những kiến thức đã học, tham khảo các tài
liệu chuyên ngành và sự hướng dẫn của cô giáo Ths. Tạ Thu Trang, chúng
tôi đã hoàn thành Đề tài nghiên cứu của mình.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1 Khái quát về “ rủi ro”
Trong cuộc sống hàng ngày, có rất nhiều sự kiện xảy ra mà chúng ta
không thể dự đoán hết được và nếu có dự đoán được khả năng xảy ra của

chúng thì cũng không thể biết chắc chắn hậu quả sẽ ra sao. Chẳng hạn, khi
bạn đầu tư một khoản tiền để mua chứng khoán, nhưng không chắc chắn là sẽ
thu được một khoản lãi hay bị lỗ trong tương lai. Chúng ta chỉ có thể dự báo
một số khả năng có thể xảy ra dựa trên những phân tích nào đó, nhưng những
khả năng đó không thể nào đoán đúng 100% được. Những vấn đề trên thường
gắn với khái niệm - được gọi là rủi ro.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về rủi ro. Các học giả người Pháp
đơn thuần coi rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt hại. Quan điểm của Mỹ thì cho
rằng rủi ro liên quan đến thiệt hại và may mắn. Và có những quan điểm cho
rằng rủi ro là khả năng xảy ra một số sự cố không may, hay là sự kết hợp các
nguy cơ, là sự không chắc chắn về tổn thất, là khả năng xảy ra tổn thất.Tuy
các quan điểm có thể xuất phát từ những khía cạnh khác nhau nhưng đều đưa
ra kết luận rằng: Rủi ro là khái niệm chỉ khả năng không chắc chắn về một sự
kiện nào đó sẽ xảy ra . Rủi ro được nhắc đến để ám chỉ một điều không chắc
chắn, một hậu quả với những tình huống không lường trước được có thể xảy
ra, nếu xảy ra có thể không như chúng ta mong đợi. Rủi ro ứng với sai lệch
giữa dự kiến với thực tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có một câu hỏi được đặt ra lúc này là: Tại sao chúng ta phải tìm hiểu
về ‘rủi ro’? Rủi ro đem lại những ích lợi hay bất lợi gì cho cuộc sống của
chúng ta?
Tất nhiên, khi đứng trước những sự lựa chọn, quyết định hay một sự
kiện, công việc nào đó, bạn luôn tư duy phân tích dù ít hay nhiều về vấn đề
bạn đang quan tâm. Với nhiều công việc để đạt được kết quả mong muốn cần
thiết phải lập kế hoạch cho nó, trong đó, bước đánh giá rủi ro là một yếu tố
quan trọng. Đánh giá rủi ro là quá trình tìm hiểu những rủi ro có thể và sẽ liên
quan tới công việc và chỉ ra cụ thể những rủi ro có thể gặp. Xây dựng những
biện pháp kiểm soát để thực thi công việc một cách hiệu quả nhất, an toàn

nhất nhằm tránh gây ra những hậu quả không mong đợi. Như vậy, hiểu được
bản chất của rủi ro, ta sẽ có thể giải quyết được nhiều vấn đề.
Theo lối tư duy thông thường mọi người thường cho rằng rủi ro là khả
năng xảy ra sự việc đưa đến hậu quả bất lợi. Tuy nhiên lối tư duy này không
còn phù hợp nữa khi mà trình độ phát triển và nền kinh tế đang vận động một
cách nhanh chóng và phức tạp hơn. Do đó, chúng ta cần đánh giá rủi ro gắn
với nhiều khía cạnh hơn như xác suất, nguy cơ, cơ hội và kết quả.
Rủi ro với xác suất
Trong khi một vài định nghĩa về rủi ro chỉ tập trung vào xác suất (khả
năng) xảy ra sự kiện thì có khá nhiều định nghĩa đã bao hàm toàn diện hơn
khi kết hợp chặt chẽ cả xác suất xảy ra và hậu quả của sự kiện đó. Ví dụ, xác
suất của một trận động đất lớn ở Việt Nam được đánh giá là rất thấp ( vì trong
thực tế, ở Việt Nam rất ít khi có động đất). Tuy nhiên khi đánh giá về hậu quả
mà nó gây ra thì rất lớn – một hiểm họa. Do vậy, sự kiện này nên được đánh
giá là có rủi ro cao. ( rủi ro và trọng yếu )
Rủi ro với nguy cơ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Rõ ràng có sự tương phản giữa khái niệm rủi ro và nguy cơ.Nguy cơ
thường có khả năng xảy ra thấp nhưng để lại hậu quả lớn và chưa có đủ thông
tin để đánh giá về khả năng xảy ra.Trái lại, rủi ro thường có khả năng xảy ra
cao và có đủ thông tin để đánh giá cả về khả năng xảy ra và kết quả của nó.
Tuy nhiên, hai khái niệm này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chẳng hạn
một dự án kinh doanh: nhập khẩu ô tô về phân phối ở thị trường trong nước
được phân tích là có tiềm năng rất lớn vì nhu cầu mua người dân đang lên rất
cao và được đánh giá rủi ro thất bại là thấp. Tuy nhiên, một nguy cơ được dự
báo có thể xảy ra liên quan đến luật pháp: tăng thuế nhập khẩu gấp 2 lần. Như
vậy nếu nguy cơ này xảy ra thì rủi ro thất bại của dự án này là rất lớn. Vì vậy,
rủi ro trong tình huống này vẫn được đánh giá là cao.

Rủi ro với kết quả để lại
Nhiều định nghĩa có xu hướng đánh giá rủi ro chỉ tập trung vào những
tình huống bất lợi, trong khi có những định nghĩa khác thì mở rộng hơn và
xem xét tất cả sự thay đổi đều liên quan đến rủi ro. Ví dụ định nghĩa về rủi ro
trong xây dựng là sự kết hợp của khả năng
xảy ra một tai nạn và hậu quả gây thiệt hại về con người hay tiền của.
Ngược lại, rủi ro trong tài chính được định nghĩa là sự thay đổi kết quả
thực tế của việc đầu tư xung quanh lợi ích mong đợi, thậm chí khi những thay
đổi này theo chiều hướng tốt. Như vậy khi đánh giá rủi ro, có thể đánh giá cả
mặt tích cực và tiêu cực để đưa ra cái nhìn tổng quan về rủi ro tiêu cực không
mong muốn gặp phải.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5
Rủi ro = khả năng xảy ra một tai nạn x thiệt hại
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Rủi ro với cơ hội
Hai khái niệm này thường có ảnh hưởng trái chiều lên nhau. Cơ hội cao
thì rủi ro thấp và ngược lại. Ví dụ, khi chọn ngành kiểm toán để theo học ở
trường Đại học Kinh tế Quốc Dân Hà Nội, cơ hội sau này về cơ hội việc làm
và thu nhập là khá cao. Tuy nhiên điểm thi đầu vào của ngành này cũng cao.
Do đó rủi ro có thể thi trượt được đánh giá là cao.
Như vậy, với những nét khái quát chung nhất về “ rủi ro” trên đây sẽ
làm cơ sở cho vấn đề cần nghiên cứu trong phạm vi đề tài này. Đó là rủi ro
kiểm toán và các mô hình đánh giá rủi ro kiểm toán.
1.2 Rủi ro kiểm toán
Trong kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng rủi ro kiểm
toán là khái niệm quen thuộc gắn liền với trách nhiệm của kiểm toán viên.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế (IAG25) về “Trọng yếu và rủi ro kiểm
toán” thì rủi ro kiểm toán được định nghĩa: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro
mà kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng

về các thông tin tài chính và đó là các sai phạm nghiêm trọng. Ví dụ, kiểm toán
viên có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ một báo cáo tài chính mà không
biết rằng các báo cáo này vẫn còn những sai phạm nghiêm trọng”. Nguyên tắc
này chỉ rõ bản chất và nguyên nhân của rủi ro kiểm toán. Phù hợp với IAG 25
, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400( VSA400 ) “Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ ” đưa ra định nghĩa về rủi ro kiểm toán như sau: “Rủi ro
kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận
xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai
sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm 3 bộ phận ; rủi ro tiềm tàng , rủi ro
Website: Email : Tel : 0918.775.368
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kiểm soát, và rủi ro phát hiện”. Định nghĩa này không những chỉ ra bản chất
mà còn chỉ ra các bộ phận của rủi ro kiểm toán.
Như vậy, rủi ro kiểm toán là khả năng mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến
không chính xác về đối tượng được kiểm toán. Trong thực tế, rủi ro kiểm toán
xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong bảng khai tài chính đã vượt qua hệ
thống kiểm soát nội bộ và không bị các thử nghiệm cơ bản trong quá trình
kiểm toán phát hiện. Rủi ro kiểm toán luôn tồn tại ngay cả khi kiểm toán viên
( KTV) đã lập kế hoạch kiểm toán một cách chu đáo. KTV chỉ có thể kỳ
vọng một mức độ rủi ro kiểm toán chấp nhận được để đảm bảo hợp lý các sai
sót trọng yếu không xảy ra. Do đó khái niệm rủi ro kiểm toán mong muốn
thường được sử dụng nhiều hơn khái niệm rủi ro kiểm toán.
Rủi ro kiểm toán tồn tại do mỗi cuộc kiểm toán bao giờ cũng bị giới
hạn về nhiều mặt như phạm vi kiểm toán , thời gian kiểm toán , chi phí kiểm
toán… do đó xác định rủi ro kiểm toán mong muốn là việc cần thiết và quan
trọng của mọi cuộc kiểm toán. Việc xác định rủi ro mong muốn đồng thời là
cơ sở để KTV xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được.
Trên cở sở nhận thức về rủi ro và rủi ro kiểm toán trình bày ở trên
chúng tôi đưa ra một số mô hình rủi ro kiểm toán cụ thể đã được áp dụng và

có những mô hình còn đang được xây dựng và hoàn thiện để đưa vào ứng
dụng trong thực tế. Nhận thấy rõ nhu cầu kiểm toán độc lập, kiểm toán hệ
thống kiểm soát nội bộ và loại hình kiểm toán liên kết đang rất lớn không chỉ
trên thế giới mà ngay tại Việt Nam, chúng tôi đi sâu phân tích 4 mô hình rủi
ro kiểm toán sau:
Mô hình rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính ( xem mục 2.1) – mô
hình 2.1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mô hình rủi ro kiểm toán trong kiểm toán kiểm soát nội bộ ( xem mục
2.2 ) – mô hình 2.2
Mô hình rủi ro kiểm toán trong kiểm toán liên kết ( xem mục 2.3 ) – mô
hình 2.3
Mô hình rủi ro kiểm toán ứng dụng mô hình phân tích SWOT ( xem mục
2.4 ) – mô hình 2.4
Tại sao kiểm toán kiểm soát nội bộ ngày càng đóng vai trò quan trọng ?
Nếu như kiểm toán độc lập đã có mặt ở Việt Nam được hơn 10 năm thì
cho đến nay, khái niệm kiểm toán kiểm soát nội bộ vẫn còn xa lạ với nhiều
nhà quản lý. Tuy nhiên, yêu cầu hội nhập WTO, sự phát triển nhanh chóng
của thị trường chứng khoán và những vụ bê bối về quản trị ở một số doanh
nghiệp lớn của Nhà nước gần đây cho thấy sự cần thiết của kiểm toán soát
nội bộ ở doanh nghiệp. Trên thế giới, kiểm toán kiểm soát nội bộ đã ra đời từ
lâu nhưng chỉ phát triển từ sau các vụ gian lận tài chính ở Công ty Worldcom
và Eron (Mỹ) những năm 2000-2001 và đặc biệt là khi Luật Sarbanes-Oxley
của Mỹ ra đời năm 2002. Luật này quy định các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội
bộ của công ty.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
8

Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. CÁC MÔ HÌNH RỦI RO KIỂM TOÁN
2.1 Mô hình rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính
2.1.1 Mô hình rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Trong thực tiễn công tác kiểm toán , mối quan hệ giữa các loại rủi ro
kiểm toán được biểu diễn qua hai mô hình rủi ro sau:
Mô hình (2.1.1): AR
Trong đó: AR là rủi ro kiểm toán ( Audit risk )
IR là rủi ro tiềm tàng ( Inherent risk )
CR là rủi ro kiểm soát ( Control risk )
DR là rủi ro phát hiện ( Detection risk )
Mô hình này được KTV sử dụng để đánh giá tính hợp lí của kế hoạch
kiểm toán. KTV có thể sử dụng mô hình này để điều chỉnh rủi ro phát hiện
( DR) dựa trên các loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro
kiểm toán ở mức thấp mà KTV kỳ vọng. Mô hình trên có thể minh họa qua ví
dụ sau: KTV kỳ vọng rủi ro kiểm toán khi tiến hành 1 cuộc kiểm toán ở mức
tương đối thấp , khoảng 0,05 ( có nghĩa là trung bình có khoảng 5% các
quyết định của kiểm toán viên là không xác đáng ). Rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát được KTV đánh giá dựa trên kinh nghiệm , óc phán xét nghề
nghiệp và các bằng chứng cụ thể thu thập được. Giả sử KTV cho rằng lĩnh
vực kinh doanh của khách hàng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cao nên rủi ro
tiềm tàng ( IR) được đánh giá ở mức cao là 0,9 nhưng hệ thống kiểm soát nội
bộ của doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nên với thái độ nghi ngờ thích
đáng KTV đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức 0,08. Khi đó KTV phải điều
chỉnh sao cho rủi ro phát hiện ( DR) không vượt quá mức 0,07 để đảm bảo
rủi ro kiểm toán ở mức 0.05 như kỳ vọng. Nếu như KTV nhận thấy rủi ro
Website: Email : Tel : 0918.775.368
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát hiện ở mức 0,07 là cao và muốn điều chỉnh cho mức rủi ro phát hiện

giảm xuống , khi đó KTV phải tiến hành điều chỉnh rủi ro kiểm toán mong
muốn giảm xuống.
Mô hình (2.1.1) ít được sử dụng vì rủi ro kiểm toán thường được KTV
xác định trước và khó thay đổi trong một cuộc kiểm toán. Do vậy, KTV mong
muốn xác định rủi ro phát hiện để lập kế hoạch kiểm toán hơn là điều chỉnh
rủi ro phát hiện theo rủi ro kiểm toán. Mặt khác , rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát luôn có tính chất cố hữu , KTV chỉ có thể đánh giá chứ không thể
tác động điều chỉnh, trong khi đó KTV có thể điều chỉnh rủi ro phát hiện như
mong muốn. Do đó để phục vụ tốt hơn cho việc lập kế hoạch kiểm toán và xét
trong mối quan hệ với bằng chứng kiểm toán , mô hình rủi ro thường được
các KTV sử dụng có dạng sau:
Mô hình (2.1.2) DR
Với mô hình (2.1.2), rủi ro phát hiện (DR) là mối quan tâm trước tiên
của KTV. Thông qua việc tính toán DR, kiểm toán viên sẽ xác định thủ tục
kiểm toán và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập để rủi ro phát hiện
không vượt quá mức mong muốn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Xét ví dụ ở mô hình (2.1.1) với giả thiết rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát như trên, KTV có thể chấp nhận mức rủi ro mong muốn (AR) ở mức 0,04
khi đó rủi ro phát hiện (DR) được tính theo mô hình (2.1.2) như sau:
DR 0,063
DR = 0,063 có nghĩa là để đạt mức rủi ro kiểm toán mong muốn là 0,04
thì KTV phải xây dựng thủ tục kiểm toán thích hợp và thu thập số lượng bằng
chứng kiểm toán hợp lí để mức rủi ro phát hiện không vượt quá 0,063.
Với mô hình (2.1.2) rủi ro kiểm toán thường được xác định trước cuộc
kiểm toán theo tiêu chuẩn của từng công ty và được gọi là rủi ro kiểm toán
mong muốn ( DAR – Designed Audit Risk ), vì vậy mô hình (2.1.2) thường
được viết dưới dạng :

DR
DAR: rủi ro kiểm toán mong muốn – designed audit
risk
Với một mức rủi ro kiểm toán mong muốn cho trước , từ mô hình (2.1.2)
có thể rút ra kết luận : rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro
tiềm tàng , rủi ro kiểm soát và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập, tỉ
lệ thuận với rủi ro kiểm toán. Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được
đánh giá cao thì rủi ro phát hiện được tính toán sẽ thấp, số lượng bằng chứng
kiểm toán cần thu thập nhiều. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát được đánh giá thấp thì rủi ro phát hiện là cao, khi đó với số lượng bằng
chứng kiểm toán nhỏ hơn KTV có thể đưa ra được kết luận hợp lí. Mối quan
Website: Email : Tel : 0918.775.368
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hệ giữa rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, và bằng chứng kiểm toán với rủi ro
phát hiện được thể hiện qua các bảng dưới đây:
Bảng: Ma trận rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện được
KTV tính toán
IR được KTV đánh giá
Cao Trung bình Thấp
CR được
KTV
đánh giá
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất


Bảng : Mối quan hệ giữa các loại rủi ro với số lượng bằng chứng kiểm toán

AR IR CR DR Số lượng bằng
chứng cần thu
thập
Cao Thấp Thấp Cao Thấp
Website: Email : Tel : 0918.775.368
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thấp Thấp Thấp Trung bình Trung bình
Thấp Cao Cao Thấp Cao
Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình
Cao Thấp Trung bình Trung bình Trung bình
Hai mô hình trên đều biểu thị mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm
toán. Theo phương diện toán học thì mô hình 2.1.2 được rút ra từ mô hình
2.1.1, do đó để tiện cho việc theo dõi, chúng tôi sẽ gọi chung hai mô hình này
là mô hình 2.1. Mô hình 2.1 tuy đơn giản nhưng có vai trò rất quan trọng đối
với KTV trong mọi cuộc kiểm toán. Khi áp dụng các mô hình trên KTV cần
lưu ý:
Thứ nhất, KTV không được giả sử mức rủi ro tiềm tàng bằng không (IR
= 0 ) , để không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán.
AR = IR ( = 0 )
Thứ hai, KTV không nên đặt sự tin tưởng tuyệt đối vào hệ thống kiểm
soát nội bộ của doanh nghiệp ( tức là đánh giá CR = 0) để không cần đến các
bước thu thập bằng chứng kiểm toán.
AR = IR
Thứ ba, KTV không thể để rủi ro tồn tại các sai phạm trọng yếu đối với
đối tượng kiểm toán ở mức cao.
Trong một cuộc kiểm toán rủi ro không bao giờ được loại trừ một cách
tuyệt đối , khái niệm rủi ro mong muốn thể hiện mức độ kỳ vọng của kiểm
toán viên đối với một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Rủi ro kiểm toán
Website: Email : Tel : 0918.775.368

13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mong muốn được xác định một cách chủ quan theo kinh nghiệm và óc phán
xét nghề nghiệp của KTV, và thông thường các công ty kiểm toán thường đặt
một mức rủi ro mong muốn xác định có thể chấp nhận cho mọi cuộc kiểm
toán mà công ty thực hiện. Khi KTV cho rằng rủi ro mong muốn bằng 0 có
nghĩa là KTV tin tưởng báo cáo tài chính của khách hàng không tồn tại bất cứ
sai phạm trọng yếu nào. Tuy nhiên đó là trường hợp lí tưởng không bao giờ
xảy ra đối với mọi cuộc kiểm toán. Kiểm toán là một lĩnh vực mang tính
tương đối hơn tuyệt đối, vì vậy KTV chỉ có thể kết luận rằng báo cáo tài chính
của khách hàng đã được trình bày trung thực , hợp lí xét trên các khía cạnh
trọng yếu, chứ không thể khẳng định rằng báo cáo tài chính hoàn toàn trung
thực hợp lí xét trên mọi khía cạnh. Ngược lại, khi KTV xác định rủi ro kiểm
toán ở mức 1 ( hay 100%) KTV có thể kết luận rằng báo cáo tài chính của
khách hàng đã bị sai lệch nghiêm trọng trên mọi khía cạnh trọng yếu.
Việc đưa ra mức rủi ro kiểm toán mong muốn mang tính chủ quan của
KTV, nhưng KTV phải đưa ra mức rủi ro kiểm toán mong muốn đủ thấp để
những người quan tâm có thể sử dụng báo cáo tài chính của khách hàng là cơ
sở ra các quyết định, hạn chế các rủi ro trong kinh doanh. Vì vậy, để xác định
mức rủi ro mong muốn thích hợp, KTV cần lưu ý những điểm sau:
Thứ nhất, KTV phải xem xét mức độ mà người sử dụng bên ngoài tin
tưởng vào báo cáo tài chính của khách hàng. Khi người sử dụng thông tin đặt
niềm tin vào báo cáo tài chính được kiểm toán thì rủi ro kiểm toán phải được
giảm xuống mức thấp thích hợp. Tuy nhiên, rủi ro kiểm toán mong muốn
càng giảm xuống mức thấp thì chi phí cho cuộc kiểm toán càng tăng lên. Do
vậy , để cân nhắc một mức rủi ro kiểm toán mong muốn hợp lí đáp ứng lòng
tin của công chúng vào báo cáo tài chính được kiểm toán mà vẫn đảm bảo
Website: Email : Tel : 0918.775.368
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368

mức chi phí kiểm toán ở mức chấp nhận được , KTV cần xem xét các yếu tố
sau:
Quy mô của công ty khách hàng : Sử dụng một số chỉ tiêu như tổng sản
lượng , tổng thu nhập , hay tổng tài sản để đo lường quy mô hoạt động của
khách hàng. Quy mô của khách hàng càng lớn, hoạt động kinh doanh càng
rộng rãi thì lượng người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính của công ty
để làm cơ sở ra các quyết định đầu từ càng nhiều, và nếu có xảy ra sai phạm
trong việc trình bày báo cáo tài chính của công ty ở một quy mô tương đối
nhỏ cũng có thể gây ảnh hưởng tới một quy mô tuyệt đối lớn. Do vậy , rủi ro
kiểm toán mong muốn phải càng giảm khi quy mô của khách hàng càng tăng.
Sự phân phối quyền sở hữu : khi quyền sở hữu công ty thuộc về nhiều
người thì các gian lận sai phạm khó xảy ra. Những người sử dụng thông tin
bên ngoài tin tưởng vào báo cáo tài chinh của công ty sở hữu tập thể hơn là
công ty sở hữu cá nhân. Vì vậy, trong quá trình kiểm toán, KTV có thể đặt
một mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn đối với công ty sở hữu tập thể cao
hơn so với các công ty sở hữu cá nhân.
Bản chất và quy mô công nợ : bản chất và quy mô công nợ có liên quan
đến tính hoạt động liên tục của công ty khách hàng. Khi báo cáo tài chính
chứa một số lượng lớn các khoản công nợ thì chúng có khả năng được sử
dụng rộng rãi hơn bởi những chủ nợ thực tế. Về bản chất, các khoản nợ nhà
cung cấp thường ít nghiêm trọng hơn các khoản nợ vay. Do đó khi kiểm toán
khách hàng có quy mô các khoản nợ vay quá lớn , KTV phải đặt mức rủi ro
kiểm toán mong muốn ở mức thấp hơn khi kiểm toán khách hàng có quy mô
các khoản nợ nhà cung cấp là nhỏ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
15
Mức rủi ro
kiểm toán
Rủi ro đạt tới
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Sơ đồ: Quan hệ giữa rủi ro kiểm toán với chi phí kiểm toán
Thứ hai, KTV phải xem xét khả năng khách hàng gặp khó khăn về tài
chính sau khi báo cáo kiểm toán được phát hành. Nếu KTV thu thập được
thông tin chứng minh khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo
kiểm toán phát hành thì rủi ro kiểm toán mong muốn dự kiến phải đặt ở mức
thấp để có thể bù đắp các rủi ro kinh doanh phát sinh sau này. Để dự đoán
được khả năng gặp khó khăn của khách hàng , KTV phải đánh giá tổng hợp
trên các mặt trọng yếu và tập trung vào các yếu tố sau :
Khả năng thanh toán của khách hàng đặc biệt là khả năng thanh toán
nhanh và thanh toán tức thời có liến quan đến tính hoạt động liên tục của công
ty khách hàng. Khi một khách hàng thường xuyên thiếu tiền mặt và các tài
sản có tính lỏng cao trong thanh toán , KTV phải đánh giá khả năng thanh
toán nhanh và thanh toán tức thời của khách hàng là xấu. Và đây cũng là một
dấu hiệu cho thấy tình trạng khó khăn về tài chính của khách hàng sau khi báo
cáo kiểm toán phát hành. Khi đó rủi ro kinh doanh của khách hàng tăng lên và
rủi ro kiểm toán mong muốn phải để ở mức thấp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
16
Rủi ro mong muốn
Chi phí kiểm toán
0
(Bằng chứng kiểm toán)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các khoản lỗ / lãi trong năm trước của khách hàng : KTV cần xem xét
xu hướng biến động của các khoản lỗ / lãi để dự đoán khả năng hoạt động của
khách hàng trong tương lai. Nếu trong nhiều năm liên tiếp gần đây lợi nhuận
của khách hàng luôn tăng, nhưng tại năm kiểm toán hiện hành, doanh nghiệp
có kết quả làm ăn thua lỗ thì KTV dự đoán hai khả năng có thể xảy ra : hoặc
là có gian lận kế toán nghiêm trọng trong quá trình lập báo cáo tài chính hoặc
công ty đang thực sự gặp khó khăn trong kinh doanh. Nếu có gian lận kế toán

xảy ra thường chỉ làm giảm tốc độ tăng lợi nhuận chứ không làm thay đổi
hoàn toàn kết quả kinh doanh, KTV cần kết hợp với tình hình kinh tế nói
chung và của ngành nói riêng tại năm hiện hành để đánh giá tình trạng của
doanh nghiệp cho hợp lí.
Các phương pháp làm gia tăng quá trình tài trợ : gia tăng nợ là một trong
những cách thức làm gia tăng quy mô vốn của các công ty. Nếu công ty sử
dụng cơ cấu nợ quá cao thì khả năng thanh toán sẽ gặp khó khăn, đe dọa khả
năng hoạt động liên tục của công ty trong tương lai. Đặc biệt, nếu công ty gia
tăng quá nhanh các khoản nợ ngắn hạn thì KTV phải dự đoán tình trạng của
công ty sau khi phát hành báo cáo kiểm toán để giảm rủi ro kiểm toán mong
muốn xuống mức thích hợp.
Bản chất hoạt động kinh doanh của khách hàng : do tính chất và đặc thù
riêng nhiều lĩnh vực kinh doanh tồn tại những rủi ro tiềm ẩn. KTV cần xem
xét đánh giá mức độ rủi ro kinh doanh của công ty khách hàng để đặt mức rủi
ro kiểm toán mong muốn thích hợp, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
rủi ro kinh doanh cao hơn có mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn.
Năng lực và đạo đức kinh doanh của ban giám đốc : ban giám đốc có
đạo đức kinh doanh và khả năng đối phó với các rủi ro kinh doanh tiềm tàng
thì tình trạng khó khăn của doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu ban
Website: Email : Tel : 0918.775.368
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giám đốc phẩm chất đạo đực không tốt và năng lực điều hành yếu kém thì
KTV phải dự đoán trước tình trạng khó khăn của doanh nghiệp. Nếu có sự
thay đổi ban giám đốc, KTV phải xem xét nguyên nhân của sự thay đổi đó và
đánh giá khả năng thích ứng của ban giám đốc mới với công việc.
Như vậy, bên cạnh kinh nghiệm và óc xét đoán nghề nghiệp, KTV phải
xem xét mức độ mà theo đó người sử dụng thông tin bên ngoài tin vào báo
cáo tài chính và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn sau khi báo cáo kiểm
toán phát hành để có thể dự kiến mức rủi ro kiểm toán hợp lí.

2.1.2 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán trong mô hình rủi ro kiểm toán 2.1
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thường biến đổi cùng chiều với
nhau và có quan hệ cùng chiều với số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu
thập, thường được đánh giá chung khi đánh giá rủi ro kiểm toán. Nếu doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mang tính mạo hiểm cao thì rủi
ro tiềm tàng lớn, mặc dù hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả nhưng rủi ro kiểm soát luôn phải được đánh giá ở mức trung
bình trở lên vì những hạn chế cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ và vì rủi
ro kiểm soát luôn tồn tại.
Do tồn tại độc lập, khách quan với các thông tin tài chính, với các thử
nghiệm của KTV nên rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác biệt với rủi ro
phát hiện. Nói cách khác cho dù có tiến hành kiểm toán hay không, rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát vẫn tồn tại trong hoạt động và môi trường kinh doanh
của đơn vị cũng như nằm trong bản chất của những số dư tài khoản hay loại
hình nghiệp vụ. Ngược lại, KTV có thể kiểm soát được rủi ro phát hiện thông
qua việc điều chỉnh nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm. Do
vậy cần phải thiết kế các thủ tục kiểm toán hợp lí để giảm thấp rủi ro kiểm
toán như mức mong muốn với chi phí hợp lí. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
toán và các bộ phận rủi ro cấu thành được khái quát trên sơ đồ dưới đây ( ở
trang sau
Sơ đồ : Rủi ro kiểm toán và các bộ phận cấu thành
Website: Email : Tel : 0918.775.368
19
Rủi ro tiềm tàng
(IR)
Rủi ro kiểm
soát( CR)

Rủi ro phát hiện
( DR)
Rủi ro kiểm
toán(AR)
Có sai
lầm cụ
thể nào
hay
Phát hiện bằng
kiểm toán của
chúng ta
không?
Ý kiến sai
Không
Không
Phát hiện bằng các
thủ tục kiểm soát
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.3 Vai trò của đánh giá rủi ro trong kiểm toán tài chính
VSA số 300 “Lập kế hoạch kiểm toán” cho thấy vai trò của việc đánh
giá rủi ro kiểm toán trong quá trình lập kế hoạch: “Kế hoạch kiểm toán phải
được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng
yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; và
đảm bảo cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn” và “khi xây dựng
chương trình kiểm toán, KTV phải xem xét các đánh giá về rủi ro tiềm tàng,
rủi ro kiểm soát, cũng như mức độ đảm bảo phải đạt được thông qua thử
nghiệm cơ bản”.
VSA 530 “Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác” quy định
về cỡ mẫu như sau: “Kiểm toán phải đảm bảo rủi ro kiểm toán do áp dụng
phương pháp lấy mẫu giảm xuống mức có thể chấp nhận được khi xác định

cỡ mẫu. Cỡ mẫu chịu ảnh hưởng bởi mức rủi ro kiểm toán. Rủi ro kiểm toán
có thể chấp nhận được càng thấp, thì cỡ mẫu cần thiết sẽ càng lớn.” Như vậy
rủi ro kiểm toán có ảnh hưởng một cách trực tiếp đến cỡ mẫu đồng thời ảnh
hưởng tới quá trình thu thập bằng chứng, cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới
hiệu quả của cuộc kiểm toán. Trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán,
KTV phải sử dụng khả năng xét đoán nghề nghiệp để đánh giá rủi ro tiềm
tang thấp đến mức có thể chấp nhận được.
VSA 240 “Gian lận và sai sót” cũng quy định: “Khi lập kế hoạch và
khi thực hiện kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro về
những gian lận và sai sót có thể có, làm ảnh hưởng trọng yếu đến bảng khai
tài chính và phải trao đổi với Giám đốc (hoặc người đứng đầu đơn vị) về mọi
gian lận hoặc sai sót quan trọng phát hiện được.”
Website: Email : Tel : 0918.775.368
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy có thể thấy đánh giá rủi ro kiểm toán được đề cập đến trong
suốt cuộc kiểm toán, cho thấy tầm quan trọng và mức ảnh hưởng của nó tới
công việc kiểm toán bảng khai tài chính.
Đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính là thực sự cần thiết.
Thông qua đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ đánh giá được rủi ro phát hiện, nhóm
kiểm toán viên sẽ xác định được kế hoạch kiểm toán, xây dựng chương trình
kiểm toán phù hợp. Từ đó kiểm toán viên sẽ xác định số lượng bằng chứng
kiểm toán cần thu thập và tiến hành thu thập những bằng chứng kiểm toán có
hiệu lực. Đây là một công việc rất quan trọng giúp kiểm toán viên cũng như
công ty kiểm toán giữ được uy tín nghề nghiệp, đạt được hiệu quả kiểm toán
mong muốn, giảm thiểu khả năng sai sót, nghĩa vụ pháp lý và có được những
thuận lợi để phát triển tốt trong tương lai.
Chính vì vậy mà công việc đánh giá rủi ro kiểm toán là rất quan trọng
và cần được thực hiện bởi các kiểm toán viên có trình độ cao.
2.1.4 Quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính.

Hiện nay, mô hình rủi ro kiểm toán 2.1 đang được sử dụng rộng rãi trong
kiểm toán tài chính ( mô hình 2.1.2 được nhiều công ty kiểm toán áp dụng ).
Mô hình này được sử dụng trong quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán được
thực hiện trong bước lập kế hoạch kiểm toán. Để hiểu rõ hơn về ứng dụng của
mô hình 2.1 vào thực tế, chúng tôi đưa ra một quá trình đánh giá rủi ro kiểm
toán của một công ty kiểm toán độc lập – Deloitte Việt Nam. Quy trình này
gồm ba bước cơ bản:
Đánh đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán ( xem 2.1.4.1)
Đánh giá rủi ro kiểm toán trên bảng khai tài chính. ( xem 2.1.4.2 )
Đánh giá rủi ro kiểm toán trên số dư các khoản mục và nghiệp vụ. ( xem
2.1.4.3)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.4.1 ĐÁNH GIÁ RỦI RO CHẤP NHẬN HỢP ĐỒNG KIỂM TOÁN
Đây là công việc tiền kiểm toán với mục đích xác định có thể tiếp tục
kiểm toán cho một khách hàng cũ hoặc thực hiện một hợp đồng kiểm toán với
khách hàng mới, trên cơ sở đó sẽ tiến hành xây dựng kế hoạch kiểm toán phù
hợp. Các tài liệu và thông tin thu thập được trong giai đoạn này sẽ được lưu
lại. Trước khi kí kết hợp đồng kiểm toán, KTV phải thu thập những thông tin
chung nhất về khách hàng kiểm toán để có thể đưa ra những nhận định ban
đầu về rủi ro của hợp đồng và đưa đến kết luận có thực hiện kiểm toán cho
khách hàng đó hay không. Những thông tin này thường tập trung vào: đặc
điểm, ngành nghề, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của khách hàng, hình thức
sở hữu, quy mô của khách hàng, các đối thủ cạnh tranh, cơ cấu tổ chức bộ
máy quản lý,…và thường được lưu trong Hồ sơ kiểm toán chung.
Bất kỳ một cuộc kiểm toán nào cũng có thể xảy ra rủi ro. Deloitte Việt
Nam quy định có thể đánh giá rủi ro của cuộc kiểm toán ở một trong các mức
sau:
- Nếu rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán là bình thường thì Giám đốc

nghề nghiệp phụ trách và trưởng nhóm kiểm toán đại diện cho Deloitte Việt
Nam sẽ xem xét chấp nhận hợp đồng kiểm toán với khách hàng và thảo luận,
thiết lập các điều khoản trong hợp đồng.
- Nếu rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán cao thì Giám đốc phải xem
xét để đưa ra kết luận cuối cùng. Nếu có nghi ngờ về khả năng chấp nhận hay
tiếp tục với khách hàng thì công ty cần thu thập ý kiến của các chuyên gia tư
vấn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nếu rủi ro chấp nhận hợp đồng là rất cao thì công ty không chấp nhận
hợp đồng kiểm toán vì khi đó chất lượng của cuộc kiểm toán không đảm bảo
theo đúng tiêu chuẩn của Deloitte Touche Tohmatsu.
Để thu thập được các nguồn thông tin đánh giá rủi ro chấp nhận hợp
đồng kiểm toán, KTV dựa vào các cách thức sau:
- Kinh nghiệm và sự hiểu biết của kiểm toán viên về công ty khách hàng
và lĩnh vực kinh doanh của khách hàng nếu trong các năm kiểm toán trước
KTV đã thực hiện kiểm toán cho khách hàng.
- Trao đổi với KTV tiền nhiệm đối với khách hàng truyền thống của
Deloitte Việt Nam song năm nay có thể thay đổi nhóm kiểm toán thực hiện
hợp đồng kiểm toán đó.
- Xem xét hồ sơ kiểm toán các năm trước.
- Thu thập các văn bản pháp lý có liên quan.
- Trao đổi với ban giám đốc, kế toán trưởng công ty khách hàng.
Trong năm 2007, Doloitte Việt Nam đã tiến hành kiểm toán cho doanh
nghiệp Y. Đây là khách hàng truyền thống của công ty. Qua quá trình tìm
hiểu và thu thập thông tin để đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán,
thì KTV đã thu được kết quả sau:
Công ty Y là một công ty cổ phần được thành lập theo Quyết định số
54/BXD/TCLĐ ngày 28 tháng 01 năm 1997 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng.

Theo quyết định số 1007/QĐ-BXD ngày 18/02/2005 của Bộ trưởng Bộ xây
dựng về việc thực hiện cổ phần hoá các công ty thành viên hạch toán độc lập
thuộc Tổng Công ty xi măng Việt Nam, công ty Y đã được tiến hành cổ phần
hoá. Ngày 01/05/2006, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đã cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh số 0603000105, công ty Y chính thức trở thành
Website: Email : Tel : 0918.775.368
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công ty cổ phần và hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Vốn điều lệ của
công ty là 900 tỷ VND. Trụ sở chính: Thanh Sơn, Kim Bảng, Hà Nam.
Ngành nghể kinh doanh: sản xuất và kinh doanh xi măng và các sản
phẩm từ xi măng; sản xuất và kinh doanh các loại vật liệu xây dựng khác;
kinh doanh các ngành nghể phù hợp với quy định của pháp luật.
Hội đồng quản trị gồm có 5 thành viên và ban giám đốc gồm 6 thành
viên do ông Bùi Văn Tròn làm giám đốc.
Công ty Y là khách hàng kiểm toán lâu năm của Deloitte Việt Nam,
nhóm kiểm toán thực hiện kiểm toán cho công ty Y không thay đổi. Thực tế
cho thấy trong các năm kiểm toán trước đây, khi kiểm toán cho công ty Y,
kiểm toán viên không thấy tồn tại các sai phạm nghiêm trọng. Nhưng trong
năm 2007, công ty Y tiến hành bán đấu giá cổ phần ra thị trường, do đó có
khả năng sẽ xảy ra nhiều sai phạm. Mặt khác, có rất nhiều cổ đông và các nhà
đầu tư quan tâm đến thông tin chính xác của kiểm toán viên. Từ thực tế trên,
kiêm toán viên đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán với công ty Y ở
mức cao hơn bình thường. Deloitte Việt Nam chấp nhận hợp đồng kiểm toán
với công ty Y cho năm kiểm toán 2007.
Sau khi có quyết định thực hiện hợp đồng kiểm toán và phân công
nhóm kiểm toán thì các kiểm toán viên phải cam kết về tính độc lập của mình
trong quá trình thực hiện kiểm toán. Bản cam kết này được coi là cơ sở chắc
chắn và ràng buộc về tính độc lập của kiểm toán viên. Mặt khác, do Doloitte
VN là một phần của Doloitte Touche Tohmatsu nên hàng năm DTT đều cử

các chuyên gia sang Deloitte VN để rà soát lại tính độc lập của KTV trong các
cuộc kiểm toán. Nếu phát hiện có sự vi phạm quy chế về tính độc lập của
KTV, DTT có quyền bác bỏ vị trí thành viên của Deloitte Việt Nam trong
hãng kiểm toán DTT. Do vậy, để đảm bảo danh tiếng và sự phát triển bền
Website: Email : Tel : 0918.775.368
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vững của công ty, Deloitte Việt Nam luôn yêu cầu các nhân viên phải tuyệt
đối tuân thủ quy chế về tính độc lập của KTV. Sau đây là bảng cam kết về
tính độc lập đối với công ty Y và bảng câu hỏi mà KTV phải trả lời để khẳng
định cho tính độc lập mà KTV cam kết:
Số 8 Phạm Ngọc Thạch
Đống Đa – Hà Nội
CÔNG TY TNHH DELOITTE VIỆT NAM
CÂU HỎI VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA KIỂM TOÁN VIÊN
Khách hàng: Công ty cổ phần Y Kỳ kế toán kết thúc:
31/12/2007
Câu hỏi Có Không
1. Kiểm toán viên có góp vốn cổ phần trong công ty sắp tiến hành
kiểm toán không?
x
2. Kiểm toán viên có vay vốn của khách hàng không? x
3. Kiểm toán viên có là cổ đông chi phối của công ty khách hàng
không?
x
4. Kiểm toán viên có cho khách hàng vay vốn không? x
5. Kiểm toán viên có ký kết hợp đồng gia công sản phẩm với công ty
khách hàng không?
x
6. Kiểm toán viên có cung cấp nguyên vật liệu hay dịch vụ cho

khách hàng không?
x
7. Kiểm toán viên có quan hệ họ hàng thân thích với những người
trong bộ máy quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các
trưởng phó phòng và những người tương đương) của khách hàng
không?
x
8. Kiểm toán viên có làm đại lý bán sản phẩm cho khách hàng x
Website: Email : Tel : 0918.775.368
25

×