Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

so sánh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.29 KB, 17 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi
mới cơ chế kinh tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh
doanh. Ngày 14- 11- 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Thương mại số 36/
2005- QH 11 quy định về hoạt động thương mại (chính thức có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2006, thay thế luật thương mại- 1997) nhằm tạo thành
một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho các thương nhân trong hoạt động
thương mại.
Cũng giống như Luật thương mại 1997, Luật thương mại 2005 cũng
quy định khá đầy đủ và chi tiết về mua bán hàng hoá, hợp đồng mua bán
hàng hoá. Tuy nhiên để hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mua
bán hàng hoá nói riêng đi vào chiều sâu, đòi hỏi mỗi thành phần kinh tế, mỗi
cá nhân cần phải tìm hiểu, tiếp cận và nhận thức đúng đắn các hoạt động
thương mại theo đúng luật, nhằm hạn chế những tổn hại kinh tế không đáng
có, để các quy định của luật thương mại thực sự có ích trong cuộc sống, tạo
thuận lợi cho mọi chủ thể của hoạt động thương mại.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, với bài tập nhóm tháng
thứ nhất môn Luật Thương Mại 2, nhóm 2 lớp N02 TL1 chúng em xin chọn
đề tài: “Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng
hóa vô hiệu” với mong muốn được hiểu cũng như làm rõ hơn về vấn đề này.
Sau đây là toàn bộ nội dung chính trong bài làm của chúng em.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ, HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA
Chế định hợp đồng là một trong những chế định ra đời sớm nhất trong


hệ thống pháp luật. Kể từ khi loài người có hoạt động giao lưu, trao đổi với
nhau thì cơ sở cho việc hình thành hợp đồng đã ra đời, cho dù hợp đồng ở
thời kỳ đầu tiên này còn ở dạng thô sơ nhất. Về phương diện pháp lý, hợp


đồng là một trong những chế định quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật,
nhất là pháp luật dân sự và pháp luật kinh doanh.
1.

Hợp đồng dân sự

Hợp đồng dân sự là khái niệm chung nhất và cũng là cơ bản nhất trong
chế định hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Khái niệm hợp đồng dân sự
được đề cập tại điều 388 Bộ luật dân sự 2005, theo đó “Hợp đồng dân sự là
sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Qua định nghĩa về hợp đồng dân sự được nêu trong điều
luật, có thể thấy, hợp đồng dân sự có những yếu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên.
Thứ hai, hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và
thống nhất ý chí giữa cá chủ thể tham giaquan hệ hợp đồng đó.
Thứ ba, hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ
hợp đồng là nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
dân sự.
Thứ tư, sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
như giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa,…
2.

Hợp đồng mua bán hàng hóa

Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình
thức pháp lí là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hóa có
bản chất chung của hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Dù Luật Thương
mại 2005 không đưa ra định nghĩa về Hợp đồng mua bán hàng hóa song có
thể các định bản chất pháp lí của Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương



mại trên cơ sở điều 428 của Bộ luật Dân sự về hợp đồng mua bán tài sản. Do
đó, Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của
HĐMBTS, dù vẫn mang những nét đặc thù riêng. Hợp đồng mua bán hàng
hóa có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể, hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa
các chủ thể chủ yếu là thương nhân. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa có thể là thương nhân Việt Nam hoặc là thương nhân
nước ngoài. Bên cạnh chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không
phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán
hàng hóa (trong trường hợp các chủ thể chọn Luật thương mại để điều chỉnh
hoạt động của mình)
Thứ hai, về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập theo
cách thức nào mà cả hai bên thể hiện được sự thỏa thuận mua bán hàng hóa
giữa các bên. Theo điều 24 Luật thương mại 2005: “Hợp đồng mua bán
hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ th ể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật
quy định phải dược lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Thứ ba, về đối tượng, hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng
hóa. Tuy nhiên không thể hiểu theo nghĩa thông thường, hàng hoá là sản
phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu
của con người hay chỉ bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu,
vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường,
nhà ở dùng để kinh doanh đưới hình thức cho thuê, mua, bán (khoản 3 Điều
5 Luật Thương Mại 1997). Luật Thương mại 2005 quy định :
“Hàng hoá bao gồm :
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đât đai.”



Như vậy, hàng hoá trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là
hàng hoá hiện đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là
động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại và phải loại trừ
một số hàng hoá đặc biệt chịu sự điều chỉnh riêng như cổ phiếu, trái phiếu…
Thứ tư, về nội dung, hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và
nghĩa vụ cả các bên trong quan hệ mua bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn
bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán.
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Về mặt lý thuyết, một hợp đồng mua bán có thể được hình thành theo
nhiều cách thức khác nhau, theo đó chứng tỏ giữa các bên đã đạt được sự
thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là thời điểm mà
các bên đã đạt được sự thỏa thuận. Trong quá trình xác lập hợp đồng mua
bán hàng hóa, các vấn đề pháp lý cơ bản cần được làm rõ là: (1) Đề nghị
giao kết hợp đồng; (2) Chấp nhận đề nghị hợp đồng; (3) Thời điểm giao kết
hợp đồng. Những vấn đề này không được Luật thương mại 2005 quy định cụ
thể, vì vậy các quy định của BLDS 2005 sẽ được áp dụng đối với việc giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong thương mại, hợp đồng được giao kết
theo các nguyên tắc quy định cho hợp đồng dân sự nói chung. BLDS 2005
có quy định việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo những nguyên tắc cơ
bản, đó là: Tự do giao kết nhưng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng (Điều
389 BLDS 2005). Việc tuân thủ các nguyên tắc giao kết hợp đồng có ý
nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
phù hợp với ý chí thực của họ, hợp đồng có thể mang lại lợi ích cho các bên
đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ.
Khi giao kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, các bên giao kết phải



tuân thủ theo các thủ tục giao kết dưới đây:
1. Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán:
Đề nghị giao kết hợp đồng có bản chất là hành vi pháp lí đơn phương
của một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể
khác theo những điều kiện xác định. Từ quy định của Điều 390 BLDS 2005,
có thể định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng trong thương mại là việc thể
hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của
bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể. Về nguyên tắc, hình thức
của đề nghị hợp đồng phải phù hợp với hình thức của hợp đồng. BLDS 2005
không quy định về hình thức của đề nghị hợp đồng, song có thể dựa vào quy
định về hình thức của hợp đồng để xác định hình thức của đề nghị hợp đồng,
theo đó đề nghị hợp đồng có thể được thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc
hành vi cụ thể hoặc kết hợp giữa các hình thức này. Trường hợp pháp luật
quy định hình thức của hợp đồng phải bằng văn bản thì hình thức của đề
nghị hợp đồng cũng phải bằng văn bản.
Đề nghị hợp đồng được gửi đến một hoặc nhiều chủ thể đã xác định.
Hiệu lực của nó thông thường do các bên tự ấn định. Trường hợp bên đề
nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề nghị hợp đồng thì đề nghị
giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị
đó. Căn cứ xác định bên được đề nghị đã nhận được đề nghị giao kết hợp
đồng là khi: Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú hoặc trụ sở của bên được
đề nghị. Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được
đề nghị. Bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua
các phương thức khác.
Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Trong thời
hạn đề nghị hợp đồng có hiệu lực, nếu bên được đề nghị thông báo chấp
nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng hình thành và ràng buộc


các bên. Nếu các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải

chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận phù hợp với
quy định của pháp luật.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao
kết hợp đồng trong các trường hợp như: Bên được đề nghị nhận được thông
báo về việc thay đổi hoặc rút ngắn lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm
nhận được đề nghị. Điều kiện thay đổi hoặc rút ngắn lại đề nghị phát sinh
trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề
nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền
này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này
chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên
được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp: bên
nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận. Hết thời hạn trả lời chấp nhận,
thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực, theo thỏa thuận
của bên đề nghị và bên nhận đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả
lời.
2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị
đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Thời
hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định khác nhau trong các
trường hợp cụ thể như sau:
Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ
có hiệu lực khi thực hiện trong thòi hạn đó. Nếu bên đề nghị giao kết hợp
đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi
là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận
giao kết hợp đồng đến chậm vì lí do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc


phải biết về lí do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng
vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với

chấp nhận đó của bên được đề nghị.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trường hợp qua điện
thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay
có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận về thời
hạn trả lời. Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp
nhận giao kết hợp đồng. Nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời
điểm bên đề nghị nhận được trả chấp nhận giao kết hợp đồng.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán
Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết vào thời điểm các bên đạt được
sự thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định khác nhau phụ
thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Theo quy định của
BLDS 2005 – Điều 404, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng trong
kinh doanh theo các trường hợp như sau:
- Trường hợp hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm
giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng kí tên vào văn bản.
- Trường hợp hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông
quan các tài liệu giao dịch): thời điểm đạt được sự thỏa thuận được xác định
theo lý thuyết (tiếp nhận), theo đó hợp đồng được giao kết khi bên đề nghị
nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
- Trường hợp hợp đồng được giao kết hợp đồng bằng lời nói: thời điểm
giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp
đồng. Các bên có thể sử dụng những biện pháp, chứng cứ hợp pháp để
chứng minh việc các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng bằng lời
nói.
Sự im lặng của các bên được đề nghị đến khi hết thời hạn trả lời cũng


có thể là căn cứ xác định hợp đồng đã được giao kết, nếu có thỏa thuận im
lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng (khoản 2, điều 404 BLDS).
III. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU

1.Hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực
Hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán nói riêng có hiệu lực là hợp
đồng được pháp luật thừa nhận có giá trị ràng buộc các bên trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ đã được thỏa thuận. Một hợp đồng chỉ được coi
là có hiệu lực nếu đồng thời thỏa mãn các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, các bên phải hoàn toàn tự nguyện khi giao kết hợp đồng;
Thứ hai, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm
của pháp luật và không trái đạo đức xã hội;
Thứ ba, chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự;
Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp
luật nếu pháp luật có yêu cầu hợp đồng phải được xác lập bằng một hình
thức nhất định.
Như vậy, một hợp đồng mua bán hàng hóa mà vi phạm một trong bốn
điều kiện trên sẽ bị vô hiệu, nhưng tùy theo sự vi phạm nội dung gì mà sẽ rơi
vào vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối.
2. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
nói riêng là hợp đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo
quy định của pháp luật. Tuy nhiên các hợp đồng vô hiệu có sự khác nhau về
tính chất và mức độ ảnh hưởng đến các lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Việc
quy định cụ thể các trường hợp hợp đồng vô hiệu có ý nghĩa quan trọng
trong việc xử lý một cách hợp lý và hiệu quả các hợp đồng vô hiệu trong các
trường hợp khác nhau, bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng cũng như
lợi ích của các chủ thể có liên quan. Theo quy định của bộ luật dân sự 2005,


các trường hợp hợp đồng kinh doanh vô hiệu được áp dụng theo các quy
định về giao dịch dân sự vô hiệu nói chung, theo đó một hợp đồng mua bán
hàng hóa vô hiệu trong những trường hợp chủ yếu sau:
- Vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội:

Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật có nội dung không
cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là
những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội,
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Biểu hiện cụ thể của vi phạm điều
cấm trong hợp đồng là các bên thỏa thuận với nhau để thực hiện những công
việc mà pháp luật không cho phép thực hiện như: sản xuất, tiêu thụ hàng giả;
mua bán, vận chuyển hàng cấm; cung ứng dịch vụ bị cấm thực hiện; dịch
chuyển tài sản trái phép hay những thỏa thuận gây thiệt hại cho lợi ích của
người thứ ba…Theo cách hiểu thông thường, nội dung hợp đồng gồm toàn
bộ cam kết của các bên được thể hiện dưới dạng điều khoản. Nhưng khi xem
xét về nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không,
cần lưu ý điều khoản đối tượng của hợp đồng. Khi nội dung của điều khoản
này vi phạm điều cấm của pháp luật làm hợp đồng vô hiệu toàn bộ thì các
điều khoản hợp pháp khác của hợp đồng cũng sẽ bị vô hiệu theo. Để xác
định nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không,
cần lưu ý các quy phạm cấm đoán trong các văn bản pháp luật.
- Vô hiệu do giả tạo: khi các bên giao kết hợp đồng một cách giả tạo
nhằm che giấu một hợp đồng khác thì hợp đồng giả tạo vô hiệu, còn hợp
đồng bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp hợp đồng bị che dấu cũng
vô hiệu theo quy định của pháp luật.
- Vô hiệu do nhầm lẫn: Một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn
về nội dung của hợp đồng mà giao kết, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu
bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng đó, nếu bên kia không chấp nhận thì


bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
- Vô hiệu do lừa dối: Lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc của
người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của
đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã giao kết hợp đồng đó. Khi
một bên giao kết hợp đồng do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên

bố hợp đồng vô hiệu
- Vô hiệu do bị đe dọa: đe dọa là hành vi cố ý của một bên hoặc người
thứ ba làm cho bên kia buộc phải giao kết và thực hiện hợp đồng nhằm tránh
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của
mình hoặc của cha , mẹ, vợ, chồng, con của mình. Khi một bên giao kết hợp
đồng do bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô
hiệu.
- Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình: người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã giao kết hợp đồng vào
đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.
- Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức: trong trường hợp pháp luật
quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các
bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy
định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà
không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Ngoài ra cần lưu ý về hai vấn đề: hợp đồng vô hiệu do chủ thể không
đảm bảo điều kiện về đăng kí kinh doanh và hợp đồng vô hiệu do người đại
diện không đúng thẩm quyền ký kết.
Mặc dù BLDS 2005 không quy định cụ thể về trường hợp hợp đồng
mua bán hàng hóa vô hiệu do chủ thể hợp đồng không đảm bảo điều kiện về


đăng kí kinh doanh, song có thể suy ra trường hợp vô hiệu này từ các quy
định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Một trong các bên kí kết hợp
đồng không có đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện
công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu. Việc
không đăng kí kinh doanh để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp
đồng thể hiện chủ thể hợp đồng không có năng lực chủ thể để thực hiện các

nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh. Tuy nhiên, đăng kí kinh doanh chỉ đòi
hỏi bắt buộc với chủ thể là thương nhân. Vì vậy nếu pháp luật quy định chủ
thể trong một hợp đồng mua bán hàng hóa phải có đăng kí kinh doanh mà
bên đó không có đăng kí kinh doanh thì hợp đồng đó bị coi là vô hiệu toàn
bộ. Để xác định hợp đồng mua bán hàng hóa có bị vô hiệu do một bên
không có đăng kí kinh doanh để thực hiện nội dung đã thỏa thuận hay
không, cần nghiên cứu kĩ nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa để xem
các bên có những nghĩa vụ cụ thể gì? Việc thực hiện các nghĩa vụ đó có phù
hợp với đăng kí kinh doanh của từng bên hay không? Những hàng hóa các
bên được quyền kinh doanh?
Pháp luật dân sự cũng không quy định trường hợp hợp đồng vô mua
bán hàng hóa vô hiệu do được kí kết bởi người đại điện không đúng thẩm
quyền. Song trường hợp này có thể áp dụng quy định về đại diện và phạm vi
đại diện để xác định hiệu lực của hợp đồng. Khi người không có quyền đại
diện giao kết, thực hiện hợp đồng, sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
đối với bên được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện hợp pháp của
bên được đại diện chấp thuận. Giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện
vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người
được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại
diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản
đối. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện ( hoặc vượt quá


phạm vi đại diện) có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ
giao dịch ( hoặc đối với phần vượt quá phạm vi được đại diệ) đã xác lập và
yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về
việc không có quyền đại diện và việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao
dịch.
Phạm vi đại diện cần phải được xác định đối với cả đại diên theo pháp
luật và đại diện theo ủy quyền. Nếu như văn bản ủy quyền là cơ sở cho phép

xác định phạm vi đại diện của người đại diện thì quy định pháp luật là cơ sở
cho phép xác định phạm vi đại diện của người đai diện theo pháp luật.
Tùy thuộc vào mức độ của sự vô hiệu hợp đồng, hợp đồng vô hiệu
trong các trường hợp nói trên được phân chia thành: Hợp đồng vô hiệu toàn
bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần. Hợp đồng vô hiêu toàn bộ là hợp đồng
mà tất cả các nội dung của hợp đồng không có giá trị pháp lý, các bên không
phải thực hiện nghĩa vụ và cũng không được hưởng các quyền theo hợp
đồng. Hợp đồng vô hiệu từng phần là những hợp đồng có nội dung nào đó
vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu nhưng không làm ảnh hưởng
đến các nội dung còn lại của hợp đồng.
Cuối cùng khi một hợp đồng vô hiệu thì sẽ bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Nhìn chung, pháp luật các nước đều có quan điểm xử lý rất
nghiêm khắc đối với các hợp đồng vô hiệu, đặc biệt là đối với bên chủ thể đã
có lỗi trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng vô hiệu. Theo BLDS 2005,
một hợp đồng bị vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên từ thời điểm giao kết. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu
được thực hiện theo quy định sau:
+ các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu không hoàn trả
được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền ( trừ trường hợp tài sản bị tịch thu
theo quy định của pháp luật).


+ Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
IV. THỰC TIỄN VỀ VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT
LIÊN QUAN ĐẾN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU
Trong những năm gần đây, số lượng các vụ việc do Tòa án giả quyết
liên quan đến việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu là rất hiếm(mỗi năm tòa án chỉ
giải quyết 1 đến 2 vụ liên quan đến hợp đồng vô hiệu)
Tại sao các vụ việc liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu

lại ít được tòa án giải quyết như vậy? Có thể lý giải như sau, các quy định
của pháp luật hiện nay đã hạn chế tối đa các trường hợp hợp đồng thương
mại vô hiệu. Đặc biệt là từ khi Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối ca ra
Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 hướng dẫn một số quy
định của pháp luật trong việc giải quyết một số vụ án kinh tế, đã giới hạn các
trường hợp hợp đồng kinh tế bị tuyên bố vô hiệu do yếu tố chủ thể không có
đăng kí kinh doanh, do đồng tiền thanh toán, do chủ thể kí không đúng thẩm
quyền. Các hướng dẫn trong nghị quyết và BLDS 2005 đã góp phần hạn chế
tối đa các trường hợp các bên tham gia hợp đồng lợi dụng những “lỗ hổng”
của pháp luật để yêu cầu tuyên bố vô hiệu.
Hiện nay các quy định về hợp đồng thương mại vô hiệu được các chủ
thể chủ thể tham gia giao kết hợp đồng vận dụng hêt sức linh hoạt vào thực
tiễn giao kết các hợp đồng nên hạn chế tối đa các trường hợp hợp đồng
thương mại vô hiệu do thiếu hiểu biết pháp luật của các bên chủ thể.
Các trường hợp vô hiệu mà thương nhân thường gặp là do không đáp
ứng điều kiện kinh doanh và đồng tiền thanh toán không phù hợp với đồng
tiền thanh toán không phù hợp với quy định của pháp luật về quản lý ngoại
hối. Tuy nhiên pháp luật nước ta tôn trọng sự thỏa thuận của các bên và tạo
điều kiện cho công dân thực hiện quyền tự do kinh doanh nên các khiếm


khuyết trên được các chủ thể trong quá trình kinh doanh khắc phục bằng
việc được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh bổ sung và thỏa thuận lại
thanh toán bằng đồng Việt Nam hoặc thỏa thuận sử dụng ngoại tệ làm đồng
tiền định giá nhưng việc thanh toán vẫn là đồng Việt Nam. Do đó, các vụ
việc liên quan đến hợp đồng vô hiệu là không nhiều.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hợp đồng thương mại vô hiệu, để đưa ra
một phán quyết bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên chủ thể thẩm phán gặp
rất nhiều khó khăn trong việc vận dụng các quy định của pháp luật. Trong
giai đoạn hiện nay khi BLDS 2005 ra đời thay thế hàng loạt các văn bản

trước đó điều chỉnh các quan hệ dân sự là pháp lệnh hợp đồng 1989 vẫn còn
ảnh hưởng khá lớn trong lĩnh vực kinh tế. Việc giải quyết, các vụ án hợp
đồng vô hiệu (được kí kết căn cứ pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989) trong
điều kiện áp dụng BLDS 2005 đã gặp nhiều vướng mắc trong thực tế.
Nguyên nhân là do những bất cập của các văn bản hợp đồng kinh tế trước
đây.
V. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1. Kiến nghị về phía cơ quan nhà nước
Pháp luật về mua bán hàng hoá nói chung và về hợp đồng mua bán
hàng hoá nói riêng theo Luật Thương mại 2005 đã thực sự là cầu nối giữa
các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như các doanh nghiệp trong
nước với doanh nghiệp nước ngoài.
Tuy nhiên hiệu lực của Luật Thương mại 2005 tính đến thời điểm này
mới chỉ là hơn một năm. Ưu điểm của nó so với Luật Thương mại 1997 như
đã nói ở các phần trước là quá rõ, tuy nhiên những nhược điểm của nó đến
thời điểm này khó có thể thấy được. Chúng em mong rằng các cơ quan có


thẩm quyền trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn luật này sẽ sáng
suốt và nhạy bén để các quy định của Luật Thương mại 2005 thực sự đi vào
cuộc sống và là hành lang pháp lý hữu hiệu cho các doanh nghiệp Việt Nam
trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
2. Kiến nghị đối với công ty
2.1. Đối với cán bộ công nhân viên của Công ty
Trong sự phức tạp và đầy những thử thách của nền kinh tế thị trường
như ở nước ta hiện nay thì việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật nói
chung và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng cho các cán bộ
kinh doanh là thật sự cần thiết. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tránh được
những rủi ro không đáng có khi giao kết và thực hiên hợp đồng. Doanh

nghiệp tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên của mình được tiếp cận với
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định về hợp đồng mua bán
hàng hoá.
2.2. Đối với vấn đề căn cứ giao kết hợp đồng
Khi Luật Thương mại năm 2005 bắt đầu có hiệu từ ngày 01-01-2006,
thì trong giai đoạn hiên nay, nếu Công ty thực hiện giao kết hợp đồng mua
bán hàng hoá với khách hàng thì cần phải căn cứ vào Luật Thương mại 2005
và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thương mại 2005. Tránh trường
hợp Công ty vẫn quen theo việc căn cứ vào Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
1989, nếu làm vậy thì hợp đồng giao kết sẽ không có hiệu lực.
2.3. Vấn đề chủ thể giao kết hợp đồng
Trước khi thực hiện việc giao kết hợp đồng Công ty cần tìm hiểu tính
chất chủ thể của khách hàng. Nếu thấy khách hàng không đủ tư cách chủ thể
để giao kết hợp đồng thì Công ty phải dừng ngay việc giao kết để tiếp tục
xác minh. Khi bên khách hàng có đủ giấy tờ xác minh tư cách chủ thể mới
tiến hành giao kết.


2.4. Đối với hình thức và nội dung của hợp đồng
Theo Luật Thương mại 2005 hình thức của hợp đồng khá đa dạng có
thể bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên ở Công
ty, hình thức kí kết chủ yếu là bằng văn bản, Công ty có thời gian để chuẩn
bị các thủ tục. Hợp đồng mua bán hàng hoá ở Công ty có giá trị tương đối
lớn do đó hình thức giao kết hợp đồng bằng văn bản là rất đúng, Công ty
không nên thực hiện giao kết hợp đồng bằng lời nói.
Các nội dung trong hợp đồng của Công ty cần quy định chi tiết và chặt
chẽ về vấn đề thanh toán, chuyển rủi ro, chuyển quyền sở hữu và vấn đề giải
quyết tranh chấp. Hiện tại Công ty không có vụ tranh chấp nào xảy ra về vấn
đề thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá, tuy nhiên việc quy định chi tiết và
chặt chẽ các vấn đề trên là hoàn toàn không thừa. Nó sẽ giúp Công ty yên

tâm hơn trong thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và có thể tự bảo vệ
mình trước pháp luật.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành
tựu nổi bật. Nhưng quá trình đó càng đi vào chiều sâu và bề rộng thì càng
bộc lộ rõ những vấn đề mới cần giải quyết. Tự do, năng động, sáng tạo, nhạy
bén là thuộc tính khách quan và là yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhưng
gắn liền với nó là nguy cơ tự do về Chính phủ, gian lận kinh doanh, thương
mại… Hơn nữa, trong giai đoạn này nước ta đã thực sự hội nhập vào nền
kinh tế quốc tế (gia nhập WTO) thì càng cần thiết đòi hỏi Nhà nước phải có
một khung pháp lý Thương mại hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt động đó
đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của
Nhà nước.
Trên đây là toàn bộ bài tập nhóm tháng thứ nhất của chúng em với đề


tài: “Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa
vô hiệu”. Vì đây là một đề tài khá rộng, có thể tiếp xúc từ nhiều khía cạnh
mà khuôn khổ bài tập nhóm tháng có hạn nên có thể bài làm của chúng em
không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý
từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!



×