Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.98 KB, 87 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
• Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu:
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế
thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam; Đầu tư vốn, công nghệ, phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giúp các ngân hàng Việt Nam, đặc
biệt các ngân hàng có Nhà nước là cổ đông lớn, phát huy lợi thế so sánh của
mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước
ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư, các ngân hàng Việt Nam đang gặp
phải thách thức to lớn trong cạnh tranh với các đối thủ trong ngành
Với lịch sử hình thành và phát triển 50 năm, ngân hàng TMCP Ngoại
Thương Việt Nam là một trong những ngân hàng thương mại lớn nhất của
hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam. Nhưng trước áp lực cạnh tranh ngày
càng gay gắt với các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, và
trước áp lực đối với sự phát triển nhanh của các tổ chức tài chính khác, ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam vẫn còn tồn tại một số
hạn chế về năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động đầu tư vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng và lợi thế.
Xuất phát từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu đánh giá năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam nói riêng, đồng thời đưa ra các biện pháp đầu tư
nâng cao tiềm lực tài chính, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, máy móc thiết
bị, công nghệ và nguồn nhân lực cho Vietcombank là một đòi hỏi cấp thiết.
Vì vậy đề tài “Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam” được chọn để nghiên cứu nhằm đưa ra những
phương hướng, giải pháp trong đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của Ngân hàng TMCP Ngoại thương, góp phần phát triển và khẳng định vị
thế của mình trong lĩnh vực ngân hàng.


Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


2

• Mục tiêu:
Một là, làm rõ các khái niệm học thuật liên quan đến cạnh tranh và đầu tư
nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, nguồn vốn đầu tư,
các nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh trong ngân hàng qua các chỉ tiêu.
Hai là, tìm hiểu quá trình đầu tư phát triển tại Vietcombank trong những
năm gần đây qua việc phân tích số liệu, so sánh với các NHTM khác, từ đó,
thấy được hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là quan trọng cho
sự tồn tại và phát triển của Vietcombank.
Ba là, tác giả tìm hiểu, phân tích các số liệu đưa ra các giải pháp định tính
và định lượng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank, cũng
có thể xem xét cho các ngân hàng khác trong điều kiện thích hợp.
• Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương
pháp: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương
pháp đối chiếu so sánh, phương pháp logic, phương pháp mô tả và khái quát
hóa đối tượng nghiên cứu.

• Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quy mô và chất lượng đầu tư
phát triển tại ngân hàng Vietcombank. Qua đó, chỉ ra được những lợi thế so
sánh làm nâng cao năng lực cạnh tranh của Vietcombank so với các đối thủ
trên thị trường. Đề tài cũng đưa ra định hướng cho đầu tư phát triển tại
Vietcombank làm nâng cao năng lực cạnh tranh
Phạm vi nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu đề tài qua các thông tin, số
liệu của Vietcombank và các ngân hàng đối thủ, số liệu của Ngân hàng Nhà

nước, các bảng số liệu từ các công ty kiểm toán nước ngoài, qua đó, so sánh
sự cạnh tranh, tìm mặt mạnh và điểm yếu trong quá trình đầu tư phát triển
của ngân hàng Vietcombank

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


3

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Một số vấn đề cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong các ngân
hàng thương mại
1.1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm và chức năng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật
quý cho những người chủ sở hữu của nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người
chủ sở hữu cho người giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại
nhiều lợi ích cho những người gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng
hơn và đại diện cho các vật có giá trị như vậy là tiền, dần dần, ngân hàng là
nơi giữ tiền cho những người có tiền. Khi xã hội phát triển, thương mại phát
triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu tiền vay và tiền
ngày càng lớn trong xã hội. Khi nắm trong tay một lượng tiền, những người
giữ tiền nảy ra một nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lượng tiền trong tay họ
không phải bao giờ cũng bị đòi trong cùng một thời gian, tức là có độ chênh
lệch lượng tiền cần gửi và lượng tiền cần rút của người chủ sở hữu. Từ đó
phát sinh nghiệp vụ đầu tiên nhưng cơ bản nhất của ngân hàng nói chung, đó
là huy động vốn và cho vay vốn.
Ngân hàng là một trong các loại tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết

mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ
chúc kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò thủ
quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng đối với
nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh
nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Đối với doanh
nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cấp tín dụng để mua hàng hóa dự trữ
hoặc để xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và
người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


4

thường sử dụng sẽ, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và
khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến
ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho
Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài trợ quan
trọng để đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện chính sách kinh tế, đặc biệt
là các chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách kinh
tế của Chính phủ nhằm phát triển bền vững.
Căn cứ vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng
thương mại và ngân hàng Nhà nước.
Ở Việt Nam hay các nước khác, định nghĩa về NHTM đều có điểm
chung là dựa trên chức năng và phương thức hoạt động. Đạo luật ngân hàng
của Pháp (1941) đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp
hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng
dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên
đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài
chính”.Theo điều 4 khoản 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 số

47/2010/QH12, ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán.
Ngân hàng thương mại có 3 chức năng chính:
NHTM có chức năng như một trung gian tài chính với hoạt động chủ
yếu là chuyển các khoản tiết kiệm huy động được thành các khoản đầu tư,
đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế, đó là
các cá nhân tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu (người vay), các cá nhân tổ
chức tạm thời thặng dư trong chi tiêu (người gửi tiết kiệm).
NHTM có chức năng tạo phương tiện thanh toán: Tiền có một chức
năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Trong điều kiện phát triển
thanh toán qua các ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có số dư

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


5

trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hóa và
dịch vụ theo yêu cầu. Khi NHTM cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và
dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng), các NHTM đã tạo ra
phương tiện thanh toán. Hơn nữa, trong hệ thống liên ngân hàng cũng tạo ra
phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng
này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân
hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tăng số dư
tiền gửi) của khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản
cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay
lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi

(phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín
dụng).
NHTM có chức năng như một trung gian thanh toán: Thay mặt khách
hàng, NHTM thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ như thanh
toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới
thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần.
Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ cho nhau thông qua Ngân
hàng Nhà nước hoặc qua các trung tâm thanh toán.

1.1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại
Huy động vốn, bao gồm nhận tiền gửi (tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi
không kỳ hạn), phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và các giấy
tờ có giá khác để huy động vốn, vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và
ngoài nước, vay vốn của NHNN và các hình thức huy động vốn khác theo
quy định của NHNN
Hoạt động tín dụng, bao gồm cấp tín dụng dưới hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh ngân hàng, cho
thuê tài chính, và các hình thức khác theo quy định của NHNN. Đây là hoạt

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


6

động sinh lời đem lại thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng, quyết định sự tồn
tại và phát triển của một ngân hàng
Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, bao gồm mở tài khoản, cung ứng các
phương tiện thanh toán trong nước vào ngoài nước, thực hiện dịch vụ thanh
toán trong nước và quốc tế, thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ, thực hiện dịch
vụ thu và phát tiền mặt, ngân phiếu thanh toán cho khách hàng.

Các hoạt động khác, bao gồm các hoạt động góp vốn, mua cổ phần,
tham gia thị trường tiền tệ, thực hiện các nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá
bằng ngoại tệ và USD, kinh doanh ngoại hối và vàng, nghiệp vụ ủy thác và
đại lý, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, kinh doanh các nghiệp vụ chứng khoán
thông qua công ty trực thuộc, cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ,
cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quí, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm
đồ.
1.1.2. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các NHTM
1.1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái
niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả
phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành ngân hàng, phạm vi quốc gia hoặc
phạm vi khu vực liên quốc gia. Điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu được
đặt ra ở chỗ quy mô doanh nghiệp hay ở quốc gia. Trong khi đối với một
doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở
cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng
cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân.
- Theo K. Marx: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch ".
- Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh
trong cơ chế thị trường được định nghĩa là " Sự ganh đua, sự kình địch giữa
các nhà kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá
về phía mình.
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


7

- Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh

doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan
hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi
nhất.
- Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong
cuốn kinh tế học cho rằng Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch giữa các
doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị trường. Hai
tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo (Perfect
Competition).
- Quan điểm của R.S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn Kinh tế
học vĩ mô cho rằng: Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn thiện có rất
nhiều người mua và người bán, để cho không có người mua hoặc người bán
duy nhất nào có ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả.
- Các tác giả trong cuốn "Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách
cạnh tranh kiểm soát độc quyền kinh doanh”, thuộc sự án VIE/97/016 thì
cho rằng: “Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh
nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng
cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt đựơc một mục tiêu kinh doanh cụ
thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi
trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua”
- Ở phạm vi quốc gia, theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng
thống Mỹ, cạnh tranh đối với một quốc giá là mức độ mà ở đó, dưới các điều
kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ
đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường Quốc tế, đồng thời duy trì và mở
rộng đợc thu nhập thực tế của người dân nước đó.
- Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu
năm 2003, định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là: "Khả năng của
nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa
là đạt đựơc các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi
của tổn sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu người theo thời gian”

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


8

Từ những định nghĩa và các cách hiểu không giống nhau trên có thể
rút ra các điểm hội tụ chung: cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn
phần thắng về mình trong môi trường cạnh tranh. Để có cạnh tranh phải có
các điều kiện tiên quyết sau:
- Phải có nhiều chủ thể cùng nhua tham gia cạnh tranh: Đó là các chủ
thể có cùng các mục đích, mục tiên và kết quả phải giành giật, tức là phải có
một đối tượng mà chủ thể cùng hớng đến chiếm đoạt. Trong nền kinh tế, với
chủ thể canh tranh bên bán, đó là các loại sản phẩm tưng tự có cùng mục
đích phục vụ một loại nhu cầu của khách hàng mà các chủ thể tham gia canh
tranh đều có thể làm ra và đợc người mua chấp nhận. Còn với các chủ thể
cạnh tranh bên mua là giành giật mua được các sản phẩm theo đúng ý mình.
- Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh
cụ thể, đó là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải
tuân thủ. Các ràng buộc cạnh tranh trong ngành ngân hàng ở Việt Nam được
thể hiện qua luật các tổ chức tín dụng, các thông tư, chỉ đạo của Ngân hàng
Nhà nước, các chính sách tiền tệ và tài khóa, cũng như các đặc điểm cầu
thanh toán về sản phẩm dịch vụ của khách hàng và các ràng buộc của luật
pháp khác trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng; giữa những người vay và
cho vay là các thoả thuận được thực hiện có lợi cho cả hai bên và cho sự
phát triển kinh tế của đất nước .
- Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không cố định
hoặc ngắn (từng vụ việc) hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động
của mỗi chủ thể tham gia cạnh tranh). Sự cạnh tranh có thể diễn ra trong
khoảng thời gian không nhất định hoặc hẹp (một tổ chức, một địa phương,
một nghành) hoặc rộng (một nước, giữa các nước)

Theo Fafchamps, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh
nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn
giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản
xuất ra những sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh
nghiệp khác nhưng có chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh
tranh
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


9

Một quan niệm khác cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp được hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và
phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của doanh
nghiệp đó trong mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng
trên một thị trường mục tiêu xác định”
Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng có thể hiểu là khả
năng doanh nghiệp đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì
và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của
ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sẹ hoạt động an toàn và lành
mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi
trường kinh doanh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp, được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh
nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh
của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
Trong ngân hàng thương mại, cạnh tranh là sự tranh đua, giành dật
khách hàng dựa trên tất cả những khả năng mà ngân hàng có được để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng về việc cung cấp những sản phẩm dịch vụ có

chất lượng cao, có sự đặc trưng riêng của mình so với các ngân hàng thương
mại khác trên thị trường, tạo ra lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận ngân
hàng, tạo được uy tín, thương hiệu và vị thế trên thương trường
Với những đặc điểm chuyên biệt của mình, sự cạnh tranh trong lĩnh
vực ngân hàng cũng có những đặc thù nhất định:
- Do hoạt động ngân hàng mang tính hệ thống rất cao, nếu năng lực
cạnh tranh của một ngân hàng yếu dẫn đến khó khăn cho hoạt động kinh
doanh của hệ thống và có thể tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ, gây
ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động cạnh tranh của các ngân
hàng phải tuân thủ theo pháp luật.
- Hoạt động ngân hàng có liên quan đến nhiều tổ chức kinh tế, chính
trị, xã hội và các cá nhân. Nếu một ngân hàng bị đổ vỡ sẽ ảnh hưởng tiêu
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


10

cực đến các ngân hàng khác và khách hàng. Vì thế, trong hoạt động của các
ngân hàng, đi liền với cạnh tranh lẫn nhau là sự hợp tác với nhau nhằm
hướng đến một môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn.
- Từ hai đặc thù trên để tránh những nguy cơ đổ vỡ cả hệ thống, ngân
hàng trung ương phải có sự giám sát chặt chẽ thị trường tiền tệ, nhằm có
những giải pháp kịp thời tránh những yếu tố có thể làm suy yếu và thôn tính
lẫn nhau trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
- Mặt khác, hoạt động ngân hàng không giới hạn phạm vi trong nước
mà liên quan đến các nước khác trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Do vậy,
hoạt động của ngân hàng đòi hỏi những chuẩn mực quốc tế rất cao và cần
phải tuân thủ nghiêm.
1.1.2.2. Các công cụ cạnh tranh của NHTM
Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ: Dịch vụ do ngân

hàng cung ứng là nhắm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu như chất
lượng của dịch vụ ngày càng hoàn hảo thì khách hàng sẽ gắn bó lâu dài và
chấp nhận ngân hàng. Không những vậy, những lời khen, sự chấp nhận thỏa
mãn về chất lượng của khách hàng hiện hữu sẽ được chính họ thông tin tới
những người khác có nhu cầu dịch vụ tìm đến ngân hàng giao dịch. Sự hoàn
hảo của dịch vụ có thể được hiểu là giảm thiểu các sai sót trong giao dịch
với khách hàng và rủi ro trong kinh doanh dịch vụ của ngân hàng. Chất
lượng dịch vụ của ngân hàng ngày càng hoàn hảo, giảm các sai sót trong
giao dịch của ngân hàng với khách hàng, giảm thiểu những lời phàn nàn và
khiếu kiện, khiếu nại của khách hàng đối với ngân hàng. Bên cạnh đó là
những rủi ro trong kinh doanh dịch vụ của ngân hàng ngày càng được giảm
thiểu, quy mô và tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ của ngân hàng ngày càng tăng
lên. Dịch vụ càng ngày được nâng lên thì thị phần của từng loại dịch vụ của
ngân hàng không ngừng được giữ vững cà tăng lên như kinh doanh ngoại tệ,
thanh toán quốc tế, thanh toán thẻ… Để đạt được mục tiêu đó, chất lượng
sản phẩm dịch vụ cần được đi kèm với sự đa dạng của dịch vụ, nghiệp vụ
marketing, uy tín và danh tiếng của ngân hàng, quy mô và mạng lưới hoạt
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


11

động của ngân hàng, cùng với việc khác biệt hóa sản phẩm dịch vụ so với
các đối thủ cạnh tranh bằng tính năng và giá trị sản phẩm dịch vụ mang lại
cho khách hàng.
Cạnh tranh bằng giá cả: Giá cả phản ánh giá trị sản phẩm, nó có vai
trò quan trọng đối với quyết định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá
cả chính là lãi suất và mức phí áp dụng cho các dịch vụ cung ứng cho các
khách hàng của mình. Trong việc xác định mức lãi suất và phí, các NHTM
luôn phải đối mặt với quy tắc đanh đổi: Nếu như NHTM quan tâm tới khả

năng cạnh tranh để mở rộng thị phần thì cần phải đưa ra các mức lãi suất và
phí ưu đãi cho các khách hàng của mình, tuy nhiên, điều này sẽ làm giảm
thu nhập của NHTM thậm chí có thể khiến ngân hàng bị lỗ. Ngược lại, nếu
NHTM chỉ chú trọng đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí cao
hơn để đáp ứng được mục tiêu tăng thu nhập nhưng điều này có thể dẫn đến
ngân hàng sẽ bị mất dần khách hàng, giảm thị phần trong kinh doanh, bởi
suy cho cùng thì ngân hàng luôn quan tâm tới mục tiêu tối thường trên
thương trường là tối đa hóa lợi nhuận, mà để đạt được điều đó thì cần tiết
giảm các chi phí đầu vào. Điều này có nghĩa là cạnh tranh bằng giá cả đang
trở thành một biện pháp nghèo nàn nhất vì nó làm giảm bớt lợi nhuận thu
được của các NHTM. Chính vì vậy, việc xác định lãi suất trên thị trường là
quan trọng, song theo dõi thông tin phản hồi từ khách hàng là rất cần thiết để
NHTM đưa mức lãi suất và phí có tính cạnh tranh.
Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối: Sản phẩm dịch vụ của ngân
hàng có đặc tính nhanh tàn lụi, không thể lưu trữ nên việc xây dựng mạng
lưới cung ứng dịch vụ trở nên trọng yếu. Mạng lưới cung ứng là phương tiện
trực tiếp đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến khách hàng, đồng thời
giúp ngân hàng nắm bắt chính xác, kịp thời nhu cầu của khách hàng, qua đó,
ngân hàng chủ động trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
Cạnh tranh bằng thương hiệu: NHTM có vị thế và uy tín trên thị
trường sẽ không chỉ duy trì các khách hàng cũ mà còn thu hút thêm các
khách hàng mới và tăng số lượt giao dịch với ngân hàng của lượng khách
hàng này. NHTM xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu, quảng bá sản
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


12

phẩm, phát triển các sản phẩm chủ chốt, tham gia các sự kiện truyền thông,
các hoạt động xã hội. Định vị thương hiệu của NHTM còn thể hiện qua việc

mở rộng, phát triển các lĩnh vực hoạt động. Cạnh tranh bằng thương hiệu
cần thiết phải có một kế hoạch phát triển thương hiệu đồng bộ không nhằm
chỉ đánh bóng tên tuổi.
Cạnh tranh bằng khuyến mại: NHTM thường áp dụng khuyến mại
để thu hút thêm khách hàng và số lượt giao dịch tại ngân hàng vào các dịp
đặc biệt như lễ tết, hoặc quảng bá giới thiệu sản phẩm mới.
1.1.3. Các nhân tố tác động đến cạnh tranh của các NHTM
- Sự đe dọa của các đối thủ
Đối thủ cạnh tranh hiện tại: Các đối thủ cạnh tranh hiện tại đang chia
nhau chiếc bánh thị trường. Do vậy, một hành động của một đối thủ này để
khai thác nhiều hơn phần thị trường đó thì sẽ nhận được sự đáp trả của đối
thủ khác để giành lại phần thị trường bị mất. Nếu cạnh tranh giữa các đối thủ
trong ngành mãnh liệt thì nguy cơ chiến tranh giá xảy ra, thị trường bị thu
hẹp, lợi nhuận bị giảm sút. Trong tương lai, cạnh tranh là giành cơ hội chứ
không phải là giành thị phần. Các nhân tố tác động đến mức độ ganh đua
giữa các đối thủ trong ngành bao gồm cấu trúc cạnh tranh ngành, các điều
kiện nhu cầu và rào cản rời ngành.
Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng: Sự xuất hiện của những đối thủ cạnh
tranh tiềm tàng là mối nguy lớn đe dọa đến thị phần của các ngân hàng bằng
cách đem vào ngành những năng lực sản xuất mới. Do vậy nhận diện được
các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là hết sức quan trọng để thiết lập những rào
cản ngăn chặn trước khi nó có thể xâm nhập. Những rào cản có thể bao gồm:
xây dựng lòng trung thành nhãn hiệu, khai thác lợi thế về chi phí thấp, tận
dụng tính kinh tế về quy mô, những quy định của chính phủ... Các đối thủ
cạnh tranh tiềm tàng của ngân hàng như: các cá nhân, tổ chức có ý định
thành lập ngân hàng của mình.
- Các chính sách của Ngân hàng Nhà nước và của Chính phủ

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank



13

Môi trường chính trị- pháp luật: Một đất nước có môi trường chính trị
ổn định, luật pháp được quy định rõ ràng, minh bạch, sự thay đổi luật diễn ra
không thường xuyên, phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ khuyến khích các
doanh nghiệp nói chung và các tổ chức tín dụng nói riêng an tâm hơn trong
hoạt động kinh doanh của mình, có khả năng phát huy hết tối đa lợi thế cạnh
tranh của mình. Ngược lại, nếu môi trường chính trị, xã hội luôn biến động
thì dẫn đến sự kém hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng do sự không an
toàn và sự thay đổi liên tục, sự kém minh bạch của hệ thống luật pháp
Một ngân hàng làm theo những chính sách của Ngân hàng nhà nước,
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật thì phát triển sẽ bền vững. Những ngân
hàng thương mại cạnh tranh không lành mạnh bằng cách lách luật phải chịu
những chế tài xử phạt nghiêm khắc từ Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ
- Nguy cơ từ các dịch vụ mang tính thay thế
Thứ nhất, khả năng của những sản phẩm thay thế: Sản phẩm thay thế
là những sản phẩm có thể thỏa mãn những nhu cầu tương tự của khách hàng.
Khả năng của sản phẩm thay thế có nguy cơ làm hạn chế khả năng đặt giá
cao và do đó có thể hạn chế khả năng sinh lợi của ngân hàng. Vì vậy, chiến
lược của ngân hàng sẽ được thiết kế để giành lợi thế cạnh tranh từ thực tế
này. Ví dụ các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp
như vàng, bất động sản, chứng khoán...
Thứ hai, cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra như vũ bão trên toàn
thế giới, công nghệ quyết định đến sự thành công của một doanh nghiệp nói
chung và một ngân hàng nói riêng, nếu ngân hàng có công nghệ lạc hậu hơn
đối thủ cạnh tranh thì sớm muộn cũng sẽ bị đối thủ cạnh tranh đánh bật ra
khỏi thị trường. Một ngân hàng chú trọng đến công nghệ của mình sẽ làm
cho khách hàng tin tưởng và từ đó có thể dễ dàng thu hút khách hàng mới
hay lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh.

Thứ ba, đối thủ cạnh tranh quốc tế: Quá trình hội nhập của nền kinh tế
đòi hỏi một đất nước cũng phải tuân thủ các luật chơi của quốc tế. Sự biến
động của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các chỉ số như lãi suất, tỷ giá, giá
dầu, vàng, đô la...cũng tác động rất lớn tới nền kinh tế trong nước và từ đó
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


14

ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt, sự hội nhập kinh tế
thế giới làm cho các ngân hàng không chỉ cạnh tranh nội địa với nhau mà
còn cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đổ bộ ngày càng nhiều vào
Việt Nam với quy mô vốn lớn và công nghệ hiện đại.
- Nhu cầu tăng lên từ phía khách hàng
Xu hướng quốc tế hóa hoạt động ngân hàng đã đặt các ngân hàng
thương mại trước áp lực rất lớn của sự cạnh tranh, không những cạnh tranh
giữa các NHTM khác mà còn cạnh tranh với các tổ chức tài tài chính phi
ngân hàng (các công ty tài chính, các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, bưu
điện…), xu hướng này sẽ ảnh hưởng và tác động đến khách hàng của các
ngân hàng trong tương lai, vì trong kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều lấy
khách hàng làm đối tượng và mục tiêu phục vụ, họ đã không ngừng nỗ lực
đổi mới và xây dựng mô hình phục vụ hướng tới khách hàng, tối đa các nhu
cầu của khách hàng dựa trên các giới hạn chi phí cho phép. Do đó, những
đòi hỏi của khách hàng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ đã ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động của các NHTM là tất yếu.
Mặt khác, kinh tế càng phát triển, thu nhập và mức sống của người
dân càng nâng cao, nhu cầu của họ đối với sản phẩm dịch vụ ngân hàng đòi
hỏi ngày càng phải hoàn thiện, giá trị gia tăng mang lại từ các sản phẩm dịch
vụ đó ngày càng nhiều, từ nhu cầu thực tế, đòi hỏi các ngân hàng phải nhạy
bén cảm nhận thị trường. Hơn nữa, trong điều kiện thị trường phát triển như

hiện nay, các doanh nghiệp lớn có nhiều cơ hội để lựa chọn phương thức tài
trợ vốn hơn, thông qua các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, qua thị trường
chứng khoán… và họ phải cân nhắc lựa chọn phương án nào có chi phí sử
dụng vốn thấp nhất, nhằm mục đích tối đa hóa các lợi ích kinh tế của họ. Sự
thay đổi này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng, các khoản
cho vay lớn giảm, các khoản cho vay nhỏ lẻ tăng, chi phí quản lý tăng, rủi ro
cũng tăng, phần nào cũng làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân
hàng.
- Nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


15

Hệ thống ngân hàng với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế đã cung
ứng một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế hàng năm (chiếm khoảng 1618% GDP) và gần bằng 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, do đó, ngân hàng
như một chiếc máy bơm vốn cho nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì
nhu cầu vốn càng lớn và ngân hàng hoạt động càng mạnh mẽ hơn. Ngân
hàng là ngành có mối quan hệ mật thiết với các biến động của nền kinh tế,
đây là ngành hồi phục trước tiên để tạo điều kiện cho nền kinh tế hồi phục
và đi vào ổn định.
Với đặc điểm, hoạt động của các NHTM đồng thời cũng là một trong
các công cụ hữu hiệu để ngân hàng nhà nước thực hiện điều tiết các ảnh
hưởng đến nền kinh tế và ngược lại. Do vậy, để đảm bảo an toàn, ngân hàng
nhà nước giám sát các hoạt động của NHTM rất chặt, nhất là mức vốn điều
lệ của các ngân hàng thương mại. Một trong những tiêu chí để đánh giá xếp
hạng các ngân hàng thương mại là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Để
đạt được tỷ lệ này, các NHTM phải thường xuyên tăng vốn điều lệ bằng
nhiều cách (sáp nhập, bán cổ phần, bổ sung từ lợi nhuận để lại…). Điều này

đã tạo áp lực làm gia tăng quá trình các NHTM đua nhau tăng vốn điều lệ
trong thời gian gần đây
- Khả năng cung ứng tài chính của các ngân hàng
Ngân hàng là một ngành chứa đựng rất nhiều rủi ro. Mỗi một biến động bất
lợi của kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của một
ngân hàng. Nếu nền kinh tế có các chỉ số về lãi suất, lạm phát, tỷ giá... biến
động thì các chính sách, chiến lược kinh doanh cũng sẽ thay đổi để hạn chế
sự suy giảm của lợi nhuận. Đặc biệt, nếu ban lãnh đạo của ngân hàng không
đề ra được các chíên lược phù hợp với sự biến động đó sẽ ngân hàng của
mình dần bị thua lỗ.
1.2. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong các ngân hàng thương
mại
1.2.1. Khái niệm và vai trò của đầu tư trong các ngân hàng thương mại

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


16

Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nhằm thu được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất
định trong tương lai.
Các nguồn lực sử dụng có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức
lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật
chất, tài sản tài chính hoặc tài sản trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là
sự gia tăng tài sản vật chất, tài sản tài chính hoặc tài sản trí tuyệ và nguồn
nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn cho nền kinh tế
và cho toàn bộ xã hội.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực
tiếp tham gia quản lý điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả

đầu tư mà chỉ được hưởng các lợi ích vật chất (như cổ tức, tiền lãi trái
phiếu), lợi ích phi vật chất (như quyền biểu quyết, quyền tiên mãi)
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp
tha gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư,
bao gồm hai loại: Đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Trong đó, đầu tư
dịch chuyển là một hình thức đầu tư trực tiếp mà việc bỏ vốn là nhằm dịch
chuyển quyền sở hữu giá trị tài sản. Thực chất, trong đầu tư dịch chuyển
không có sự gia tăng giá trị tài sản. Chẳng hạn như nhà đầu tư mua một số
lượng cổ phiếu với mức khống chế có thể tham gia hội đồng quản trị của
một doanh nghiệp, các trường hợp thôn tính, sáp nhập doanh nghiệp trong
cơ chế thị trường.
Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động
đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh
dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp
tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, cho chính các đơn vị, tổ chức sản xuất và
cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với
tặng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia. Vì vậy, Đầu tư
phát triển là tiền đề, là cơ sở cho các hoạt động đầu tư khác. Đầu tư gián tiếp
và đầu tư dịch chuyển không thể tồn tại và vận động nếu không có đầu tư
phát triển.
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


17

Qua đó, thấy rõ, đầu tư là động lực quan trọng nâng cao năng lực cạnh
tranh trong các NHTM. Đầu tư quyết định đến sự ra đời, tồn tại và phát triển
của một NHTM. NHTM trang bị các trang thiết bị cho văn phòng, các trạm
ATM, các phòng và quầy giao dịch. Đối với các NHTM đang hoạt động,
việc sửa chữa, thay mới các cơ sở vật chất – kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn

để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển của khoa học
công nghệ góp phần làm nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh của NHTM
đó. Hoạt động đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, chú trọng đến đào tạo
và nâng cao trình độ, phong cách phục vụ của các chuyên viên ngân hàng
giúp cho NHTM có một vị thế nhất định đối với những khách hàng sử dụng
dịch vụ. Đầu tư giúp các ngân hàng không chỉ mở rộng các lĩnh vực kinh
doanh, hoặc đầu tư theo chiều sâu giúp hoàn thiện hơn về chỉ tiêu đầu tư và
tài chính giúp không chỉ các nhà đầu tư, những người gửi tiền, người vay,
các cơ quan quản lý nhà nước đặt niềm tin vào ngân hàng mà còn làm gia
tăng tài sản, doanh thu và lợi nhuận cho NHTM.
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM là quá trình bỏ
vốn đầu tư nhằm tiến hành các hoạt động tăng thêm hoặc tạo ra giá trị tài
sản vật chất (máy móc, thiết bị công nghệ...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ
năng...) nhằm gia tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh của NHTM trên thị trường.
Hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM đóng vai
trò quan trọng, quyết định đến vị thế cạnh tranh của ngân hàng thông qua:
cải thiện tiềm lực tài chính; gia tăng năng lực công nghệ, năng lực hoạt động
khi phát triển sản phẩm mới, mở rộng mạng lưới; cải thiện năng lực quản trị
điều hành thông qua việc đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại vào quản lý
rủi ro, quy trình nghiệp vụ và mô hình tổ chức; định vị thương hiệu và danh
tiếng của ngân hàng.
1.2.2. Đặc điểm của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong NHTM cần sử dụng vốn
lớn. Do năng lực cạnh tranh của các NHTM được thể hiện trên nhiều
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


18


phương diện nên để nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM cần đầu tư
vào các yếu tố như mở rộng mạng lưới, quy mô, lĩnh vực hoạt động, đầu tư
vào công nghệ, nghiên cứu sản phẩm mới, công nghệ quản lý rủi ro và các
tổn thất trong ngân hàng. Để xây dựng được cơ sở hạ tầng (các chi nhánh và
phòng giao dịch mở thêm) và đầu tư cho trang thiết bị hiện đại, NHTM cần
bỏ ra lượng vốn lớn. Vì vậy, huy động vốn để nâng cao năng lực cạnh tranh
luôn là vấn đề thiết yếu đối với các NHTM, ngân hàng phải bỏ ra chi phí lớn
để có được nguồn vốn này. Ngoài ra, xây dựng cơ cấu sử dụng vốn, quản lý
quá trình sử dụng vốn cũng đóng vai trò quan trọng với ngân hàng để đầu tư
mang lại hiệu quả cao.
Do sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, đồng thời hội
nhập kinh tế Quốc tế, NHTM đối mặt với nhiều thách thức, vì vậy, việc đầu
tư nâng cao năng lực cạnh tranh được duy trì thường xuyên, cần liên tục tăng
cường.
Nâng cao năng lực cạnh tranh trong NHTM được đầu tư trên nhiều
mặt như nâng cao năng lực tài chính, nghiên cứu và phát triển công nghệ,
trang thiết bị, nâng cao năng lực điều hành, chất lượng cán bộ công nhân
viên… Tuy nhiên, ở mỗi NHTM, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau,
NHTM sẽ chú trọng đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau tạo nên cơ cấu đầu tư
khác nhau.
Hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong các NHTM chịu
nhiều tác động từ các yếu tố bên ngoài như môi trường pháp lý, các quy định
của NHNN và Chính phủ liên quan đến chính sách tiền tệ và tài khóa, sự
phát triển của xã hội, trình độ và mức sống của người dân, thói quen, tập
quán văn hóa mỗi vùng miền, đối thủ cạnh tranh… Những ngoại tác này
giúp NHTM lựa chọn những hạng mục đầu tư, xem xét tác động hai mặt đến
hiệu quả đầu tư của NHTM. Từ đó, việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
sẽ thuận lợi, làm theo đúng định hướng của NHNN và Chính phủ, nắm bắt
được cơ hội thị trường, dự báo và đối phó được với các yếu tố bất định làm
ảnh hưởng đến vị thế cạnh tranh của ngân hàng.


Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


19

Giống như các hoạt động đầu tư khác, đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh trong các NHTM diễn ra theo tiến trình, trong khoảng thời gian nhất
định, phụ thuộc vào quy mô và tính chất đầu tư. Vì vậy, quản lý tiến độ, kế
hoạch và thời gian thực hiện tác động tích cực đến hiệu quả nâng cao năng
lực cạnh tranh trong các NHTM.
1.2.3. Nguồn vốn đầu tư
Vốn chủ sở hữu:
Khi mới thành lập, nguồn vốn của các NHTM là vốn chủ sở hữu để
đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, máy móc. Tùy theo tính chất của mỗi
ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn đầu tư ban đầu khác nhau. Nếu là
ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp (vốn của Nhà
nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ
phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp vốn
đầu tư. Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân
Đối với các NHTM đang hoạt động, khi thu nhập ròng lớn hơn 0, các
NHTM có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần
thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của
chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập
ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình
thành ban đầu. Các quỹ trong ngân hàng như quỹ dự phòng tổn thất được
trích lập hằng năm và được tích lũy lại để bù đắp những tổn thất xảy ra, quỹ
bảo toàn vốn nhằm bù đắp sự hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát,
quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc
Vốn nợ:

Nguồn vốn đầu tư trong các NHTM đang hoạt động chủ yếu là nguồn
vốn huy động được là vốn nợ từ trong dân cư, các tổ chức kinh tế thông qua
dịch vụ tiền gửi giao dịch, tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của các
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Ngoài ra, NHTM vay NHNN thông qua
hình thức tái cấp, tái chiết khấu các thương phiếu, vay vốn các NHTM và
các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng, từ việc phát hành
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


20

kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn, qua hoạt động ủy thác đầu
tư, qua thanh toán séc trong chi trả, ký quỹ để mở thư tín dụng L/C…
1.2.4. Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
NHTM tiến hành hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh dựa
trên các công cụ cạnh tranh như chất lượng sản phẩm dịch vụ, giá cả, hệ
thống phân phối, thương hiệu... Để nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua
các công cụ, NHTM phải thực hiện nhiều hoạt động đầu tư tác dộng đến
nhiều khía cạnh trong ngân hàng.
Đầu tư nâng cao năng lực tài chính qua việc nâng mức vốn chủ sở
hữu và quỹ dự trữ.
Đầu tư vào máy móc thiết bị: NHTM hình thành các chi nhánh tự
động hóa hoàn toàn bằng máy móc, dưới sự điều khiển của các thiết bị điện
tử, chi nhánh lưu động, ngân hàng điện tử (e Banking) để thực hiện các giao
dịch điện tử như máy thanh toán tại điểm bán hàng (EFTPOS) giúp khách
hàng thuận tiện khi mua hàng không cần mang tiền mặt trong túi, máy rút
tiền tự động (ATM) hoạt động 24/24 giờ, ngân hàng qua điện thoại (Tel
Banking, SMS Banking). Ngân hàng qua mạng internet có thể giao dịch với
khách hàng mà không cần đến ngân hàng, có chức năng kiểm tra tài khoản
khách hàng, vay, mua hợp đồng bảo hiểm, đầu tư chứng khoán, chuyển

ngân, mở L/C, mở thư bảo lãnh…Ngân hàng qua mạng nội bộ (mạng LAN)
giúp cho toàn bộ hệ thống của NHTM có được dữ liệu của khách hàng qua
hệ thống SYMBOL.
Đầu tư nâng cao năng lực công nghệ, tạo ra các sản phẩm tiện ích,
đa dạng để cung cấp cho khách hàng như thẻ ATM (Automatic teller
machine), thẻ POS, giao dịch Home Banking, Internet Banking. Vì thế, việc
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin là sự quan tâm hàng đầu của
NHTM. Đến nay, hơn 80% các nghiệp vụ ngân hàng đã được xử lý bằng
máy tính và hầu hết được xử lý trên mạng nội bộ, các giao dịch nghiệp vụ
huy động vốn, thanh toán, cho vay, kinh doanh ngoại hối… bước đầu được
chuẩn hóa phù hợp điều kiện của mỗi NHTM. Theo tính toán và kinh
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


21

nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm giảm
76% chi phí hoạt động của ngân hàng nhưng đây là lĩnh vực đòi hỏi đầu tư
lớn và cũng là hạn chế đối với hệ thống NHTM ở Việt Nam do quy mô vốn
còn nhỏ. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng cộng nghệ của các NHTM ở Việt
Nam còn kém so với các ngân hàng nước ngoài. Cụ thể, theo ngân hàng thế
giới WB, công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam còn kém, chỉ số
công nghệ mới là (-0,47), trong khi chỉ số này ở Trung Quốc là (-0,35), của
Thái Lan và Indonesia là (-0,07), của Malaysia là 1,08, của Singapore là
1,95. Ở Việt Nam, các NHTM đã thành lập hệ thống thanh toán Smart link
giúp cho khách hàng có thể rút tiền linh hoạt tại các điểm ATM trên toàn hệ
thống, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế như chi phí cao khi rút ở các ATM
khác thẻ ngân hàng, một số ATM hoạt động yếu, chập điện. Từ đó thấy, tính
liên kết trong các ngân hàng về công nghệ còn chưa cao, dẫn đến các dịch vụ
ngân hàng còn hạn chế, tiện ích kém hấp dẫn.

Đầu tư nâng cao trình độ nhân lực để đủ khả năng làm chủ công
nghệ, quản lý giỏi, thích ứng trong mội trường cạnh tranh quyết liệt. Đầu tư
cho nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho đạo tạo trong nội bộ ngân hàng
hoặc cử đi học các khóa đào tạo ngắn hạn, đi du học, đầu tư cho y tế và
chăm sóc sức khỏe cán bộ, công nhân viên, đầu tư nâng cao đời sống tinh
thần cho đội ngũ công nhân viên qua các chương trình văn nghệ, những kỳ
nghỉ dưỡng, đầu tư cải thiện môi trường làm việc…
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh qua hệ thống marketing để
định vị được thương hiệu ngân hàng, chiếm lĩnh được thị phần, qua quảng
cáo, khuyến mại, hoạt động xã hội, tiếp cận khách hàng, đầu tư cho đổi mới,
khuếch trương thương hiệu qua tên, logo, màu sắc, trang web, đồng phục
nhân viên, cách bài trí văn phòng hội sở, sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao
dịch…
Đầu tư nâng cao năng lực quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro lãi
suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro nhân sự hay rủi ro quản lý
ngân quỹ luôn mang tính sống còn đối với mỗi ngân hàng.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


22

1.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh trong các NHTM
1.2.5.1. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh trong các NHTM
Nhóm chỉ tiêu phản ánh biến động tiềm lực tài chính:
- Vốn chủ sở hữu tăng thêm = VCSH trước đầu tư – VCSH sau đầu tư. Một
ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn sẽ tạo được niềm tin cho khách hàng, đối
tác, cho người lao động và từ đó tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.

Nguồn vốn chủ sở hữu tăng thêm giúp NHTM đẩy mạnh phát triển mạng
lưới, tài trợ cho các khách hàng lớn, đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho ngân
hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn ban đầu, cổ phần phát hành thêm, ngân
sách cấp thêm, lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu, các quỹ trích từ thu nhập
của NHTM như quỹ bảo toàn vốn, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ thặng dư, quỹ
đầu tư...
- Tổng tài sản tăng thêm = Tài sản trước đầu tư – Tài sản sau đầu tư . Tài sản
bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Tài sản cố định là công trình,
hạng mục công trình, máy móc thiết bị có khả năng phát huy tác dụng độc
lập đã được đưa vào hoạt động như sở giao dịch, chi nhánh, các phòng giao
dịch, ATM đã được lắp đặt và đi vào hoạt động…Tài sản cố định được đưa
vào hoạt động làm tăng năng lực cung cấp sản phẩm dịch vụ. Tài sản lưu
động bao gồm tiền, các khoản tương đương tiền, các khoản phải thu…
- Lợi nhuận tăng thêm = Lợi nhuận trước đầu tư – Lợi nhuận sau đầu tư.
- Tỷ suất lợi nhuận ròng tăng thêm trên tổng tài sản = ROA trước đầu tư –
ROA sau đầu tư, hoặc: tỷ suất lợi nhuận ròng tăng thêm trên tài sản trung bình
trong kỳ nghiên cứu = ROAA trước đầu tư – ROAA sau đầu tư.
- Tỷ suất lợi nhuận ròng tăng thêm trên vốn chủ sở hữu = ROE trước đầu tư
– ROE sau đầu tư, hoặc: tỷ suất lợi nhuận ròng tăng thêm trên vốn chủ sở hữu
trung bình trong kỳ nghiên cứu = ROAE trước đầu tư – ROAE sau đầu tư.
- Biến động tỷ lệ an toàn vốn = CAR trước đầu tư – CAR sau đầu tư.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


23

- Biến động chất lượng tài sản có = TLNX trước đầu tư – TLNX
Trong đó: TLNX là tỷ lệ nợ xấu.


sau đầu tư

.

- Biến động tỷ lệ nợ xấu =
(nợ xấu/dư nợ tín dụng) trước đầu tư – (nợ xấu/ dư nợ tín dụng) sau đầu tư.
- Tỷ lệ dự phòng rủi ro
- Dư nợ / Tổng tài sản
Nhóm chỉ tiêu phản ánh biến động năng lực hoạt động:
- Doanh thu tăng thêm hằng năm: thể hiện sự biến động của doanh thu
qua các sản phẩm mà NHTM cung ứng trước và sau khi đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh
- Thị phần tăng thêm hằng năm: thể hiện sự tăng giảm lượng khách
hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng trên thị trường, thị phần tăng thêm hằng
năm có mối quan hệ thuận chiều với doanh thu tăng thêm hằng năm.
- Mức vốn hóa tăng thêm trước và sau khi đầu tư, bằng hiệu số của
tích giá cổ phiếu với lượng cổ phiếu lưu thông sau đầu tư so với trước đầu
tư.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh biến động chất lượng nguồn nhân lực:
- Số lao động tăng thêm hằng năm = LĐ năm trước đầu tư – LĐ năm sau đầu tư
- Số lao động được đào tạo thêm hằng năm = ĐT năm trước đầu tư – ĐT năm sau
đầu tư

Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng mạng lưới phân phối:
- Số chi nhánh, phòng giao dịch tăng thêm hằng năm trước và sau khi
đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
- Số cột ATM, số điểm chấp nhận thanh toán POS tăng thêm hằng
năm trước và sau khi đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank



24

1.2.5.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng
lực cạnh tranh trong các NHTM
- Doanh thu tăng thêm hằng năm so với vốn đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh, được tính bằng: (TRsau đầu tư – TRtrước đầu tư) / VĐT
Trong đó: TR là doanh thu, VĐT là vốn đầu tư. Chỉ tiêu cho biết 1
đồng vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh bỏ ra sẽ được bao nhiêu đồng
doanh thu tăng thêm.
- Lợi nhuận tăng thêm hằng năm so với vốn đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh, được tính bằng: (Π sau đầu tư – Πtrước đầu tư) / VĐT
Trong đó: Π là lợi nhuận, VĐT là vốn đầu tư. Chỉ tiêu cho biết 1 đồng
vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh bỏ ra sẽ tăng thêm bao nhiêu đồng
lợi nhuận
- Thị phần tăng thêm hằng năm so với vốn đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh, được tính bằng: (Thị phần sau đầu tư – Thị phầntrước đầu tư) / VĐT
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
bỏ ra sẽ tăng thêm bao nhiêu phần trăm thị phần.
Ba chỉ tiêu này càng cao, tức là, lợi ích của NHTM càng cao, khả
năng chiếm lĩnh thị trường càng cao, NHTM đó có khả năng cạnh tranh tốt
trên thị trường.
- Tỷ lệ an toàn vốn (CAR – Capital Adequacy Ratio) tăng thêm trên
một đồng vốn đầu tư
CAR = [(Vốn cấp I + Vốn cấp II) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%
Tỉ lệ này thường được dùng để bảo vệ những người gửi tiền trước rủi
ro của ngân hàng và tăng tính ổn định cũng như hiệu quả của hệ thống tài
chính toàn cầu. Bằng tỉ lệ này người ta có thể xác định được khả năng của
ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro

khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành. Hay nói cách khác, khi ngân hàng
đảm bảo được tỉ lệ này tức là NH đó đã tự tạo ra một tấm đệm chống lại
những cú sốc về tài chính, vừa tự bảo vệ mình, vừa bảo vệ những người gửi
tiền.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


25

Chính vì lý do trên, các nhà quản lý ngành ngân hàng các nước luôn
xác định rõ và giám sát các ngân hàng phải duy trì một tỉ lệ an toàn vốn tối
thiểu, ở Việt Nam tỉ lệ này hiện đang là 8%, giống như chuẩn mực Basel mà
các hệ thống ngân hàng trên thế giới áp dụng phổ biến. Khi tính toán tỉ lệ an
toàn vốn tối thiểu, người ta xét đến hai loại vốn: vốn cấp I (vốn nòng cốt) và
vốn cấp II (vốn bổ sung), trong đó vốn cấp I được coi là có độ tin cậy và an
toàn cao hơn. Ngoài yêu cầu đảm bảo cho CAR từ 8% trở nên, các ngân
hàng còn phải đảm bảo tổng vốn cấp II không được vượt quá 100% vốn cấp
I.
- Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA - Return on total assets) đo
lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp.
Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường
ROA =
Tổng tài sản
ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra
từ lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản). Tài sản của một doanh nghiệp được
hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử
dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Hiệu quả của việc chuyển vốn
đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA càng cao thì càng tốt
vì doanh nghiệp, cụ thể là NHTM, đang kiếm được nhiều tiền hơn trên

lượng đầu tư ít hơn.
- Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE - Return on
common equity) ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này
đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường.
ROE =

Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường
Vốn cổ phần thường

Chỉ số này là thước đo chính xác, đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích
lũy tạo ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Vietcombank


×