Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.59 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
THEO KẾT QUẢ CỦA MỘT CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TS.BÙI THÚY VÂN VỀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VỚI VIỆC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU:......24


DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
2.2.2.2. Hạn chế..............................................................................................................................................18

THEO KẾT QUẢ CỦA MỘT CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TS.BÙI THÚY VÂN VỀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VỚI VIỆC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU:......24


1

LỜI MỞ ĐẦU
Xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng đối với bất kỳ một quốc gia nào,
kể cả những nước phát triển và những nước đang phát triển vì đây là một
kênh tiêu thụ sản phẩm quan trọng của quá trình sản xuất. Và đối với một
nước đang phát triển như Việt Nam thì xuất khẩu càng có ý nghĩa đặc biệt
hơn ở chỗ nhờ có ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu những sản phẩm,
dịch vụ mà ta có tiềm năng, có lợi thế so sánh, có thặng dư sản xuất với mức
chi phí thấp hơn, sản xuất hiệu quả hơn rồi chúng ta có thể nhập khẩu được
nguyên liệu và các máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại mà chúng ta chưa có
khả năng sản xuất hay sản xuất kém hiệu quả hơn với mức chi phí cao hơn để
phục vụ cho việc sản xuất hàng hoá. Đồng thời, nó cũng góp phần cải thiện
cán cân thanh toán - một trong bốn đỉnh của “tứ giác mục tiêu”. Với cả tác
động cả đầu vào và đầu ra, xuất khẩu đã đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng
kinh tế trong một thời gian dài, nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát thoát ra
khỏi nước kém phát triển trước năm 2010, cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hoá hiện nay, thương mại quốc tế là


một bộ phận quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập đó. Nó có vai trò
quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới.
Vì vậy việc giao lưu thương mại nói chung và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ
nói riêng là một mục tiêu kinh tế hàng đầu không nằm trong phạm vi của một
quốc gia nào cả.Và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ. Nước ta là một
nước có nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp
kém, dân số phát triển với tỉ lệ cao, cán cân thương mại bị thâm hụt, mức dự
trữ ngoại tệ còn nhỏ bé nên việc xuất khẩu để thu ngoại tệ,nâng cao cơ sở vật
chất, cải thiện đời sống, phát triển kinh tế và hội nhập thế giới là một đòi hỏi
tất yếu để phát triển tiềm lực kinh tế của đất nước. Xuất khẩu Việt Nam đang
phải đối mặt với những thách thức lớn về cơ cấu, năng lực cạnh tranh, nguồn
cung và nhu cầu của thị trường. Chúng ta phải chấp nhận một thực tế là xuất
khẩu của chúng ta trong thời gian vừa qua chỉ phát triển theo chiều rộng, chưa
đi vào chiều sâu, các mặt hàng có giá trị gia tăng cao của Việt Nam còn thấp


2

với lợi thế chủ yếu dựa trên tài nguyên thiên nhiên tuy có sản lượng lớn, song
giá trị còn chưa cao và kém hơn nhiều nước trong khu vực. Do đó, muốn xuất
khẩu hàng hoá đi vào chiều sâu, mang lại giá trị kinh tế cao cho hàng hoá xuất
khẩu của Việt Nam thì việc thực hiện tốt quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng
xuất khẩu là con đường đúng đắn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
WTO vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn. Do vậy, nhìn nhận lại thực trạng
xuất khẩu, đặc biệt là cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta trong thời gian vừa
qua để có được những giải pháp hợp lý là một vấn đề có tính cấp thiết trong
điều kiện hiện nay.
Với lý do trên, nhóm nghiên cứu đã chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu của Việt Nam” nhằm đưa ra những lý luận cơ bản về cơ cấu hàng

hoá xuất khẩu, khảo sát thực trạng và đề ra các giải pháp đổi mới cơ cấu hàng
xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới.
Đề tài này kết cấu gồm 3 chương:
• Chương 1: Tổng quan thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
• Chương 2: Chính sách quản lí của nhà nước tác động đến cơ cấu hàng
hóa xuất khẩu
• Chương 3: Triển vọng và giải pháp đến năm 2020
Đây là một đề tài có nội dung phong phú và phức tạp nhưng trong điều
kiện hạn chế về thời gian cũng như giới hạn về lượng kiến thức, kinh nghiệm
thực tế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý kiến
của các thầy cô cùng các bạn.


3

CHƯƠNG 1:THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM
1, Tình hình chung
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng mạnh trong những
năm qua, góp phần lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, làm giảm bớt gánh
nặng nhập siêu của nền kinh tế.Với định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng
hóa xuất khẩu một cách hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tập trung nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia
tăng cao, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm thân thiện với
môi trường trong cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam đâng dần hoàn thành
mục tiêu với kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh hàng năm với sự thây đổi
cơ cấu ngày càng hợp lý và rõ nét. Cụ thể, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu
đạt 48,6 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006. Đến năm 2008, kim ngạch
xuất khẩu đạt 62,7 tỷ USD, tăng tới 29,1% so với năm 2007. Tuy nhiên do tác
động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt
56,58 tỷ USD, giảm 8,9% so với năm 2008, nhưng vẫn cao hơn mức kim

ngạch xuất khẩu năm 2006 là 45,8%. Nếu so với thương mại toàn cầu với
tổng giá trị năm 2009 giảm tới 31% so với 2008 và thấp hơn so với 2006, thì
tình hình xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn tương đối khả quan. Nếu không
tính năm 2009 (do tác động mạnh của khủng hoảng), tăng trưởng xuất khẩu
năm 2007 và 2008, nhất là năm 2007, tuy có tăng nhưng chưa thể hiện mức
độ bứt phá so với các năm trước và như kỳ vọng sau khi nước ta gia nhập
WTO. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đạt 71.63 tỷ USD (2010) tăng 25.5%
so với năm 2009, năm 2011 trị giá hàng hoá xuất khẩu đạt 96,91 tỷ USD, tăng
34,2%. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm trong 2 năm
2007-2008 là 25,5% và trong 3 năm 2009-20011 là 16,9% trong khi tăng
trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm giai đoạn trước khi gia nhập WTO
2004-2006 cũng đã đạt 25,5%. Tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong
giai đoạn này chịu tác động của 3 nhân tố chính là thay đổi về cơ cấu, về
năng lực cạnh tranh và tác động cộng hưởng giữa năng lực cạnh tranh của
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường nhập khẩu. Nếu trong giai
đoạn 2001-2006, thay đổi cơ cấu đóng góp 47,3% tăng trưởng xuất khẩu thì
đến giai đoạn 2007-2008, thay đổi cơ cấu đóng góp tới 58% tăng trưởng giá


4

trị xuất khẩu. Năm 2007 là năm với 3 sự kiện HNKTQT quan trọng: Việt
Nam trở thành thành viên WTO; hoàn thành cắt giảm thuế quan theo Chương
trình thu hoạch sớm trong khu vực ASEAN – Trung Quốc; bắt đầu thực hiện
cắt giảm thuế quan trong khu vực ASEAN – Hàn Quốc.
2, Xuất khẩu theo mặt hàng
Việt Nam đã đang và sẽ đổi mới cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng theo
hướng đa dạng hóa sản phẩm, đổi mới công nghệ, duy trì và mở rộng thị
trường, tăng năng lực hiện có và tạo dựng vị thế mới trong chuỗi giá trị. Kết
quả xuất khẩu giai đoạn 2007-2008 chủ yếu nhờ giá trên thị trường thế giới

tăng cao. Thậm chí, một số mặt hàng như than đá, hạt tiêu, gạo, giá năm 2008
tăng gấp 2 lần so với giá năm 2006; trong khi khối lượng xuất khẩu của nhiều
mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng nông sản và nhiên liệu tăng thấp. Năm
2008, chỉ có 3 mặt hàng trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu chính của
Việt Nam là hạt tiêu, gạo và hạt điều có khối lượng xuất khẩu tăng hơn so với
năm 2007.
Sang đến năm 2009, tình hình đã thay đổi. Mặc dù khối lượng xuất
khẩu các mặt hàng nông sản gia tăng, nhưng do cuộc khủng hoảng toàn cầu,
giá của nhiều mặt hàng nông sản đã giảm mạnh (giảm khoảng ¼ so với năm
2008) nên chỉ có 2 mặt hàng nông sản là hạt tiêu và chè có kim ngạch xuất
khẩu cao hơn so với năm 2008. Năm 2010, 2011 kim ngạch tăng là do tăng cả
về mặt số lượng và giá cả, đó là kết quả của những cố gắng phục hồi sau
khủng hoảng.

Biểu đồ 1: kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân thương mại của Việt Nam
giai đoạn 2001-2011


5

Hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng từ Việt Nam khi gia
nhập WTO giảm (nhất là hàng dệt may, nông sản và một số mặt hàng chế
biến khác) đã có tác động tích cực đến mở rộng xuất khẩu. Xuất khẩu một số
mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhờ tiếp cận thị trường thuận lợi hơn.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dầu thô năm 2007 và 2008 tăng tương ứng 27,0%
và 30,6% so với năm trước. Năm 2009, trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu
giảm hơn 9,8% thì kim ngạch xuất khẩu hàng phi dầu thô giảm 38,5% so với
năm 2008. Năm 2010 giảm 20% so với năm 2009. Đến năm 2011 thì phục
hồi mạnh mẽ với sự tăng trưởng lên tới 41,4%.
Ngay sau khi gia nhập WTO, một số hàng xuất khẩu đã có kim ngạch

tăng đột biến. Đó là sản phẩm nhựa (tăng 56,9% năm 2007), dệt may (32,1%),
túi xách và ví (24,9%). Các mặt hàng chế biến khác cũng tăng, nhưng chậm
hơn. Trong khi xuất khẩu các mặt hàng nông sản năm 2007 tăng cao có thể do
nguồn cung ở các nước chủ lực sản xuất các sản phẩm này giảm, thì việc mở
rộng xuất khẩu túi xách, hàng điện tử, sản phẩm nhựa, dệt may, chủ yếu là
nhờ tham gia WTO Việt Nam đã thểhiện tốt hơn lợi thế so sánh tĩnh vốn có
của mình (chi phí lao động tương đối thấp, nguồn lực tài nguyên khá).

Bảng 2: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng
chế biến hàng năm thời kỳ 2006-2011 (%)


6

Mặt hàng
Hàng thủy sản
Hàng dệt may
Giày dép
Hàng điện tử, máy tính
Gỗ và các sản phẩm từ gỗ
Dây điện và dây cáp điện
Sản phẩm nhựa
Ba lô, túi, cặp, ví

2006
22,9
22,7
18,3
25,8
24,4

36,2
26,4
6,6

2007
12,1
32,1
11,2
19,8
22,7
25
56,9
24,9

2008
20,2
18
19,2
21,9
18,7
13,5
29,8
32,5

2009
-7
-1,3
-15,8
5,1
-9,9

-12,2
-12,9
-13,2

2010
18
23,7
26
29,9
14,9
47
21
16,3

Sang đến cuối năm 2008 và năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của các
mặt hàng chế biến bắt đầu giảm, một phần do cuộc khủng hoảng tài chính trở
nên mạnh mẽ hơn từ giữa năm 2008 nên nhiều đơn đặt hàng bị hủy bỏ. Mặc
dù vậy, một số mặt hàng vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
cao trong năm 2008 như hàng nhựa (29,8%), hàng điện tử máy tính (21,9%),
túi xách (32,5%), hàng thủy sản (20,2%).
Sau khi kết thúc cuộc khủng hoảng thì các hàng kinh kiện điện tử tăng
và tăng rất mạnh ( 198,4% vào năm 2011), một số mặt hàng khác cung tăng tỷ
trong như sản phẩm nhựa tăng 21% năm 2010, dây điện và dây cáp điện tăng
47% năm 2010. Còn tỷ trọng của nhóm hàng sử dụng nhiều nguyên liệu, giá
trị gia tăng thấp thì giảm xuống
Một tác động gián tiếp của WTO là sự thay đổi tích cực hơn trong cơ
cấu xuất khẩu. Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch dần từ sản phẩm thô (dầu mỏ,
than đá, cao su, 50gạo) sang sản phẩm công nghiệp chế biến, kể cả sản phẩm
có hàm lượng công nghệ và GTGT cao hơn. Điều đó chứng tỏ Việt Nam bước
đầu đã ít nhiều phát huy được lợi thế động bên cạnh việc tiếp tục tận dụng

những lợi thế tĩnh vốn có của mình.
3, Đánh giá xu hướng chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Sự chuyển dịch các mặt hàng xuất khẩu đang thể hiện rất rõ nét từ
trước và sau khi gia nhập WTO với những xu hướng cụ thể như sau:
Với nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản: xu hướng giảm dần xuất khẩu
khoáng sản thô để tập trung đầu tư công nghệ, tăng xuất khẩu sản phẩm chế
biến, tận dụng các cơ hội thuận lợi về thị trường và giá từ đó tăng giá trị xuất
khẩu.


7

Với nhóm hàng nông, lâm, thủy sản, là nhóm hàng có lợi thế và năng
lực cạnh tranh dài hạn nhưng giá trị gia tăng còn thấp đang và sẽ nâng cao
năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm có ứng dụng khoa học
công nghệ tiên tiến.
Riêng với nhóm hàng có tiềm năng phát triển và thị trường thế giới có
nhu cầu là nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo, chúng ta đangchuyển
dần sang phát triển những sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám
cao; phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng tỷ lệ giá trị trong nước, giảm phụ
thuộc vào nguyên phụ liệu nhâp khẩu.
Đáng lưu ý, nhóm hàng mới (nằm trong nhóm hàng hóa khác), đang
tập trung rà soát các mặt hàng có kim ngạch hiện nay còn thấp nhưng có
tiềm năng tăng trưởng cao tạo sự đột phá trong xuất khẩu
Phân tích đóng góp của các nhân tố chính đối với tăng trưởng xuất
khẩu theo 3 nhóm mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam cho thấy sau khi
gia nhập WTO, năng lực cạnh tranh góp phần quan trọng vào tăng trưởng
xuất khẩu nhóm hàng điện tử, đóng góp tới 120% giá trị tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này, cao gấp 6 lần mức đóng góp trong giai

đoạn trước đó; con số này đối với nhóm hàng dệt may là 80,6%. Điều này
cho thấy, sau khi gia nhập WTO, ở một số lĩnh vực, các doanh nghiệp Việt
Nam đã cải thiện được năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu. Tăng trưởng kim
ngạch của các sản phẩm này đều thấp hơn so với giai đoạn trước khi gia nhập
WTO. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm trong 2 năm
2007-2008 của các sản phẩm dây điện và dây cáp điện giảm xuống còn
19,1%/năm, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
42,7%/năm trong các năm 2004-2006 và tăng trở lại 47% năm 2010
Qui mô xuất khẩu còn nhỏ, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người
thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Xuất khẩu bình quân đầu
người năm 2007 của Xin-ga-po là 60.600 USD, Ma-lai-xia 5.890 USD, Thái
Lan 1.860 USD, Phi-lippin 546 USD, và Việt Nam 570 USD (năm 2008 là
730 USD, năm 2009 là 666 USD). Xuất khẩu dễ bị tổn thương trước biến
động từ bên ngoài như các cú sốc giá cả hay sự xuất hiện rào cản thương mại
mới. Điều này một phần do chủng loại mặt hàng xuất khẩu còn nghèo nàn,


8

tập trung vào một số ít hàng xuất khẩu chủ lực, thiếu đột phá. Bảng 18 cho
thấy danh mục các mặt hàng xuất khẩu chính gần như không có nhiều thay
đổi trong vòng 6 năm gần đây. Tỷ trọng kim ngạch các mặt hàng quan trọng
nhất trong xuất khẩu chỉ giảm 79,5% năm 2006 xuống 76,7%, 73,0% và
68,8% trong 3 năm tiếp theo. Nếu bỏ dầu thô ra khỏi nhóm các mặt hàng xuất
khẩu chính thì tỷ trọng các mặt hàng quan trọng khác trong tổng kim ngạch
xuất khẩu gần như không đổi. năm 2007, 2008 và 2009 lần lượt là 59,2%,
56,4% và 57,8%.
Bảng 3: Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu chính trong tổng kim
ngạch xuất khẩu thời kỳ 2006-2009 (%)
Mặt hàng

Dầu thô
Dệt may
Giay dép
Thủy sản
Sản phẩm gỗ
Điện tử, máy tính
Cà phê
Gạo
Cao su
Than đá
Dây diện, cáp điện
Sản phẩm nhựa
Ba lô, túi, ví

2006
21,4
16,7
10,2
9,1
4,2
4
2,4
3,6
2,3
1,3
1,5
0,9
1,4

2007

22,9
14,9
9,3
8,5
4,7
4,5
2,2
4,3
2,4
2
1,6
1,1
1,4

2008
21
14,6
9
8,5
4,8
4,5
2,8
3,3
3,2
2,3
1,8
1,2
1,2

2009

17,5
16,1
8,2
7,8
4,9
4,5
3,2
3
2,9
2,1
1,8
1,5
1,3

Xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng thô như khoáng sản
(dầu thô, than đá), NLTS; trong khi các mặt hàng công nghiệp chế biến (như
dệt may, da giày, điện tử và máy tính) về cơ bản mang tính chất lắp ráp, gia
công với GTGT thấp. Tỷtrọng giá trị xuất khẩu các mặt hàng sử dụng công
nghệ thấpvẫn chiếm tới 44,5% tổng giá trị kim ngạch (không kể dầu thô). Tỷ
trọng giá trị xuất khẩu các mặt hàng sử dụng công nghệ cao và công nghệ
trung bình tăng chậm từ 14,5% năm 2004 lên 18,1% năm 2009. Chất lượng
hàng xuất khẩu còn không đồng đều.
Bảng 4: Tỷ trọng giá trị xuất khẩu (không kể dầu thô) theo
trình độ công nghệ (%)
Công nghệ

2007

2008



9

Sử dụng công nghệ cao
7,3
6,2
Sử dụng công nghệ trung bình
9,8
11,9
Sử dụng công nghệ thấp
46,1
44,5
Sử dụng nhiều nguyên liệu
8,7
8,7
Sử dụng nguyên liệu thô
28,1
28,7
Nguồn: Tính toán của Viện NCQLKTTW theo số liệu COMTRADE
Kết quả chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực của Việt
Nam trong thời gian qua, bên cạnh vai trò điều tiết của thị trường thì còn chịu
tác động của các chính sách quản lí phù hợp của nhà nước
.

CHƯƠNG 2
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN
CƠ CẤU HÀNG HÓA XUẤT KHẨU
2.1. Chính sách hối đoái
2.1.1. Nội dung chính sách



10

Tỷ giá hối đoái là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng
của mỗi quốc gia. Nó không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương
mại, thu hút đầu tư mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng.
Về nguyên lý, tỷ giá hối đoái thay đổi sẽ làm thay đổi mức giá tương đối của
hàng hóa và dịch vụ bằng đồng tiền trong nước và đồng tiền nước ngoài. Sự
giảm giá này sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh về giá của các mặt hàng từ đó
khuyến khích xuất khẩu. Đồng thời, việc hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt đỏ
sẽ tạo ra sự dịch chuyển cầu từ hàng ngoại sang hàng nội từ đó góp phần tăng
trưởng kinh tế.
Trung Quốc là một trong số các quốc gia đã thành công trong việc sử
dụng chính sách tỷ giá thấp như một công cụ hữu hiệu nhằm thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế nước. Ngày 1/1/1994, sau khi thống nhất 2 loại tỷ giá
khác nhau đang song song tồn tại, Trung Quốc đã cho đồng nhân dân tệ phá
giá tới 35%, tỷ giá chính thức được điều chỉnh từ mức 5,7 NDT/USD lên 8,7
NDT/USD. Kèm theo đó là các quy định xóa bỏ chế độ tự giữ ngoại hối, các
doanh nghiệp thực hiện chế độ kết hối ngoại tệ 100%, các doanh nghiệp có
nhu cầu ngoại tệ thanh toán hàng nhập khẩu được mua ngoại tệ tại các ngân
hàng được phép,… Những thay đổi này đã đem lại kết quả tích cực cho nền
kinh tế. Sau gần 10 năm thực hiện, từ nhập siêu, cán cân thương mại Trung
quốc đã chuyển sang duy trì mức tăng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu. Đến năm
2008, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt lên đứng thứ ba thế giới, chỉ sau
Mỹ và Đức. Đến cuối năm 2009, Trung quốc đã thay thế Đức trở thành nền
kinh tế xuất khẩu hàng đầu thế giới sau Mỹ.
Cũng với mục đích thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế tình trạng nhập siêu, từ
năm 2008, trước tình hình suy thoái kinh tế quốc tế ảnh hưởng mạnh đến Việt
nam, các dòng vốn vào Việt nam bị hạn chế, ngân hàng nhà nước đã chủ động
điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng để tăng tính thanh khoản trên thị trường ngoại tệ.

Biểu đồ 5: Diễn biến tỷ giá USD/VND tháng 11/2009 – 12/2010


11

Ngày 26/11/2009, ngân hàng nhà nước hạ biên độ tỷ giá từ mức 5%
xuống 3%, đồng thời nâng tỷ giá liên ngân hàng thêm 5,44%, lên mức 17.961
VND/USD. Trong năm 2010, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện hai lần điều
chỉnh tỷ giá. Lần thứ nhất vào ngày 11/2/2010, tỷ giá USD/VND được điều
chỉnh tăng từ mức 1 USD = 17.941 VND lên mức 1 USD = 18.544 VND,
tăng 3,36% đồng thời ấn định lãi suất tiền gửi tối đa bằng đôla Mỹ của các tổ
chức kinh tế tại ngân hàng ở mức 1%. Lần điều chỉnh thứ hai diễn ra vào ngày
17/8/2010 khi tỷ giá USD/VND tăng gần 2,1%, đạt tới mức 1 USD = 18.932
VND trong khi vẫn giữ nguyên biên độ ở mức +/- 3%. Dù vậy, chênh lệch
giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do vẫn ở mức cao.
Ngày 11/2/2011, mức tỷ giá USD/VND một lần nữa được Ngân hàng
nhà nước điều chỉnh tăng 9.3%. Đây là mức điều chỉnh mạnh nhất trong lịch
sử qua một lần điều chỉnh, gần bằng mức tăng của cả một năm trong những
năm trước đây. Mức tăng đột phá này là một động thái nhằm kéo giá USD
trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do sát lại gần nhau, khắc phục
tình trạng chênh lệch diễn ra vào năm 2010.
2.1.2. Đánh giá chính sách
2.1.2.1. Thành tựu
Nhờ những điều chỉnh trong chính sách tỷ giá, tình hình xuất khẩu của
Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Năm 2010 tổng kim
ngạch xuất khẩu đạt 71,63 tỷ USD, tăng 25,5% so với mức thực hiện năm
2009; năm 2011 đạt mức 96,3 tỷ USD, tăng 33,3%; năm 2012 tăng 23,6%.
Mức nhập siêu cũng theo đó mà liên tục giảm.



12

Bảng 6: Nhập siêu hàng hóa qua một số năm
2007

2008

2009

2010

2011

14,2

18,0

12,9

12,6

9,5

Nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất
29,2
khẩu (%)

28,8

22,5


17,5

9,9

Nhập siêu (Tỷ USD)

Chính sách tỷ giá trong thời gian qua đã có sự điều chỉnh căn bản và
những điều chỉnh này là đúng đắn và cần thiết giúp đưa tỷ giá chính thức gần
hơn với tỷ giá trên thị trường tự do, đáp ứng nhu cầu thực tế trong quản lý nhà
nước và kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, xét trong ngắn hạn, chính
sách này đã phát huy được tác dụng khi liên tục tạo ra mức tăng trưởng đáng
mừng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, xét trong dài hạn, việc sử
dụng công cụ tỷ giá cần phải tính đến các yếu tố và mục tiêu khác của nền
kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO
thì việc tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu bằng cách hạ tỷ giá đồng
nội tệ sẽ không được quốc tế chấp nhận.
2.1.2.2. Hạn chế
Đặc thù của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua là gia công
nhiều, do vậy tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu thường sẽ đi đôi với tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu. Vì vậy, nếu coi tỷ giá hối đoái là một trong những rào
cản cho xuất khẩu, thì việc lập luận “cần phải giảm giá VND để cải thiện cán
cân thương mại” sẽ là chưa hợp lý. Việt Nam vẫn là một nước nhập siêu, 6570% hàng hóa sản xuất để xuất đến từ nhập khẩu, VND xuống giá, chi phí cho
nguyên liệu nhập khẩu trả bằng ngoại tệ tăng khiến giá thành cũng theo đó mà
đội lên gấp nhiều lần. DHA Group – một doanh nghiệp chuyên xuất khẩu hàng
may mặc sang thị trường Mỹ, thay vì đón nhận chuyển biến tích cực lại trở nên
bị động trước những diễn biến của tỷ giá thời gian qua. Theo chủ doanh nghiệp
này, nhiều nhà cung cấp nguyên liệu cho công ty đều đã đề nghị tăng giá. Vải,
chỉ, nguyên liệu chính tăng giá đã đành; đến cả các sản phẩm đầu vào như bìa
các tông, túi nylon… cũng lấy lý do tỷ giá USD/VND tăng mạnh để nâng giá.

Giá các nguyên liệu đầu vào theo đề nghị thêm từ 15% - 20% chỉ sau một thời
gian ngắn. Như vậy, nếu không có những phương pháp sản xuất hiệu quả thì


13

việc giảm giá VND chẳng những không khuyến khích mà thậm chí có thể làm
mất đi khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Mặt khác, xuất khẩu của Việt Nam cũng như các nước khác chịu tác
động rất nhiều của các yếu tố như: thuế xuất khẩu, mức giá cả hàng hóa trong
nước và nước ngoài, năng suất lao động của ngành hàng xuất khẩu, cơ cấu
hàng xuất khẩu, chất lượng và mức độ đa dạng chủng loại sản phẩm, công tác
tiếp thị, xúc tiến thương mại,… Trong cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam thì
dầu thô, hàng dệt may, thủy sản và gạo chiếm tỷ trọng tương đối lớn (khoảng
gần 40%) mà giá trị của các mặt hàng này chủ yếu dựa vào kết quả của hoạt
động sản xuất và khả năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế hơn là tỷ giá hối
đoái. Trong khi năng lực sản xuất hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, năng lực
cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam còn rất hạn chế. Do vậy, một sự
giảm giá VND không chắc đã làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất
khẩu Việt Nam.
Bên cạnh đó, tỷ giá hối đoái còn liên quan đến hàng loạt vấn đề như
cán cân thanh toán, nợ quốc gia, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và
bất động sản. Chỉ xét riêng mối quan hệ giữa tỷ giá với nợ quốc gia cũng đủ
cho thấy cần rất thận trọng trong việc nâng hay giảm giá của đồng tiền. . Nợ
quốc gia của Việt Nam chủ yếu là nợ nước ngoài (khoảng 40% GDP), nếu
giảm giá sẽ làm tăng khoản nợ của Chính phủ. Với cơ cấu nợ công của Việt
Nam nghiêng về nợ nước ngoài, thì khi tỷ giá điều chỉnh tăng lên, sẽ dẫn đến
rủi ro nợ công do lãi suất biến động theo xu hướng tăng. Như vậy sẽ dẫn đến
chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế,
sẽ làm gia tăng mức độ đôla hóa và tiếp tục tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái.

Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp vay ngoại tệ để xây dựng nhà máy, triển khai dự án, nhưng sản phẩm
của dự án lại được tiêu thụ chủ yếu trong nước, được định giá bằng VND
cũng sẽ gặp khó khăn. Các doanh nghiệp thuộc một số nhóm ngành như vật
liệu cơ bản (thép, nhựa), hàng tiêu dùng (sữa, bánh kẹo), công nghiệp (hóa
chất, vận tải kinh doanh xăng dầu) và dược phẩm sẽ phải giải bài toán cân đối
giá bán sản phẩm đầu ra sao cho vừa bù đắp được chi phí đầu vào lại vừa đảm
bảo giữ được thị phần và doanh thu. Nhiều doanh nghiệp lợi nhuận làm ra cả
năm không đủ bù đắp khoản chênh lệch tỷ giá đối với khoản vay ngoại tệ của


14

mình, thậm chí có trường hợp dẫn phá sản. Theo tính toán của cơ quan chức
năng, nếu như đồng Việt Nam mất giá 5% thì mỗi năm Ngân sách Nhà nước
sẽ chi thêm 26.000 tỷ đồng để trả nợ nước ngoài, các doanh nghiệp cũng phải
trả nợ thêm 13.000 tỷ đồng.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế để đẩy mạnh hơn nữa
xuất khẩu của đất nước
2.2.1. Nội dung chính sách
Trong bối cảnh chung là toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, phân công lao
động quốc tế ngày một sâu sắc và cơ hội thị trường rộng lớn được mở ra dẫn
đến các nước có khả năng khai thác những thế mạnh của nhau để trao đổi các
nguồn lực, vốn, kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả...nhưng
đồng thời sự cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu cũng vô cùng gay gắt, lại
muốn phát triển được sản xuất của đất nước theo một chiến lược chung, việc
lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý, đem lại hiệu quả cao là điều rất cần thiết,phải
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phân công lao động trên quy mô
toàn thế giới.
Tuy nhiên, ngày nay các nước thực hiện công nghiệp hóa định hướng

xuất khẩu đi sau không thể sử dụng nguyên mẫu của các mô hình sẵn có bởi
dưới tác động của những nhân tố mới, những lợi thế so sánh truyền thống
không còn được đánh giá cao như trước đây, nên việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của các nước đi sau cũng cần phải được nhận thức lại nhằm tạo ra một
cơ cấu kinh tế hiện đại, cân đối, năng động và tăng trưởng nhanh một cách
bền vững hơn.
Trong những năm qua Việt Nam đã thực hiện quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế phù hợp.
- Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
có nhiều bước tiến bộ, đi đúng hướng, đã khai thác được lợi thế cây, con và
vùng lãnh thổ, góp phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Trong khi giá
trị tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP ngày càng giảm.Đặc biệt thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Đảng và Nhà nước, những năm gần đây đã có sự chuyển mạnh
một phần diện tích trồng lúa có năng suất, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy
sản (tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải Nam


15

Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân:
• Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng bình quân 5%/năm
thời kỳ 2006-2010, trong đó nông nghiệp tăng 4,2%; lâm nghiệp tăng 3,1%;
thuỷ sản tăng 8%. Sản xuất thủy sản tuy gặp không ít khó khăn trong quá trình
Việt Nam gia nhập WTO và việc áp dụng thuế chống bán phá giá hàng thủy
sản của Mỹ. Nhưng đây vẫn là sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn của nước ta
- Cơ cấu công nghiệp cũng đang chuyển dịch đúng hướng:tăng tỷ trọng
công nghiệp xây dựng,chế biến,sản xuất điện,khí,gas..và giảm tỷ trọng công
nghiệp khai thác.

Bình quân trong thời kỳ 2006-2010, giá trị sản xuất công nghiệp theo
giá so sánh 1994 tăng 13,8%/năm (Công nghiệp khai thác mỏ tăng 0,3%;
công nghiệp chế biến tăng 15%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí
đốt và nước tăng 12,1%), Năm 2011,tốc độ tăng của các ngành kinh tế chuyển
biến theo hướng tích cực, giảm dần khai thác khoáng sản, gia tăng công
nghiệp chế biến, chế tạo: so với năm 2010, công nghiệp khai khoáng giảm
0,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,5%; công nghiệp sản xuất, phân
phối điện, gas, nước tăng 10%
• Nếu xét theo tiêu thức công nghệ, càng thấy rõ hơn xu hướng chuyển
dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp những năm qua là tích cực, theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta.
Bởi, các ngành công nghiệp có công nghệ cao ngày càng được mở rộng và
phát triển nhanh, tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có giá trị cao, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng ngày một nâng lên ở trong nước và tham gia xuất khẩu, như ôtô, sản phẩm điện tử, tàu thủy..
- Trong lĩnh vực dịch vụ, đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất và
lượng, nhất là từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây. tỷ trọng của một số
ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu của lĩnh vực dịch vụ và trong cơ cấu
GDP còn thấp như ngành tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ, vận
tải, viễn thông, dịch vụ kinh doanh ngày càng tăng biểu hiện một sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
2.2.2.đánh giá chính sách


16

2.2.2.1.ưu điểm
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách tích cực trong những năm
qua góp phần quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của đất nước, làm
thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng có lợi,tăng dần tỷ trọng nhóm hàng
công nghiệp, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao,

giảm dần xuất khẩu hàng thô.
Biểu đồ 7: Cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng năm 2010

(Nguồn: Cafef, TCHQ)
Biểu đồ 8: Cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng năm 2011

(Nguồn: Cafef, TCHQ)
Từ chỗ xuất khẩu thô là nhiều, giờ đây nhóm mặt hàng chế biến tăng
lên, từ 36% tỷ trọng trong năm 2006 lên trên 40% trong năm 2011.

Biểu đồ 9:Diễn biến tình hình xuất khẩu túi xách, ví, vali, mũ &


17

ô dù theo tháng năm 2009- 2011

Tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm sản và thủy sản giảm từ 20,6%
xuống còn 18,4% trong năm 2011. Tỷ trọng của nhóm nhiên liệu và khoáng
sản giảm từ 23% năm 2006 xuống 8,3% trong 2010 và giảm tiếp xuống trong
năm qua, trong đó dầu thô giảm từ 16,7 triệu tấn xuống hơn 7 triệu tấn, than
đá giảm từ 23,9 triệu tấn xuống 19,8 triệu tấn.
Một thành tích quan trọng của xuất khẩu hàng hóa năm qua là lần đầu
tiên trong lịch sử, Việt Nam có 1 mặt hàng công nghiệp chế biến xuất siêu đó
là hàng dệt may. Năm 2011, mặt hàng này xuất siêu tới 7 tỷ USD.
Biểu đồ 10: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm
2006 – 2011

Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu đã có thứ hạng nhất nhì trên thị

trường thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều… trước nay chưa thể tác
động tới giá, thì bắt đầu từ 2010, đặc biệt là 2011, chúng ta bắt đầu có tác
động tuy chưa nhiều, trong đó đáng kể là gạo, cà phê


18

Tuy nhiên Tính đến hết năm 2009, tỷ trọng hàng xuất khẩu công nghệ
cao của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong khi đó, tỷ lệ này của Trung Quốc là 35%, Thái Lan là 40%, Malaysia là
60%. Điều đáng nói là tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ cao của Việt Nam ít
thay đổi trong 10 năm gần đây.

Việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu như trên là phù hợp,tuy nhiên quá
trình chuyển dịch còn nhiều nhược điểm.
2.2.2.2. Hạn chế
-Tỉ trọng ngành nông-lâm-thủy sản mặc dù giảm nhưng còn cao trong
cơ cấu GDP của đất nước. Đây là ngành mà sản xuất phải phụ thuộc nhiều
vào điều kiện tự nhiên, bị giới hạn bởi năng suất, diện tích, khả năng khai
thác, giá cả sản phẩm lại chịu nhiều tác động của sự biến động lên xuống trên
thị trường thế giới và có xu hướng giảm theo giá "cánh kéo" với hàng công
nghiệp, do đó giá trị kim ngạch xuất khẩu của hàng nông sản sẽ không cao và
không ổn định
- Tỉ trọng của ngành công nghiệp chưa cao, đặc biệt là ngành công
nghiệp chế tạo. Sự đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu của ngành công
nghiệp một số năm qua mới chủ yếu là do phát triển các ngành công nghiệp
lắp ráp, gia công như lắp ráp ô-tô, xe máy, dệt may, giày dép, là những ngành
chủ yếu "lấy công làm lãi", nguồn nguyên liệu bị phụ thuộc vào thị trýờng
nýớc ngoài.
-Tỷ trọng công nghiệp chế biến của nước ta còn nhỏ (tỉ lệ sản phẩm chế

biến trong cơ cấu xuất khẩu chỉ tăng khoảng 1,5%/năm), vì thế kéo theo tỉ


19

trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến sâu vẫn còn thấp, mới xuất khẩu chủ
yếu hàng thô, sơ chế, làm hạn chế giá trị gia tăng của sản phẩm và kim ngạch
xuất khẩu
- Tỷ trọng thấp của ngành dịch vụ trong GDP và rất thấp trong tổng
kim ngạch xuất khẩu (13,4% tổng kim ngạch xuất khẩu - dưới mức trung bình
của thế giới là 20,0%) càng cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế của nước ta chưa có khả năng tạo ra sự chuyển biến mạnh trong xuất khẩu
của đất nước.
Ngoài ra năng lực cạnh tranh của các mặt hàng còn yeus cả về mẫu
mã,chủng loại, chất lượng....và giá trị xuất khẩu không cao..
2.3.Hội nhập kinh tế quốc tế
2.3.1. Nội dung chính sách
Theo xu hướng chung hội nhập kinh tế quốc tế của thế giới, Việt Nam
đã đàm phán và ký kết một số hiệp định song phương và đa phương như Hiệp
định thương mại Việt Nam - Trung Quốc (1991), Hiệp định khung Việt Nam EU (1995), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2000), trở thành quan
sát viên của GATT vào năm 1994 và bắt đầu đàm phán gia nhập WTO vào
năm 1997, gia nhập ASEAN vào năm 1995 và tham gia chương trình cắt giảm
thuế quan trong khuôn khổ AFTA từ năm 1996, trở thành thành viên của
APEC vào năm 1998, tham gia các cơ chế hợp tác giữa ASEAN với Trung
Quốc, EU, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc và một số nước khác. Sau 9 năm đàm
phán, đến tháng 5/2006 Việt Nam và Mỹ đã chính thức kết thúc đàm phán
song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO, và đến cuối tháng 7/2006 đã
diễn ra phiên đàm phán đa phương lần thứ 12 về gia nhập WTO của Việt
Nam. Đây là những sự kiện quan trọng, mở đường cho Việt Nam có thể chính
thức gia nhập WTO vào năm 2007

Quá trình hội nhập kinh tế, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO
và tham gia mạnh mẽ hơn các hiệp định thương mại tự do (FTA) đòi hỏi phải
có một chiến lược xuất nhập khẩu hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Việt Nam cần tập trung phát triển các
mặt hàng công nghệ mới có giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghiệp và
chất xám cao trên cơ sở thu hút mạnh đầu tư trong nước và nước ngoài vào
các ngạch sản xuất định hướng xuất khẩu


20

Để hội nhập kinh tế quốc tế,Việt Nam cần thực hiện tốt các cam kết
khi gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế như WTO,FTA…cấu trúc lại
các thủ tục hành chính, (các thủ tục hành chính phiền hà được xóa bỏ, thì
môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp sẽ
được đảm bảo). đồng bộ hơn về các chính sách và luật,đào tạo đội ngũ
nhân lực chuyên môn cao và năng lực giỏi. (số lượng các bộ và cơ quan
ngang bộ giảm từ 26 xuống còn 23); cải cách hành chính và cơ chế một cửa
tiếp tục được thực hiện (chương trình đơn giản hóa các thủ tục hành chính
một cách toàn diện giai đoạn 2007 – 2010; quyết định 93/2007/QD-TTg tháng
6-2007 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa)”. Có thể thấy,
những đốm sáng trong đổi mới thể chế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
như sự ra đời Nghị định 30 của Chính phủ về vấn đề giảm bớt 30% thủ tục.
Việt Nam đã dần nhận biết rõ hơn thể chế thị trường và nền kinh tế thế giới,
từ đó tìm cách ứng phó cơ động, linh hoạt hơn
Khi hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan tâm đến lợi ích xuất khẩu
chính là sự so sánh tương quan trực diện về sức cạnh tranh với các hàng hóa
giữa các quốc gia, nhất là những quốc gia trong khu vực như Thái Lan,
Indonesia, Philippin với nước ta có ý nghĩa rất lớn. Cũng như bất cứ quốc
gia nào khác trong khu vực, Việt Nam tham gia FTA một phần vì không

muốn mất đi ưu thế xuất khẩu tương đối, sẵn có là động lực để ta cùng thiết
lập FTA với các đối tác của mình. Hiện tại, đối tác FTA của ASEAN và Việt
Nam đều là các quốc gia Đông Á. Đây là thị trường xuất khẩu quan trọng
nhất của nước ta với kim ngạch gần 35 tỷ USD, tương đương với 48% tổng
kim ngạch xuất khẩu .
Hiện nay, Sự đóng góp trực tiếp của các ngành sản xuất của nước ta
vào chuỗi cung ứng giá trị mang tầm khu vực còn rất hạn chế. 85% kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam vẫn là các sản phẩm dầu thô, nông, lâm, thủy sản,
khoáng sản và dệt may.. Cơ cấu trao đổi thương mại với các nước Đông Á
hiện nay phản án sự liên kết ngành chưa cao. Gần đây, một số mặt hàng xuất
khẩu có hàm lượng gia tăng cao hơn như điện, điện tử, sản phẩm nhựa, dây
điện đã bắt đầu xuất hiện nhưng tỷ trọng chưa đáng kể. Tình trạng này sẽ chỉ
được cải thiện cho đến khi trạng thái cân bằng mới được xác lập trong dài hạn
khi nước ta tham gia sâu hơn vào liên kết ngành trong khu vực, dẫn đến sự


21

biến chuyển về cơ cấu chung của nền kinh tế theo hướng hội nhập. Nhờ sự
gần gũi về địa lý, quan hệ kinh tế, chính trị giữa nước ta và các đối tác Đông
Á là một trong những nhân tố quan trọng quyết định chất lượng phát triển của
kinh tế nước ta
2.3.2.Đánh giá chính sách
2.3.2.1.Ưu điểm
Việc Việt Nam ra nhập WTO và nhiều tổ chức thương mại khác,tiến tới
hội nhập kinh tế quốc tế là động lực chính để Việt Nam cải thiện môi trường
đầu tư,kinh doanh, đã thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, nhờ môi trường ổn
định, minh bạch
Trong 5 năm qua, Việt Nam đã sửa và xây dựng 86 luật, tạo điều kiện
để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, phù hợp với nguyên

tắc của WTO Xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục, sau 5 năm, kim ngạch
xuất khẩu tăng 97,7%, năm 2011 đã đạt 96,3 tỷ USD. Dịch vụ phân phối, bán
lẻ phát triển mạnh, sự ra đời của các siêu thị, trung tâm thương mại và hàng
trăm cửa hàng tiện ích đã làm thay đổi diện mạo của thương mại bán lẻ, thay
đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng theo hướng văn minh, hiện đại và
đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế-xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn mang lại cho nhiều cơ hội lớn cho các
doanh nhiệp xuất khẩu của Việt Nam về thị trường,chính sách thuế…
Cho đến nay, việc thiết lập FTA với các nền kinh tế to lớn và năng
động bậc nhất trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Úc đã mang đến nhiều cơ hội lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Từ
năm 2004 đến 2010, kim ngạch hai chiều Việt Nam với các đối tác ASEAN
và Đông Á đã tăng từ 32 tỷ USD lên 82 tỷ USD, tức là tăng gần 270%. Mức
tăng trưởng hàng năm đạt 28%. Trong đó, tỷ trọng thương mại của các nước
đối tác trong khu vực ASEAN và Đông Á là 53% trong tổng kim ngạch
thương mại của Việt Nam, nếu tính thêm 3 đối tác là Úc, Niuzilân và Ấn Độ
trong ASEAN+6 thì con số này là 56%. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam
với các quốc gia Đông Á còn tăng trưởng với tốc độ cao. Có thể nói, tham gia
vào FTA với ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Niuzilân, nước ta
có cơ hội tiếp cận thuận lợi và khai thác thị trường khổng lồ chiếm hơn 50%
dân số và GDP thế giới, mở ra nhiều tiềm năng xuất khẩu.


22

Ngoài ra mức thuế trung bình nhờ cam kết FTA đã giảm từ 8,1%
xuống 4%. Các mặt hàng có lợi nhất là dệt may, giày dép, hóa chất, điện và
điện tử. Với thị trường Úc và Niuzilân, mặc dù là thị trường có mức bảo hộ
bằng thuế quan tương đối thấp nhưng khoảng 14% xuất khẩu của Việt Nam
(chủ yếu là hàng may mặc, giày dép, một số sản phẩm kim loại) đang chịu

mức thuế từ 7- 100% sẽ được giảm thiểu đáng kể từ 2013. Các thị trường
Trung Quốc, Hàn Quốc về cơ bản đã không áp dụng thuế nhập khẩu đối với
các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
2.3.2.2.Nhược điểm
Bên cạnh các cơ hội nhận được khi hội nhập kinh tế thì Việt Nam cũng
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức,sự cạnh tranh gay gắt với
mặt hàng xuất khẩu của nước ngoài,chịu nhiều áp lực về các tiêu chuẩn kĩ
thuật,môi trường,chất lượng… Hoạt động xuất khẩu dễ bị tổn thương trong
bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là các nhóm xuất
khẩu dựa vào lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động rẻ như nông sản, thủy
sản, dệt may, da giày, đồ gỗ…
Các thành quả gia nhập WTO chưa được như mong muốn. Nguyên
nhân sâu xa là cơ thể kinh tế nước ta vẫn còn yếu kém, chưa thể hấp thụ,
chuyển hoá những cơ hội thành hiện thực, trong khi chưa giải quyết hết khó
khăn do hội nhập mang đến. Nguyên do là năng lực cạnh tranh của hàng hoá
nước ta ở cả 3 cấp quốc gia, ngành hàng, doanh nghiệp còn kém, nên giá
thành sản phẩm còn cao, phẩm cấp thấp so với chuẩn quốc tế, chất lượng
phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Chưa có chính sách ổn định lâu dài, hệ thống
pháp lý đồng bộ để phát huy mọi nguồn lực trong nước, khuyến khích các loại
hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Do vậy, việc thực hiện cam
kết mở cửa thị trường khi gia nhập WTO đã dẫn đến tình trạng rất nhiều
doanh nghiệp thua ngay trên sân nhà.
2.4.FDI với chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
2.4.1. Nội dung chính sách
Từ khi thực hiên chính sách mở cửa,nguồn vốn FDI vào Việt Nam ngyaf
càng tăng và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Việt Nam luôn thể
hiện sự nhất quán trong chính sách thu hút và sử dụng vốn FDI, coi việc thu
hút FDI là một trong những ưu tiên hàng đầu nhằm khai thác những lợi thế so



23

sánh của đất nước và thúc đẩy xuất khẩu. Kể từ khi được ban hành vào năm
1988 đến nay, Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã qua một số
sửa đổi, ban hành mới, và đến tháng 11/2005 được thay thế bằng Luật đầu tư
chung đối với các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn nước
ngoài [29]. Cũng vào tháng 11/2005 Luật doanh nghiệp mới cũng đã được
thông qua, góp phần làm cho khuôn khổ pháp lý đối với FDI trở nên đầy đủ,
minh bạch, rõ ràng và thông thoáng hơn [30]. Để khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài, Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi qua thuế với mức
độ khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực, đặc điểm hoạt động và mức độ định
hướng xuất khẩu của các dự án đầu tư, giảm dần sự phân biệt đối xử giữa
doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, tạo lập một
sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp đó. Bên cạnh việc xây dựng
luật đầu tư chung, Việt Nam cũng đã từng bước áp dụng và đến nay đã hoàn
thành lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài giảm
chi phí sản xuất. Từ năm 2004, Việt Nam đã áp dụng mức thuế thu nhập
doanh nghiệp thống nhất là 28% đối với tất cả các doanh nghiệp trong nước
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Công tác xúc tiến đầu tư cũng đã
được triển khai tích cực dưới nhiều hình thức khác nhau, cả trong nước lẫn ở
nước ngoài, từ đó góp phần quảng bá cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, tạo sự quan tâm ngày càng lớn từ phía tập đoàn, công ty lớn trên
thế giới về Việt Nam. Việc tăng cường cơ chế đối thoại giữa chính phủ Việt
Nam và các nhà đầu tư có tác dụng hết sức tích cực trong việc nắm bắt và xử lý
kịp thời những khó khăn, vướng mắc nảy sinh đối với các nhà đầu tư.
Tình hình thu hút FDI vào việt nam đến cuối năm 2011
Vốn đầu tư nước ngoài lũy kế: Tính đến ngày 15/12/2011, Việt Nam có
13.667 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 198 tỷ USD, trong đó công
nghiệp và xây dựng chiếm 54%.
Về vốn đăng ký năm 2011: Tính đến 15/12/2011, vốn đăng ký mới và

tăng thêm tại Việt Nam đạt 14,7 tỷ USD, bằng 74% so với năm 2010. Riêng
vốn đăng ký mới đạt 11,6 tỷ USD, bằng 65% năm 2010 nhưng đã có những
chuyển biến theo hướng tích cực. Vốn đăng ký năm 2011 tập trung 76,4% vào
lĩnh vực công nghiệp và xây dựng kinh doanh bất động sản năm 2011 chỉ
chiếm 5,8%,Vốn đăng ký tăng thêm đạt 3,1 tỷ USD


×