Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.83 KB, 78 trang )

CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình mở cửa hội nhập sâu rộng với
nền kinh tế khu vực và toàn cầu, nhất là sau khi nước ta trở thành thành viên thứ
150 của WTO thì sự ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới cũng như tình hình biến
động kinh tế các nước phát triển hàng đầu tới nước ta càng rõ rệt , sâu sắc và tới
nhiều lĩnh vực kinh tế . Điều này mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối
với các vấn đề trong nước, đặc biệt là các vấn đề về chính sách điều hành kinh tế vĩ
mô của nhà nước để ổn định nền kinh tế như chính sách tài khóa, chính sách tiền
tệ... Một trong những thách thức lớn mà nước ta đang phải đối mặt là hiện tượng
đôla hóa nền kinh tế, đây là một hiện tượng không mới và đang có diễn biến hết
sức phức tạp trong thời gian gần đây, ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế đất
nước nói chung, thị trường tiền tệ nói riêng và còn ảnh hướng tới người dân cũng
như các doanh nghiệp. Sự bất ổn định của đồng USD trong thời gian gần đây càng
làm cho hiện tượng đôla hóa trở nên khó kiểm soát và phán đoán. Nó đòi hỏi nhà
nước cũng như ngân hàng trung ương (NHTW) phải có những biện pháp can thiệp
kịp thời để giảm thiểu những rủi ro cho tình trạng này.Chình vì vậy chúng em chọn
đề tài: “Giải pháp hạn chế tình trạng Đôla hóa trong nền kinh tế hiện nay”
Đây là một đề tài khá khó, hơn nữa thời gian làm bài và trình độ của nhóm
thực hiện còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi có những thiếu sót nhất định.Qua
đây, em xin được cảm ơn ThS. Nguyễn Quang Huy đã tận tình hướng dẫn để chúng
em hoàn thành đề tài này,nếu có thời gian và điều kiện chúng em sẽ mở rộng và
hoàn thiện đề tài này hơn nữa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
Hệ thống hoá toàn bộ các vấn đề cơ bản về đôla hoá, trong đó đề tài tập trung
vào nghiên cứu nguyên nhân và tình trạng đôla hoá ở Việt Nam. Tìm hiểu và đánh
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 1



CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
giá thực trạng đôla hoá đang diễn ra, qua đó nhận thức được những tích cực và hạn
chế của đôla hoá nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục phù hợp với điều kiện kinh
tế Việt Nam.
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Xem xét nguyên nhân, biểu hiện và mức độ đô la hóa tại Việt Nam cũng như
thực trạng đô la hóa có tác động như thế nào tới muôn mặt đời sống kinh tế-xã hội
Việt Nam. Bên cạnh đó nghiên cứu các chính sách, biện pháp mà Nhà nước đã thực
hiện cùng những bài học kinh nghiệm của nước bạn để đề xuất giải pháp thực hiện
nhằm chống đô la hóa phù hợp với điều kiện của nước nhà trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài : đề tài nghiên cứu nguyên nhân, thực trạng
của hiện tượng đôla hóa trong nền kinh tế Việt Nam, và xem xét phân tích tác động
của đôla hóa lên nền kinh tế qua các khía cạnh như tác động tới nền kinh tế vĩ mô
nói chung, tới thị trường vốn, thị trường tiền tệ; những tác động của hiện tượng này
tới lãi suất và tỷ giá hối đoái, các mặt tác động lên chính sách tiền tệ, dự trữ ngoại
hối ,mức cung tiền và tâm lý của người dân trong tiêu dùng và tiết kiệm. Từ những
tìm hiểu phân tích nguyên nhân, hiện tượng và tác động kể trên, đề ra giải pháp
khắc phục hiện tượng tồn tại song song hai đồng tiền VNĐ và USD trên thị trường,
dựa trên cơ sở những giải pháp đã được áp dụng trước đó.
Phạm vi nghiên cứu : đề tài đặt trong bối cảnh nền kinh tế đang có hiện
tượng đôla hóa không hoàn toàn và hiện tượng này đã diễn ra nhiều năm. Hơn nữa
nền kinh tế lại đang bước vào thời kì hội nhập mở cửa. Nền kinh tế thế giới có
nhiều biến động nhất là vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2007.
Và đặc biệt nghiên cứu sâu về tình hình đôla hóa trong bảy năm gần đây.Đề tài
được nghiên cứu dựa trên thực tế về tình trạng đôla hoá ở Việt Nam từ năm 20052011.

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 2



CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp phân tích, tổng hợp : Từng nguyên nhân gây ra hiện tượng
đôla hóa đều được nêu rõ và phân tích chỉ ra những yếu tố sâu xa, trọng yếu tạo nên
hiện tượng. Và sự tác động, ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế cũng được làm rõ
theo nhiều khía cạnh cụ thể, phận tích sự tác động tới từng lĩnh vực của nền kinh tế.
Qua đó ,vận dụng phương pháp đánh giá tổng hợp kết hợp với hệ thống hóa để có
thể nhận định đầy đủ về tình trạng đôla hóa hiện nay trong nền kinh tế, nêu ra các
điểm tích cực và tiêu cực trong sự ảnh hưởng đó tới kinh tế cả nước và các hoạt
động mang tính quốc tế và đề ra phương pháp giải quyết cho hiện tại và tương lai.
Phương pháp so sánh đối chiếu : Nêu lên hiện trạng đôla hóa của một số
nước trong khu vực và một số nước tiêu biểu trên thế giới, thêm vào đó là nêu lên
bài học kinh nghiệm hay giải pháp đẩy lùi đôla hóa ở một số nước. Từ đó đưa ra sự
so sánh, đối chiếu giữa nước ta và các nước bạn,để học hỏi kinh nghiệm, đề ra được
giải pháp thích hợp. Thêm vào đó là đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn nhằm tìm ra
và giải quyết những khó khăn đang gặp phải trong công cuộc đẩy lùi đôla hóa.
Phương pháp thống kê thu thập số liệu và xử lý phân tích số liệu : nhằm làm
rõ vấn đề có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
6. Kết cấu của đề tài
Phần mở đầu
Chương 1 : Cơ sở lý luận vầ đôla hóa.
Chương 2 : Thực trạng đôla hóa trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Chương 3 : Giải pháp hạn chế đôla hóa nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 3


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÔLA HÓA
1.1 Khái niệm và phân loại về đôla hóa
1.1.1 Khái niệm về đôla hóa
Đôla hoá (dollarization) được hiểu một cách thông thường là trong một nền
kinh tế ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn
bộ hoặc một số chức năng tiền tệ (lưu thông, thanh toán, cất trữ), nền kinh tế đó bị
coi là đôla hóa toàn bộ hoặc một phần. Sở dĩ đây là tên gọi chung của hiện tượng
ngoại tệ hóa, nhưng do đồng đôla Mỹ từ trước tới nay luôn chiếm vị thế quan trọng
nhất trong nền kinh tế các quốc gia nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ
hóa là “đôla hóa”.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đôla
hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối
tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ.
Theo cách đánh giá của IMF vào năm 1998:
Trường hợp đôla hóa cao có 19 nước, bao gồm:Argentina, Azerbaijian,
Belarus, Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos,
Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và
Uruguay.
Trường hợp đôla hóa cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng
16,4% có 35 nước, bao gồm:Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech,
Dominica, Honduras, Hungary, Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi,
Mexico, Moldova, Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia,
Sierra Leone, Cộng hoà Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan,
Việt Nam, Yemen và Zambia.

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 4



CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Còn theo những con số thống kê mới nhất, mức độ đôla hóa ở Việt Nam hiện nay là
trên 20%.
1.1.2 Phân loại đôla hóa
Có 2 cách để phân loại đôla hóa
1.1.2.1

Căn cứ vào việc thay thế chức năng của nội tệ: Đôla hóa được chia
làm 3 loại:



Đôla hóa thay thế tài sản: thể hiện qua tiền gửi trên tổng phương tiện thanh

toán (FCD/M2).
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), khi tỷ lệ này trên 30% là bị coi là đôla hóa trầm
trọng.
 Đôla hóa phương tiện thanh toán: Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh
toán.
Các giao dịch thanh toán bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá nhất là đối
với những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam.
 Đôla hóa định giá, niêm yết giá: là việc niêm yết, quảng cáo, định giá bằng
ngoại tệ.
Đôla hóa về phương diện này thường là bất hợp pháp nên cũng khó xác định,
nhưng đây lại là vấn đề cơ bản của hiện tượng đôla hóa.
1.1.2.2

Căn cứ vào phạm vi: Đôla hóa cũng được chia làm 3 loại:

 Đôla hóa chính thức (official dollarization)

- Đôla hóa chính thức (hay đôla hóa hoàn toàn) xảy ra khi Chính phủ ban hành
quyết định đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành và đồng
nội tệ sẽ biến mất hoặc vẫn duy trì đồng nội tệ nhưng đồng nội tệ chỉ đóng vai trò
phụ. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng
giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ.
VD: đồng tiền chính thức của Đông Timor là USD, của Greenland là Krone Đan
Mạch,…
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 5


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Đôla hóa chính thức không nhất thiết chỉ lưu hành một đồng ngoại tệ. Tuy
nhiên, các nước đôla hóa chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng
tiền hợp pháp.
VD: Zimbabwe ở khu vực phía nam gần Nam Phi thì họ yết giá bằng Rand Nam
Phi, ngoài ra còn có USD và một số ngoại tệ ổn định khác nhưng đồng tiền hợp
pháp là USD.
- Tại một nền kinh tế đôla hóa hoàn toàn thì NHTW chỉ tồn tại trên danh nghĩa,
trên thực tế nó không phát huy tác dụng. Toàn bộ chính sách tiền tệ sẽ phụ thuộc
vào Cục Dự trữ Liên Bang Mỹ (FED).
 Đôla hóa bán chính thức (semiofficial dollarization).
- Đôla hóa bán chính thức là tình trạng mà trong một quốc gia có đồng tiền bản tệ
và đồng tiền ngoại tệ lưu hành song song trong đó đồng ngoại tệ cũng được sử
dụng chính thức.
- Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, thậm chí có
thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ yếu
trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì
một NHTW để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
VD: Campuchia sử dụng cả Riel Campuchia (KHR) và USD, USD chiếm 90%
lượng tiền trong lưu thông; Lào sử dụng cả đồng kíp và USD, bath Thái trong đó

có trên 50% USD được lưu thông sử dụng.

-

Đôla hóa không chính thức (unofficial dollarization).
Đôla hóa không chính thức là tình trạng mà đồng nội tệ được công nhận một

cách chính thức, đóng vai trò chủ yếu trong việc trả lương, đóng thuế và chi trả
hàng ngày. Trong khi đó, đồng ngoại tệ được sử dụng rộng rãi và có thể làm
phương tiện cất trữ và chi trả một số loại hàng hóa mặc dù không được chính thức
thừa nhận.
Đôla hóa không chính thức bao gồm:
Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 6


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trữ.
-

Tình trạng đôla hóa không chính thức rất khó đánh giá ở các nước do không

thể thống kê hết số người bản địa nắm giữ các hình thức ngoại tệ.
Phần lớn các thị trường đang phát triển đều có đôla hóa không chính thức, ở
một số nước quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn ở các nước khác.
Theo đánh giá của IMF, Việt Nam là một nước đôla hóa không chính thức
1.2 Nguyên nhân dẫn đến đôla hóa
Trước hết, đôla hóa là hiện tượng xảy ra phổ biến ở nhiều nước trên thế giới,

nhất là đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển và có đồng nội tệ yếu
như Việt Nam. Và trong nền kinh tế đang phát triển ấy, rủi ro có thể xảy đến với
giá trị đồng tiền là lạm phát làm đồng tiền mất giá, hay nội tệ mất giá so với ngoại
tệ, rủ ro do các chính sách của chỉnh phủ với thị trường tiền tệ , rủi ro của nền kinh
tế không ổn định. Đôla hóa thường xảy ra với những nước có tỷ lệ lạm phát cao,
đồng nội tệ yếu, tạo ra sự mất niềm tin của người dân vào đồng bản tệ, lúc đó có xu
hướng tất yếu là người dân tìm kiếm một đồng ngoại tệ mạnh hơn, ổn định hơn, có
uy tín hơn hay tìm các công cụ dự trữ giá trị khác. Ban đầu đồng ngoại tệ mạnh ấy
chỉ thực hiện chức năng cất giữ giá trị, sau đó dần tạo ra sự ảnh hưởng rộng hơn
trên thị trường, cạnh tranh với đồng nội tệ để thực hiện 2 chức năng còn lại là chức
năng thanh toán và là thước đo giá trị trong mọi hoạt động của kinh tế trong nước.
Tiếp đó phải kể đến cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại ngày nay, trên thế giới
đồng tiền của một số quốc gia có nền kinh tế vững mạnh, được sử dụng rộng rãi
trong các hoạt động giao lưu quốc tế, đóng vai trò là “tiền tệ thế giới” phải kể đến
đồng USD, với sự ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế thế giới chiếm tỷ trọng trong

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 7


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
kim ngạch giao dịch thương mại quốc tế lớn nhất chiếm khoảng 70%. Còn lại là sự
ảnh hưởng của những đồng tiền mạnh khác như bảng Anh, euro, yên Nhật...
Cuối cùng phải kể đến cơ chế thị trường của nền kinh tế thương mại mở cửa
ngày nay, sự giao lưu kinh thế và hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng, hoạt động
đầu tư và xuất nhập khẩu ngày càng phát triển làm nhu cầu sử dụng tiền tệ thế giới
cần thiết và tất yếu. Trong quá trình hội nhập ấy, sự ảnh hưởng của nền kinh tế lớn
đến nền kinh tế thế giới hay nền kinh tế của các nước đang phát triển rất rõ rệt. Vì
vậy, đồng tiền mạnh sẽ có ảnh hưởng tới nền kinh tế hay đồng tiền khác. Một quốc
gia có nền kinh tế đang phát triển hay kém phát triển, trình độ dân trí thấp, tâm lý
người dân không ý thức được tầm quan trọng của đồng nội tệ. Hay như một đất

nước có điều kiện kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ, hệ thồng ngân hàng, cơ chế
quản lý ngoại hối và khả năng chuyển đổi ngoại tệ của đồng nội tệ thấp thì khả
năng và mức độ đôla hóa càng cao.
1.3

Đo lường mức độ đôla hóa
Theo IMF, tiêu chí để đo lường mức độ đôla hóa của một quốc gia là cao hay

thấp chính là tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ / tổng khối tiền M2 (FCD/M2).
Một nền kinh tế được coi là có:
- Tình trạng đôla hóa cao khi FCD/M2 từ 30% trở lên;
- Đôla hóa trung bình khi FCD/M2 từ 15% đến dưới 30%;
- Đôla hóa thấp khi FCD/M2 dưới 15%.
Chúng ta sử dụng phân tích nhân quả theo phương pháp Granger nhằm xác định
mối quan hệ nhân quả giữa biến tỷ lệ đôla hoá (FCD/M2) với các biến lạm phát và
tỷ giá hối đoái USD/VNĐ.

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 8


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Theo Granger (1969) phương pháp phân tích các mối quan hệ nhân quả thực
hiện như sau:
Ví dụ, nếu muốn kiểm tra quan hệ nhân quả giữa X và Y, chúng ta kiểm tra
cách biểu diễn Y theo X và X theo Y. Cách này phổ biến trong thực tế để xem xét
cả hai chiều tác động (X là nguyên nhân của Y, Y nguyên nhân của X). Trong khi
quan hệ nhân quả theo Granger chúng ta đặt giả thuyết kiểm định X không là
nguyên nhân của Y, và nếu có thể bác bỏ giả thuyết này, nó ngụ ý rằng X là nguyên
nhân củaY.
Kết quả phân tích cho thấy:

- Ở mức ý nghĩa 5% chúng ta bác bỏ giả thuyết H0 là FCD/M2 không là nguyên
nhân của tỷ giá hối đoái nghĩa là FCD/M2 là nguyên nhân ảnh hưởng đến tỷ giá
hối đoái.
- Ở mức ý nghĩa 10% chúng ta bác bỏ giả thuyết H0 là FCD/M2 không là nguyên
nhân của lạm phát nghĩa là FCD/M2 là nguyên nhân ảnh hưởng đến lạm phát.
- Ở mức ý nghĩa 10% chúng ta chấp nhận giả thuyết H0 là FCD/M2 không là
nguyên nhân của tỷ giá hối đoái và lạm phát.
Tóm lại tương quan giữa FCD/M2 và tỷ giá hối đoái USD/VNĐ và CPI là
tương quan một chiều, FCD/M2 là nguyên nhân của thay đổi tỷ giá hối đoái
USD/VNĐ
và CPI.
Kết quả phân tích nhân quả theo phương pháp Granger:

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 9


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1.4 Tác động của đôla hóa
1.4.1 Tác động tích cực


Thứ nhất: đối với các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa hoàn toàn, ngoại tệ

mạnh được sử dụng thay thế toàn bộ nội tệ trong giao dịch cũng như trong cất trữ,
do đó đôla hóa chính thức góp phần làm giảm chi phí giao dịch như chênh lệch
giữa tỉ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xóa
bỏ, các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có
thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Ngoài ra, đôla hóa
chính thức còn loại bỏ hoàn toàn rủi ro tiền tệ xảy ra trong giao dịch giữa các quốc

gia cùng sử dụng USD, từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước. Những
nền kinh tế đôla hóa chính thức thường ổn định hơn và có tỷ lệ lạm phát thấp hơn,
chính sự ổn định này của nền kinh tế đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vốn vào trong nước, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.


Thứ hai: đôla hóa chính thức góp phần làm tăng kỷ luật ngân sách nhà nước.

Với những quốc gia có chính sách tiền tệ độc lập khi ngân sách nhà nước bị thâm
hụt, chính phủ có thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để bù đắp thâm hụt. Ngược lại
với những quốc gia bị đôla hóa hoàn toàn, chính phủ không thể yêu cầu NHTW
phát hành tiền để khắc phục tình trạng thâm hụt chính phủ nước này phải tiết kiệm
chỉ tiêu đồng thời gia tăng nguồn thu ngân sách.
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 10


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


Thứ ba: đôla hóa không chính thức góp phần làm giảm lạm phát. Đôla hóa làm

tăng cung ngoại tệ dẫn đến sự giảm giá ngoại tệ, tạo một cái van giảm áp lực đối
với nền kinh tế vĩ mô trong những thời kỳ lạm phát cao,các điều kiện kinh tế vĩ mô
không ổn định. Khi đó giá cả hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài trở nên rẻ hơn dẫn
đến mặt bằng giá cả trong nước giảm xuống.


Thứ tư: thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính

thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để

chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường
chính thức (hợp pháp).
1.4.2 Tác động tiêu cực
Ngoài sự đánh mất chủ quyền về tiền tệ, vị trí độc tôn của đồng nội tệ bị giảm
sút khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi lấn át nội tệ thì đôla hóa còn gây ra nhiều tác
động tiêu cực lên những nền kinh tế bị đôla hóa. Chính vì lý do này mà chính phủ
và NHTW các nước luôn tìm cách hạn chế và đẩy lùi tình trạng này.


Tác động tiêu cực đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy là việc mất đi thu nhập từ

thuế in tiền. Đó chính là thu nhập từ việc phát hành tiền được tính bằng chênh lệch
giữa chi in tiền, chi phí đưa tiền vào lưu thông so với giá trị hàng hóa mà tiền mua
được.


Thứ hai, những quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức không có chính

sách tiền tệ độc lập khi có các quốc gia này không thể chủ động trong việc thực
hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đối với những nền kinh tế không bị đôla
hóa, NHTW có thể thông qua cơ chế điều hành tỷ giá tác động lên XNK để đạt
được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Giả sử khi các yếu tố khác không đổi
muốn kiềm chế lạm phát, NHTW có thể thu hút nội tệ trong lưu thông làm cho nội
tệ lên giá so với ngoại tệ (tức là làm tỉ giá giảm). Ngược lại để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tạo công ăn việc làm, NHTW có thể sử dụng chính sách nội tệ. Trong khi
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 11


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
đó, những nước có nền kinh tế đôla hóa chính thức không có quyền chủ động trong

việc điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ của họ phụ thuộc hoàn toàn vào
chính sách tiền tệ của NHTW nước ngoài.


Thứ ba: đôla hóa chính thức tước đi vai trò của NHTW, là người cho vay cuối

cùng của nền kinh tế. Ở những nền kinh tế không bị đôla hóa, khi ngân hàng
thương mại (NHTM) sẽ cho vay tiền để giải quyết vấn đề đó, tránh dẫn đến sự sụp
đổ của hệ thống ngân hàng, nhưng ở những nền kinh tế bị đôla hóa chính thức,
NHTW chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Một khi đã sử dụng hết dự trữ tiền tệ thì không
thể phát hành thêm tiền để giúp đỡ NHTM. Vì vậy, khả năng dẫn tới sự sụp đổ của
hệ thống NHTM trong nước là hoàn toàn có thể xảy ra.


Thứ tư: đối với những nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức, ngoại tệ được

sử dụng rộng rãi trong thanh toán, cất trữ, do đó sẽ có một lượng ngoại tệ lớn trôi
nổi trên thị trường, nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTW. Vì vậy, việc dự đoán diễn
biến tổng phương tiện thanh toán, từ đó đưa ra các quyết định về tăng hoặc giảm
lượng tiền trong lưu thông sẽ kém chính xác và kịp thời.


Thứ năm: cung cầu ngoại tệ thường xuyên biến động. Những thay đổi về lãi

suất trong nước từ nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này
sang đồng tiền khác hay từ nơi này sang nơi khác. Khi lãi suất có sự thay đổi theo
hướng nắm giữ ngoại tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang nội tệ đổi lấy ngoại tệ, làm
cho cầu ngoại tệ tăng, ngược lại, khi nắm giữ nội tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang
ngoại tệ đổi lấy nội tệ, dẫn tới cầu nội tệ tăng. Điều này sẽ gây khó khăn cho
NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoài ra, đối với các NHTM có tỷ

lệ tiền gửi bằng ngoại tệ cao, khi có biến động, người dân đổ xô đi rút ngoại tệ,
trong khi số ngoại tệ đó đã được ngân hàng cho vay, và NHTW cũng không thể hỗ
trợ được do dự trữ ngoại hối còn mỏng có thể gây ra những bất ổn trong hệ thống
NHTM trong nước.

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 12


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1

Quá trình đôla hóa trong nền kinh tế
Đôla hóa đang lan rộng trên toàn thế giới đặc biệt là ở Châu Phi và Mỹ La

Tinh. Sự hấp dẫn chính của đôla hóa toàn bộ là loại bỏ các nguy cơ về sự phá giá
đột ngột sắc nét của tỷ giá hối đoái ở đất nước đó. Điều này có thể cho phép các
quốc gia giảm phí bảo hiểm rủi ro gắn liền đến việc vay vốn quốc tế. Nền kinh tế bị
đôla hóa có được mức độ tin tưởng cao hơn của các nhà đầu tư quốc tế, chênh lệch
lãi suất vay quốc tế của họ thấp hơn, giảm chi phí tài chính, đầu tư nhiều hơn và
tăng trưởng. Tuy nhiên không khả thi cho nhiều nước đang phát triển, vì họ có
nguy cơ biến động quá mức tỷ giá hối đoái. Cho đến nay, chỉ có các nền kinh tế lớn
nhất đang phát triển, với hệ thống tài chính tương đối tiên tiến, chẳng hạn như Hàn
Quốc, Brazil và Mexico mới cố gắng nổi.
Việt Nam rõ ràng không phải là ứng cử viên được hưởng lợi từ đôla hóa do
khác biệt lớn so với Mỹ về sự giàu có, cơ cấu kinh tế và sự hội nhập thấp về thị
trường vốn, lao động. Ngoài ra, mặc dù đôla là đồng tiền quốc tế chủ yếu, được ưu
tiên trong cán cân của Việt Nam, chứ không phải là đồng Euro hay yên Nhật,

nhưng Việt Nam lại có quan hệ thương mại đa dạng với các nước khác trên thế
giới. Mặc dù buôn bán với Mỹ đang tăng nhanh song buôn bán với các nước châu
Á, đặc biệt là Nhật Bản và châu Âu cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Từ năm 1988, khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đôla,
hiện tượng sử dụng đồng đôla trong giao dịch mua bán hàng hóa ngày càng phổ
biến, đến 1992, tình trạng đôla hóa đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi
vào các ngân hàng là USD. Trước tình hình này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 13


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
cố gắng đảo ngược quá trình đôla hóa nền kinh tế và đã có những thành công nhất
định, năm 1996 chỉ còn 20%. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức
ép của tình trạng đôla hoá. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các
ngân hàng tăng lên đến 30,26%, tỷ lệ này có xu hướng giảm đi trong những năm
sau đó; dao động từ 22% đến 26%, năm 2010 là 24%. Đây là xu hướng tích cực,
cho thấy tình trạng đôla hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại đang
được kiềm chế một cách có hiệu quả. Người dân đã có niềm tin vào đồng tiền nội
địa nhiều hơn. Tuy nhiên, số tiền gửi tuyệt đối bằng USD thì không ngừng tăng lên,
năm 1995 là 1,5 tỷ USD, năm 2005 đạt 8 tỷ USD, nhất là sau khi chúng ta gia nhập
WTO con số này đã tăng lên nhiều lần. Chỉ tính riêng lượng kiều hối hàng năm
cũng đạt trung bình từ 8 – 10 tỷ USD. Đến cuối quý I năm 2011, tổng số tiền gửi
bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt gần 20 tỷ đồng, một mặt cho
thấy tiềm lực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy
động được cho đầu tư phát triển kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc
độ đôla hóa.
Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng
đôla Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu
hướng tăng lên, cao hơn cả tiền gửi bằng đôla.

Qua đánh giá, Việt Nam là một nước bị đôla hóa một phần, tuy nhiên mức
độ chính xác của đôla hoá là số liệu rất khó xác định.Trong những năm gần đây, tỉ
lệ đôla hóa được kiểm soát có hiệu quả hơn, cụ thể tỉ lệ này giảm trông thấy, nhưng
vẫn ở mức khá cao là trên 20%. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp
hoá đồng USD tại Việt Nam để mua các loại hàng hoá như bất động sản, mặt hàng
điện tử, xe cộ, phí khách sạn... đã làm tăng quá trình đôla hoá.

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 14


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nếu theo phân loại của IMF thì Việt Nam là nước có nền kinh tế bị đôla hóa
ở mức trung bình. Trong những năm gần đây nước ta luôn duy trì tỷ lệ đôla hóa ở
mức thấp hơn 30%.
Trong khoảng 5 năm trở lại đây, kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới làm cho đồng đôla Mỹ liên tục bị giảm giá thêm vào đó là chính phủ Mỹ
luôn giữ đồng USD yếu, hệ quả là thu ngoại tệ qua kênh xuất khẩu, du lịch tính
bằng đôla của các nước đều giảm và bị thiệt hại theo mức giảm giá đồng USD
tương ứng. Và kim ngạch dự trữ ngoại tệ và lượng vốn FDI của nước ta cũng như
các nước đang phát triển khác cũng sụt giảm. Điều này dẫn tới tất cả các khoản
vốn, tiết kiệm hay phúc lợi xã hội tính bằng USD đều phải chịu thiệt hại. Vì điều
này khiến cho thị trường cũng ngần ngại hơn với đồng tiền này hơn trước. Tuy vậy
USD vẫn là đồng ngoại tệ mạnh. Ngoài ra , các khoản phải trả về nhập khẩu hàng
hoá, dịch vụ chưa thanh toán, các khoản nợ vay nước ngoài bao gồm tiền gốc và lãi
chưa trả tính bằng đôla đều mặc nhiên được giảm bớt tương ứng với tỷ lệ sụt giá
của đồng đôla. Bởi vậy mới thấy sử dụng đồng USD như thế nào trong nền kinh tế
hội nhập, mở cửa và chịu nhiều biến động hiện nay để có hiệu quả và mang lại lợi
ích là vấn đề vô cùng khó khăn và chịu tự tác động của nhiều yếu tố.
Trong thực tế, trên thị trường thừa nhận sự lưu chuyển và sử dụng song song
hai đồng tiền, trong đó đồng tiền VNĐ là đồng tiền yếu. Và việc thừa nhận gần như

hợp pháp việc thanh toán, dự trữ và sử dụng đồng đôla Mỹ tại nước ta chính là yếu
tố làm tăng quá trình đôla hóa, làm cho hiện tượng này trở nên diễn biến phức tạp
hơn. Biểu hiện cụ thể của việc này là có nhiều của hàng, mặt hàng được yết giá
bằng USD như bất động sản, hàng điện tử , xe cộ, phí khách sạn....thêm vào đó là
tâm lý thích xài đôla của một số bộ phận người dân có thu nhập cao cũng làm tăng
thêm hiện tượng này.

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 15


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Từ những phân tích , đánh giá trên nhận thấy cần có sự hạn chế và các biện
pháp khắc phục tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế. Các giải pháp phải có tính
triệt để, phù hợp với thời kỳ phát triển và tình hình biến động của kinh tế thế giới,
có tính ngắn hạn, trung hạn, và dài hạn.
2.2 Đo lường thực trạng đôla hóa trong nền kinh tế Việt Nam
Từ số liệu thống kê của IMF, chúng ta xác định, tính toán được diễn biến tỷ lệ đôla
hóa ở Việt Nam từ quý 2007 đến Quý 1/2010 như sau:

Biểu đồ 1: FCD/M2 của Việt Nam giai đoạn 2007-Q1 2010
Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF
Tỷ lệ đôla hóa ở Việt Nam đạt mức đỉnh điểm vào năm 2001 với con số xấp
xỉ 35% và được xem là một trong những quốc gia thuộc top các nước có tỷ lệ đôla
hóa cao. Tuy nhiên, đồ thị trên cho thấy trong giai đoạn hiện nay (2008 - 2010) đã
giảm đáng kể so với những năm 2000 - 2003, từ mức trung bình 28%-30% xuống
16,5% -18%. Như vậy, có thể nói hiện nay Việt Nam không còn là quốc gia có tỷ lệ
đôla hóa cao.
Tuy nhiên, ngoài số tiền gửi bằng ngoại tệ FCD, ước tính còn khoảng 30%
tổng giá trị thanh toán ngoài hệ thống ngân hàng được thực hiện trực tiếp bằng
đồng đôla. Do vậy cần phải nhận thức rằng đôla hóa không chính thức tại Việt Nam

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 16


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thực sự đã đến mức nguy hiểm và hình ảnh đồng đôla Mỹ được sùng bái và tháy
thế hoàn hảo cho đồng Việt Nam không còn là trong ý niệm.
Bên cạnh đó, khi so với Trung Quốc thì tỷ lệ đôla hóa của Việt Nam vẫn ở mức
cao.

FCD/M2 _ VN

FCD/M2 _ TQ

Biểu đồ 2: So sánh tỷ lệ FCD/M2 giữa Việt Nam và Trung Quốc giai
đoạn Q1/2002 –Q1/2010
Từ đồ thị hình 2, ta thấy được thực trạng đôla hóa ở Việt Nam vẫn nằm ở
mức cao so với các nước khác, đơn cử như Trung Quốc cũng vì người dân chúng ta
đã không sử dụng đôla như một hàng hóa nhập khẩu (tiền tệ được xem như hàng
hóa đặc biệt) mà lại sử dụng như một liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với
nội tệ (VNĐ) trên thị trường tài chính Việt Nam. Mặt khác, giá cả đồng đôla Mỹ
trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt
Nam lãi suất huy động và cho vay đồng đôla Mỹ lại có xu hướng gia tăng. Đồng
thời ở nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc
biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Hơn nữa, trong khi nhiều quốc gia cũng có
luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nội địa bằng ngoại
tệ, thì hiện nay nhiều NHTM ở Việt Nam đã có dấu hiệu nghịch lý về đồng đôla
Mỹ, biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 17



CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng "tiền gửi
ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền mặt ngoại tệ để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm. Chẳng
hạn như tại Việt Nam tình trạng đôla hoá vẫn cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì
ngoại tệ "lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất mạnh ở Hoa Kỳ và ở
khắp các nền kinh tế công nghiệp phát triển, trong khi tại Việt Nam, một số không
ít cửa hàng, khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng
Đôla và từ chối thanh toán bằng nội tệ. Như vậy, vô hình chung Việt Nam đang sử
dụng cơ chế tín dụng ngoại tệ thay cho cơ chế mua đứt bán đoạn.
2.3

Nguyên nhân đôla hóa tại Việt Nam

2.3.1 Nguyên nhân mang tính lịch sử :
Sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng
tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm
phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho
đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi
giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính
tại Hoa Kỳ vào cuối năm 2007 kéo dài tới 2 năm làm cho thị trường tiền tệ không
ổn định. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng
khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ.
Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện
dụng của nó.
2.3.2 Việt Nam là một nước có nền văn hóa tiền mặt


Thứ nhất: Thói quen dùng tiền mặt trong thanh toán kể cả với các dự án lớn là

một thói quen lâu nay của người Việt. Trên thị trường hiện nay hầu như 100% hoạt

động trao đổi mua bán hàng hóa trên thị trường bán lẻ được thanh toán bằng tiền
mặt. Ngay cả trong các dự án lớn hay những hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có
những điều khoản ưu tiên khi thanh toán bằng tiền mặt. Điều này tạo ra sự khó
khăn cho các ngân hàng trong việc kiểm soát lượng ngoại tệ lưu chuyển trên thị
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 18


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
trường. Hơn nữa hệ thống NHTM cũng như các trung tâm thương mại , siêu thị ,
khách sạn hay các cửa hàng... chưa có đủ phương tiện kĩ thuật tạo thuận lợi cho
việc thanh toán tiền hàng bẳng thẻ. Chính này buộc người tiêu dùng phải sử dụng
tiền mặt trong thanh toán.


Thứ hai: Hệ thống ngân hàng tuy đã xây dựng các địa điểm đổi tiền nhưng còn

hạn chế về số lượng và chất lượng, tạo ra sự không thuận tiện khi đổi ngoại tệ , làm
người tiêu dùng hay khách du lịch có tâm lý ngại đi đổi tiền hay đổi tiền tại “ chợ
đen” .


Thứ ba: Tỷ giá hối đoái có định và biên độ giao động thấp, tạo khoảng cách

chênh lệch giữa thị trường tự do và các NHTM. Trên thị trường hiện này do nhà
nước áp dụng chính sách tỷ giá cố định , nên sự biến động của tỷ giá hối đoái ở các
NHTM thường có sự biến động không lớn so với sự biến động của thị trường thế
giới. Nhưng trên thị trường tự do tỷ giá thướng xuyên thay đổi và theo tình hình thế
giới nên hầu như tỷ giá của thị trường tự do luôn cao hơn ở các NHTM. Bởi vậy
người ta thường thích đổi ngoại tệ trên thị trường tự do hơn là tại các ngân hàng vì
thu được lượng nội tệ lớn hơn với cùng một lượng ngoại tệ.

Trong sự phát triển kinh tế ngày nay, nghiệp vụ xuất nhập khẩu vô cùng
quan trọng và chiếm tỷ trọng khá trong nền kinh tế. Nghiệp vụ nhập khẩu của nước
ta chủ yếu liên quan đến công nghệ, máy móc thiết bị, hàng hóa xa xỉ...Những hàng
hóa này đòi hỏi phái có chi phí lớn và đồng tiền thanh toán những hợp đồng nhập
khẩu này chủ yếu là USD. Tuy nhiên, nguồn ngoại tệ của NHTM không đủ cho nhu
cầu của các doanh nghiệp nhập khẩu hay cung ứng dịch vụ. Các doanh nghiệp phải
vay ngoại tệ ở thị trường chợ đen hay các nguồn ngoại tệ khác.
2.3.3 Nguồn ngoại tệ đổ về nước dồi dào

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 19


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Có nhiều nguồn ngoại tệ chảy vào nước ta mỗi năm. Ví dụ như: ngoại tệ do các
khoản đầu tư của các công ty, doanh nhân nước ngoài đổ vào các công ty , các khu
công nghiệp hay các chi nhánh đặt tại Việt Nam. Lượng ngoại tệ do Việt kiều gửi
về nước là tương đối lớn. Ngoài ra còn có nguồn ngoại tệ từ khác du lịch quốc tế
tới nước ta và thu nhập của người Việt làm việc ở nước ngoài hay làm tại các công
ty nước ngoài có trụ sở trong nước.
-

Nguồn kiều hối gửi về nước mỗi năm chiếm số lượng lớn: Việt Nam là một

trong 10 quốc gia nhận kiều hối hàng đầu thế giới (đánh giá của công ty hàng đầu
thế giới về dịch vụ thanh toán toàn cầu -Western Union). Số lượng người Việt sống
ngoài Việt Nam vào khoảng 3 triệu người (tính tới năm 2005), và một nửa trong số
Việt kiều sinh sống ở Hoa Kỳ với khoảng 1.521.353 người. Số còn lại sống ở Pháp,
Nga, Úc và trên 100 quốc gia khác. Bởi vậy mỗi năm nước ta nhận được một lượng
lớn ngoại tệ từ Việt kiều khắp nơi gửi về nước. Các khoản tiền này được gửi về
Việt Nam với nhiều mục đích như để đầu tư vào lĩnh vực tài chính, kinh doanh hay

bất động sản. Cũng có nguồn gửi về với mục đích từ thiện hay gửi về cho người
thân ở Việt Nam. Nhưng dù là gửi với mục đích nào thì điều này đã làm tăng lượng
ngoại tệ trong nội địa nước ta, nhất là tăng lượng USD vì 80% lượng kiều hối về
nước là USD.
Lượng kiều hối về Việt Nam:
Năm

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Triệu

3,8

4,5

5,5

7,2


6,283

8

9

USD
Nguồn : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nhìn vào bảng có thế thấy lượng kiều hối tăng liên tục qua các năm và có xu
hướng sẽ tiếp tục tăng trong các năm tới. Lượng kiều hối tăng lên tạo điều kiện
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 20


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
phát triển nền kinh tế, tạo ra nguồn vốn dồi dào trong kinh doanh. Tuy vậy điều này
lại ảnh hưởng làm gia tăng tình trạng đôla hóa ở nước ta. Một phần của nguyên
nhân của tình trạng trên là chính phủ chưa đưa ra chính sách phù hợp đề quản lý
luồng tiền này khi về Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài và các dự án nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng
với vốn đầu tư lớn: Trong nền kinh tế thị trường, nước ta thực hiện chính sách mở
của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư tại Việt
Nam, nhất là sau khi gia nhập WTO năm 2006 thì sự mở cửa, hôi nhập càng được
thể hiện rõ ràng. Kết quả là nước ta đã thu hút rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt
đổ vốn vào thị trường Việt Nam.
- Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (đơn vị tính: triệu USD):

Năm
Đăng


2005

2006

2007

2008

2009

2010

6839,8

12004

21347,8

71726

23107,3

19886,1

3308,8

4100,1

8030


11500

10000

11000


Hiện
thực
Nguồn : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 21


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Biểu đổ 3: Lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
qua các năm (đơn vị tính: triệu USD)
Có thể thấy rõ sự chênh lệch rõ giữa lượng vốn đăng kí với lượng vốn thực tế
được đầu tư. Điều này chứng tỏ sự quản lý vốn đầu tư ở nước ta còn chưa tốt, đăng
ký kinh doanh ồ ạt nhưng lượng vốn đăng ký khác xa với lượng vốn thực được đầu
tư. Tuy nhiên số vốn đầu tư này vẫn là những con số lớn và đầu tư chủ yếu bằng
ngoại tệ, khiến cho lượng ngoại tề chảy vào Việt Nam tăng nhanh, đặc biệt là khi
đồng USD mất giá, FED thực hiện chính sách “ nới lỏng định lượng” thì lượng tiền
đầu tư bằng USD vào nước ta càng tăng nhiều hơn. Đó chính là một trong những
nguyên nhân làm xuất hiện hiện tượng đôla hóa.
-

Khách du lịch quốc tế mỗi năm đều tăng lên : Nước ta được thiên nhiên ưu đãi

về vị trí địa lý có bờ biển dài, nhiều bãi biển nông và có cảnh thiên nhiên tươi đẹp,

ngoài ra nước ta đã trải qua một thời lịch sử hào hùng nên có nhiều di tích lịch sử
thu hút khách du lịch trên nhiều nước trên thế giới. Mỗi năm có một lượng lớn
khách du lịch tới nước ta, và đa phần trong số họ mang ngoại tệ và chỉ một số ít
lượng ngoại tệ ấy đổi ra VNĐ tại sân bay.
-

Lượt khách du lịch quốc tế tới Việt Nam tăng qua các năm:
Năm
Triệu lượt người

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

3,47

3,58

4,17


4,24

3,77

5,05

6,02

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 22


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nguồn : Tổng cục Du lịch

Biểu đồ 4: Lượng khách du lịch quốc tế qua các năm (đơn vị tính: triệu lượt)
- Nhìn vào biểu đồ ta có thể nhận thấy lượng khác du lịch đến nước ta tăng lên
qua các năm và lượng khách đến nước ta khá lớn. Khách du lịch càng tăng thì nền
kinh tế càng có nhiều cơ hội phát triển, tuy nhiên có một vấn đề đắt ra là nguồn
ngoại tệ mà du khác mang đến lại chỉ được thu vào các ngân hàng thông qua các
điểm đổi tiền ở sân bay, tại khu vực du lịch hay các trụ sở khác mà phần lớn được
tiêu trực tiếp tại các của hàng, khách sạn hay các khu vui chơi ở địa điểm du lịch.
Có hiện tượng này là do sự khó khăn trong hoạt động đổi ngoại tệ tại địa điểm có
khách du lịch. Các cơ sở đổi tiền còn ít và hoạt động không có hiệu quả. Một phần
là do người dân Việt dễ dàng chấp nhận việc thanh toán bằng USD nên tạo ra thói
quen tiêu dùng cho du khách.
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 23


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


- Người nước ngoài sang Việt Nam làm việc tăng, và người Việt Nam làm ở khu
vực nước ngoài cũng tăng lên. Trong 10 năm trở lại đây xu hướng và nhu cầu xuất
khẩu lao động ngày càng tăng. Và lượng lao động ký hợp đồng xuất khẩu lao đông
sang các nước làm việc cũng liên tục tăng lên. Điều này đã tạo ra một lượng lao
động người Việt làm việc ở nước ngoài lớn. Tiền lương của họ phần lớn là được
gửi về cho gia đình. Nhưng đang tồn tại một thực tế là, dù trước khi ra nước ngoài
làm việc, đa phần người lao động đều được công ty môi giới mở một tài khoản tại
ngân hàng, họ có thể gửi tiền về Việt Nam thông qua ngân hàng đó. Trên thực tế,
hầu như nhiều lao động gửi về không thông qua tài khoản đó mà được gửi trực tiếp
về bằng cách nhờ người mang về, và lượng ngoại tệ ấy được đổi trên thị trường
“chợ đen”, gây ra luồng ngoại tệ trôi nổi, khó kiểm soát.
2.3.4 Tâm lý người Việt Nam
Có một bộ phận người dân Việt thích tiêu bằng đôla để thể hiện đẳng cấp,
giàu sang. Bán tính sỹ diện, thích xài sang đã là một phần trong tích cách của nhiều
người dân Việt. Bởi vậy đã tạo nên hiện tượng rất nhiều người ưa tiêu tiền đô hơn
tiền Việt, và bộ phận chủ yếu là những người giàu có trong xã hội. Và điển hình
cho hiện tượng này là tâm lý sính đồ ngoại và đặc biệt là ưa chuộng các sản phẩm
được yết giá bằng USD, có nhiếu hàng hóa nếu yết giá bằng VNĐ lại không bán
được,nhưng khi yết giá bằng USD lại bán rất chạy, nhất là hàng hóa nhập khẩu
100% hay nhập khẩu nguyên chiếc. Bởi vậy rất nhiều cửa hàng tính giá sản phẩm
của mình bằng USD. Trên các đường phố Hà Nội cũng như thành phố Hồ Chí
Minh rất dễ hàng bắt gặp các cửa hàng yết giá bằng USD, thậm chí trông một số
siêu thị lớn cũng tồn tại một số ít mặt hàng được ghi giá bằng USD. Đây là một
hiện tượng xấu cần được loại bỏ.

KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 24


CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nước ta là một nước đang phát triển nền kinh tế vẫn mang tính chất nông

nghiệp, đang trong quá trình hội nhập quốc tế nên ý thức của người dân về các vấn
đề kinh tế chưa cao. Vả lại, người dân Việt chưa có thói quen quan tâm, hay tìm
hiểu các thông tin về tình hình kinh tế nên chưa ý thức được tác động và tầm quan
trọng của đồng nội tệ với nền kinh tế. Vậy nên người dân chấp nhận việc thanh
toán bằng USD mà không biết hành động ấy ảnh hưởng tới nền kinh tế thế nào và
cũng không biết được đó là nguyên nhân làm nảy sinh hiện tượng đôla hóa nền
kinh tế.
Hơn nữa người dân Việt ,đặc biệt là ngưới dân thuộc các tỉnh miền Bắc luôn
có tâm lý tiết kiệm, dự trữ phòng khi bất trắc. Và mọi người luôn mong muốn sử
dụng đồng tiền ổn định và có giá trị cao để dự trữ và có lợi từ nguồn dự trữ ấy. Đây
là lý do đồng đôla được nhiều người lựa chọn để gửi tiết kiệm hay cất trữ. Vả lại
lợi ích từ việc dự trữ đôla lớn hơn khi dự trữ bằng nội tệ. Và lo ngại về tình hình
lạm phát gia tăng trong thời gian tới càng thúc đẩy người dân cất trữ ngoại tệ vì
mục đích an toàn và lợi nhuận khiến cho lượng ngoại tệ trong dự trữ tăng lên, làm
sâu thêm tình hình đôla hóa.
2.3.5 Chính sách tiền tệ của các ngân hàng và Nhà nước
Quy định về vấn đề chỉ được tiêu tiền bản tệ trong tiêu dùng hàng ngày trên
lãnh thổ Việt Nam còn chưa nghiêm, chưa mang tính cưỡng chế, ép buộc. Nên
không có khả năng răn đe, làm hiện tượng thanh toán bằng USD trên thị trường
diễn ra công khai, rộng rãi. Trong khi đó nhiều nước đã có những quy định nghiêm
ngặt như ở Trung Quốc, bạn sẽ không thể tiêu bằng bất kì ngoại tệ nào, muôn tiêu
xài bạn cần đổi ra đồng nhân dân tệ. Thêm vào đó các NHTM và nhà nước chưa có
chính sách khuyến khích đổi lượng kiều hối hay nguồn tiền ngoại tệ từ nước ngoài
vào ngân hàng ra nội tệ mà giữ nguyên ngoại tệ.
Thị trường chợ đen chưa có sự quản lý và diễn ra công khai phức tạp. Có thể
tìm thấy rất nhiều cá nhân làm dịch vụ đổi USD sang tiền VNĐ nhất là ở khu vực
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ Page 25



×