Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG đội NGŨ GIÁO VIÊN THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.38 KB, 28 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiếu học là truyền thống quí báu của dân tộc ta, từ ngàn xưa ông cha ta đó
coi trọng sự nghiệp giáo dục trong đời sống xã hội, trong sự phát triển của đất
nước, luôn coi giáo dục có quan hệ đến việc hệ trọng của quốc gia, đến an nguy,
thịnh, suy của dân tộc. Các thế hệ cha ông đi trước cho rằng việc “ Quốc kế dân
sinh” phải lấy giáo dục làm đầu. Sự giàu mạnh của đất nước không tách rời khỏi
giáo dục. Chăm lo cho giáo dục là chăm lo cho con người, mà con người là nhân
tố quyết định đến sự phát triển của xã hội. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Đảng
và Nhà nước ta luôn chú trọng phát triển sự nghiệp giáo dục, coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Để thực hiện mục tiêu đó, Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành
TW Đảng khoá VIII (Tháng 2 /1996) đó định hướng chiến lược phát triển giáo
dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đã
đề ra 4 giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong đó:
Đổi mới công tác quản lý giáo dục” là một giải pháp quan trọng để nâng cao
chất lượng giáo dục đào tạo.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc Trung học cơ sở là cầu nối giữa
Tiểu học với Trung học phổ thông, là nơi vận dụng và triển khai các hoạt động
giáo dục theo định hướng chiến lược phát triển giáo dục của Đảng. Bậc giáo dục
THCS có một vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển GD-ĐT thời kỳ
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Không có con đường nào khác cần
phải tiếp tục cải tiến đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nói chung,
đội ngũ giáo viên trường THCS nói riêng về tất cả các mặt phẩm chất đạo đức,
trình độ chuyên môn lý luận, nghiệp vụ quản lý và hiểu biết về văn hoá xã hội
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Ngành Giáo dục và Đào tạo Huyện ..... – Tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm
học vừa qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, song không phải đơn vị trực
thuộc nào của Phòng GD&ĐT Huyện ..... cũng có chất lượng giáo dục cao và ổn


định. Trường THCS ... là một ví dụ. Trong những năm học trước trường cũng đã
đạt được những thành tích đáng khích lệ. Trong năm học 2015 - 2016, đội ngũ
giáo viên của nhà trường tuy đã tương đối đủ về số lượng, cơ cấu và đáp ứng được

1


yêu cầu thực hiện chương trình của Bộ GD&ĐT quy định. Tuy vậy, chất lượng
của một số bộ phận giáo viên còn hạn chế, một số giáo viên cao tuổi có nhiều kinh
nghiệm trong giảng dạy nhưng đi theo lối mòn của phương pháp cũ (do lịch sử để
lại) và một số giáo viên mới ra trường chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy và
cuộc sống, phương pháp sư phạm còn non nớt, ít chịu học hỏi. Điều đó đó ảnh
hưởng lớn đến chất lượng giáo dục cũng như thành tích của nhà trường trong
những năm qua. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên (nhất là chất lượng
chuyên môn) để đủ sức đáp ứng yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục trong tình
hình mới trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với trường THCS nói chung và
trường THCS ... nói riêng. Từ những lý do trên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài
“Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở trường THCS ....- Huyện...– Tỉnh Vĩnh
Phúc” với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp phát triển
giáo dục của địa phương.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề nậng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Phân tích thực trạng đội ngũ giáo viên của trường Trung học cơ sở ...,
Huyện ... – Tỉnh Vĩnh Phúc từ 2010 đến nay.
Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo viên của trường
THCS ... - Huyện ... – Tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, tài liệu về quan điểm của chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đối với ngành giáo dục và đào tạo.

Phương pháp tra cứu hồ sơ sổ sách, các tài liệu chính trị, các văn bản có
liên quan đến đề tài.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát, thống
kê, phân tích, tổng hợp, đánh giá, xử lý các thông tin thu thập được.
4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung tiểu luận gồm 03
chương::
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng giáo dục,
chất lượng đội ngũ giáo viên.
Chương 2. Thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên trường THCS ... - ...
– Vĩnh Phúc trong những năm qua.

2


Chương 3. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên trường THCS ... - ... – Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC VÀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
1.1. Giáo dục, đào tạo và đội ngũ giáo viên - một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Giáo dục
Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập
theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu.
Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể
thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà
người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính
giáo dục.

1.1.2. Đào tạo
Đào tạo là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình
thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ để hình
thành nhân cách cho mỗi con người, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề
một cách năng xuất và hiệu quả.
1.1.3. Giáo dục và Đào tạo
Giáo dục và Đào tạo là lĩnh vực truyền bá, cung cấp kiến thức khoa học,
kĩ thuật nhằm phát triển trí tuệ, nâng cao hiểu biết, hình thành nhân cách lối
sống và kỹ năng lao động, thông qua đó con người có thể vận dụng trí tuệ, kỹ
năng hiểu biết vào thực tiễn.
1.1.4. Giáo viên
Giáo viên là người giảng dạy, giáo dục cho học viên, lên kế hoạch, tiến
hành các tiết dạy học, thực hành và phát triển các khóa học nằm trong chương
trình giảng dạy của nhà trường đồng thời cũng là người kiểm tra, ra đề, chấm
điểm thi cho học sinh để đánh gia chất lượng từng học trò. Giáo viên nam
thường được gọi là thầy giáo còn giáo viên nữ thường được gọi là cô giáo.
1.1.5. Đội ngũ giáo viên

3


Đội ngũ giáo viên là tập hợp những người làm nghề dạy học - giáo dục
được tổ chức thành một lực lượng cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các
mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tổ chức đó, họ làm việc có kế hoạch và gắn bó với
nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ quy định của
pháp luật và thể chế xã hội.
Chất lượng đội ngũ giáo viên quyết định chất lượng của giáo viên, liên
quan đến số lượng, cơ cấu trong một tổ chức của nhà trường.
1.1.6. Chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động bằng mệnh lệnh, hướng dẫn để điều khiển

của chủ thể quản lý đến hành vi và thái độ của những người khác nhằm đạt tới
những mục tiêu đã đặt ra. Chỉ đạo thể hiện quá trình xác lập quyền chỉ huy giữa
chủ thể quản lý và các thành viên trong nhà trường nhằm góp phần thực hiện các
mục tiêu đã đặt ra.
1.1.7. Bồi dưỡng
Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ sung kiến thức và kỹ năng để nâng cao
trình độ chuyên môn nhất định qua một hình thức đào tạo nào đó.
Theo UNESCO: Bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp. Quá trình
này chỉ diễn ra khi cá nhân, tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức và kỹ năng
chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề
nghiệp.
Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu
hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường được xác nhận bằng một
chứng chỉ.
Qua các khái niệm trên ta thấy công tác bồi dưỡng với mục đích là nhằm
nâng cao năng lực và phẩm chất chuyên môn, nhằm tạo điều kiện cho người lao
động có cơ hội để củng cố và mở mang hoặc nâng cao một cách có hệ thống những
tri thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ có sẵn để làm việc kết quả cao hơn.
1.2. Quan điểm của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng,
Nhà nước ta về giáo dục
1.2.1. Quan điểm của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Mác đã vạch ra quy luật tất yếu của xã hội tương lai là đào tạo, giáo dục
những con người phát triển toàn diện. Việc đào tạo, giáo dục các thế hệ phát
triển toàn diện là điều kiện để phát triển xã hội, xây dựng kinh tế, văn hóa, khoa
học kĩ thuật. Theo tinh thần của Mác, con người phát triển toàn diện sẽ là mục
đích của nên giáo dục cộng sản chủ nghĩa, và con người phát triển toàn diện là

4



người phát triển đầy đủ, tối đa năng lực sẵn có về tất cả mọi mặt đạo đức, trí
tuệ, thể chất, tình cảm, nhận thức, năng lực, óc thẩm mỹ và có khả năng cảm thụ
được tất cả những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh, đồng thời có
thể sáng tạo ra những cái mới theo khả năng của bản thân. Mác đã vạch ra
những nguyên tắc cơ bản để đào tạo, giáo dục những con người phát triển toàn
diện của xã hội tương lai. Đó là sự kết hợp một cách hợp lý giữa giáo dục đạo
đức, thể dục, trí dục và lao động sản xuất, đó là sự kết hợp giữa lao động sản
xuất và thực hiện giáo dục bách khoa (giáo dục kĩ thuật tổng hợp) trong việc tổ
chức cho trẻ em tham gia hoạt động thực tiển, hoạt động xã hội. Mác đã đi đến
nhận định rằng trong xã hội tương lai “lao động kết hợp với trí dục và thể dục,
đó không những là một phương pháp làm tăng thêm sản xuất xã hội mà còn là
một phương pháp duy nhất và độc nhất để đào tạo những con người phát triển
toàn diện”.
Trong bộ “Tư Bản”, Mác viết: “Nền giáo dục sẽ kết hợp lao động sản xuất
với trí lực và thể lực, đối với hết thảy các trẻ em trên một lứa tuổi nhất định nào
đó và làm như vậy không những chỉ là phương pháp tăng thêm sản xuất xã hội
mà còn là phương pháp tốt nhất và duy nhất tạo ra những con người toàn diện”.
Theo Mác, việc tổ chức lao động sản xuất cần để cho trẻ vận dụng những
tri thức tiếp thu được qua quá trình trí dục, phải đảm bảo hiệu quả kinh tế và
nhằm phát triển thể lực và giáo dục đạo đức, cần phát huy ý thức tự giác của trẻ
và xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ. Giáo dục kĩ thuật tổng hợp liên quan
mật thiết với giáo dục lao động và tổ chức lao động sản xuất. Theo Mác, xã hội
tương lai mới có đủ điều kiện thực hiện giáo dục kĩ thuật tổng hợp. giáo dục kĩ
thuật tổng hợp vừa là một bộ phận hợp thành nội dung các mặt giáo dục, đồng
thời lại vừa như một nguyên tắc của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Ngày nay,
nền sản xuất công nghệ hiện đại ở các nước phát triển đã buộc phải thực hiện
những lý tưởng giáo dục kĩ thuật tổng hợp theo quan điểm của C.Mác.
Trong dự thảo cương lĩnh của Đảng cộng sản Nga năm 1919, Lê nin đã
nêu lên những ý tưởng mà ngày nay chúng vẫn không mất đi tính thời sự và đặc
biệt quan tâm: “Thực hiện chế độ giáo dục không mất tiền bậc học phổ thông và

bách khoa (dạy lý thuyết và thực hành về tất cả các ngành sản xuất chủ yếu)
cho tất cả các trẻ em trai và gái dưới 16 tuổi. Kết hợp chặt chẽ công tác giáo
dục với lao động sản xuất xã hội. Lôi cuốn nhân dân lao động tích cực tham gia
sự nghiệp giáo dục phát triển hội đồng giáo dục quốc dân, huy động những
người biết chữ dạy người chưa biết chữ…”. Như vậy là, ý thức được tầm quan

5


trọng của việc nâng cao dân trí, ngay sau khi Cách mạng tháng 10 Nga thành
công, Lê nin đã nêu rõ ý tưởng: Toàn dân tham gia giáo dục, ý tưởng một nền
giáo dục phổ cập (bắt buộc và không mất tiền) và cũng như Mác, Người rất
nhấn mạnh giáo dục kỹ thuật tổng hợp, kết hợp với lao động sản xuất.
Ngày 31/8/1960, trong thư gửi cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các
trường và các lớp bổ túc văn hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Giáo dục
phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và chính phủ, gắn liền với sản xuất
và đời sống nhân dân”. Nhận thức vấn đề này trong quá trình xây dựng đội ngũ
nhà giáo tức là phải chú ý đến các yêu cầu về phẩm chất, đạo đức và nhận thức
chính trị, tư tưởng. Công tác giáo dục chỉ có thể phục vụ đường lối chính trị của
Đảng và chính phủ một cách tốt nhất khi cán bộ giáo dục và nhà giáo nhìn nhận
một vấn đề chuyên môn thông qua lăng kính của một nhà chính trị. Hay nói
cách khác mỗi nhà giáo là một cán bộ của Đảng và Nhà nước, mỗi cán bộ giáo
dục khi giải quyết một vấn đề chuyên môn phải đặt bối cảnh chung về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội ở nơi đơn vị giáo dục gắn bó.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý là điều quan trọng và cần thiết. Nhận thức đúng tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau cũng như về công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo sẽ giúp chúng ta có cái nhìn
sâu sắc về thực tiễn giáo dục Việt nam và thế giới, để thấy rằng những điều
chúng ta đã làm và sẽ làm là những điều mà Bác Hồ kính yêu, người thầy vĩ đại

của chúng ta đã căn dặn và chỉ đạo cách đây rất lâu. Có lẽ, nếu chúng ta làm được
như Bác Hồ mong muốn thì chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục sẽ được nâng cao ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như trên thế
giới, phục vụ nhiệm vụ ngày càng tốt yêu cầu của đất nước, kế thừa, phát huy
truyền thống dân tộc.
1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục
Giai đoạn trước đổi mới, Đảng ta chưa ban hành nghị quyết Trung ương
có tính chuyên đề về giáo dục và đào tạo. Đường lối và các chính sách của
Đảng về lĩnh vực này được thể hiện trong các văn kiện của các đại hội Đảng và
các nội dung được đưa vào các nghị quyết về các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy,
ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "một dân tộc dốt là

6


một dân tộc yếu". Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan
trọng của cách mạng Việt Nam.
Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết
định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận
quan trong của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo
dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học
đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với
xã hội. Nghị quyết Đại hội IV nêu rõ: “... Tiến hành cải cách giáo dục trong cả
nước; phát triển giáo dục phổ thông; sắp xếp, từng bước mở rộng và hoàn chỉnh
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp; phát triển
rộng rãi các trường dạy nghề”. Để cụ thể hoá thực hiện Nghị quyết Đại hội IV,
ngày 11-1-1979 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 14-NQ/TW “về cải cách giáo
dục”. Nghị quyết nêu mục tiêu của cải cách giáo dục lần này là “làm tốt việc

chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ cho tới lúc trưởng thành,
nhằm tạo cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao
động làm chủ tập thể và phát triển toàn diện”. Nguyên lý cải cách giáo dục là việc
học phải đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
với xã hội. Nội dung chủ yếu của công tác cải cách giáo dục lần này gồm ba mặt:
cải cách cơ cấu của hệ thống giáo dục, cải cách nội dung giáo dục và cải cách
phương pháp giáo dục. Nghị quyết nêu hệ thống giáo dục mới của nước ta là:
“một thể thống nhất và hoàn chỉnh”, bao gồm: “giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục chuyên nghiệp và đại học; mạng lưới trường, lớp tập trung và
mạng lưới trường, lớp không thoát ly sản xuất và công tác”. Nghị quyết nhấn
mạnh biện pháp cải tiến chương trình học và biên soạn sách giáo khoa mới; tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các trường học bằng cách tăng đầu tư; kiện
toàn tổ chức quản lý và tăng cường công tác quản lý của ngành giáo dục; đẩy
mạnh công tác nghiên cứu khoa học giáo dục.
Nghị quyết Đại hội VI xác định: Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ
lao động có kỹ thuật đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công
lao động của xã hội. Sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên
nghiệp, trực tiếp góp phần vào việc đổi mới công tác quản lý kinh tế và xã hội.
Phát triển có kế hoạch hệ thống giáo dục, từ giáo dục mầm non đến đại học và
trên đại học, bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo. Bố trí hợp lý cơ cấu hệ
thống giáo dục, thể hiện tính thống nhất của quá trình giáo dục, bao gồm nhiều

7


hình thức: đào tạo và bồi dưỡng chính quy và không chính quy, tập trung và
tại chức. Cải tiến chế độ thi cử, cấp chứng chỉ, văn bằng và học vị theo hướng
bảo đảm chất lượng và công minh. Mở rộng và củng cố các trường, các lớp
dạy nghề để đào tạo, bồi dưỡng công nhân lành nghề, phát triển các trung tâm

dạy nghề rộng rãi cho thanh niên và nhân dân lao động. Sắp xếp lại mạng lưới
các trường đại học và trung học chuyên nghiệp, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
giảng dạy và quản lý, nhanh chóng hình thành đội ngũ cán bộ chuyên môn đầu
ngành. Đi đôi với việc nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn và năng lực
thực hành, cần coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật, giáo
dục thể chất và giáo dục quốc phòng. Kết hợp giảng dạy, học tập với lao động
sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.
Chuẩn bị cho thanh niên bước vào cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu,
hiểu và làm tốt nghĩa vụ công dân.
Đến Nghị quyết Đại hội VII nêu rõ: mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao
động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng
tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường
đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức
và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Ngày 14-1-1993, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, “Về tiếp
tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
Đảng ta, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có kỳ họp riêng bàn về một số
vấn đề xã hội, trong đó tập trung xem xét sâu rộng vấn đề giáo dục và đào tạo
và ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đây là Nghị
quyết đáp ứng lòng mong đợi từ lâu của toàn Đảng, toàn dân ta, nhất là đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, học sinh, sinh viên trong cả nước, về việc
xác định quan điểm, chủ trương, chính sách, biện pháp tiếp tục phát triển mạnh
mẽ sự nghiệp giáo dục. Nghị quyết không những chỉ ra những giải pháp cấp
bách để xử lý những vấn đề nóng bỏng đối với công tác giáo dục và đào tạo mà
còn định hướng lâu dài cho việc phát triển sự nghiệp này theo cương lĩnh và
chiến lược của Đảng ta cho đến sau năm 2000, nhằm chuẩn bị cho nhân dân ta,
đặc biệt cho thế hệ trẻ vững bước tiến vào thế kỷ XXI.
Đến Đại hội VIII, về giáo dục và đào tạo, Nghị quyết nhấn mạnh với
những nội dung chủ yếu: cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo

là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng

8


nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát
huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục, đào tạo trong 5 năm
tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, có việc làm; khắc phục
những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục và đào tạo.
Ngày 28-12-2000, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 61-CT/TW “Về việc phổ cập
trung học cơ sở” yêu cầu các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn
thể nhân dân từ Trung ương đến địa phương phải: Nhanh chóng xây dựng và
thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trung học cơ sở gắn với việc đổi mới nội
dung chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng cập nhật những thành tựu
mới nhất của khoa học - công nghệ, với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, toàn cầu hoá, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tại Đại hội IX, về vấn đề giáo dục và đào tạo, Nghị quyết nêu rõ: “...
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương
pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện
“chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và
sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn
và tay nghề, đẩy mạnh phong trào tự học tập trong nhân dân bằng những hình
thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi
người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”. Thực hiện phương châm “học
đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã
hội”... Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học,
chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương. Xây dựng

quy hoạch đào tạo nhân lực theo phương thức kết hợp học tập trung, học từ xa,
học qua máy tính.
Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội
toàn quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục
con người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.
Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ
tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái,
ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không
cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ

9


năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với chính trị, có
ý chí vươn lên về khoa học - công nghệ.
Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển
giáo dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo
dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học
cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi để cho mọi người học tập
và học tập suốt đời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công
nhân kỹ thuât lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt
chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội.
1.3. Yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong giai đoạn
hiện nay
Giáo viên là yếu tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục. Luật giáo
dục (điều 15 chương I) nêu rõ "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm
bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu
gương tốt cho người học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, có
chính sách bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo

thực hiện nhiệm vụ của mình…". Với nhận thức hoạt động trung tâm của nhà
trường là dạy học và giáo dục. Để phát triển toàn diện học sinh, thầy cô giáo là
lực lượng trực tiếp thực hiện chương trình giáo dục của cấp học. Chất lượng
giáo dục của nhà trường phần lớn do đội ngũ giáo viên quyết định. Do đó việc
bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển nhà trường. Tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục một cách toàn diện theo hướng chuẩn hóa là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu
trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài nhằm thực hiện thành công chiến
lược phát triển giáo dục và chấn hưng đất nước. Chất lượng đội ngũ trong mỗi
nhà trường thể hiện ở nhiều mặt: Đủ về số lượng, hợp lý cơ cấu, đảm bảo về
trình độ đào tạo và có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thầy giáo, cô giáo phải là người hiểu sâu về kiến thức
chuyên ngành, biết rộng về các bộ môn khoa học liên quan và có vốn văn hóa
nói chung. Bước sang thế kỷ XXI nền giáo dục hiện đại có những xu hướng đổi
mới sâu sắc từ quan niệm về vị trí, vai trò, chức năng của giáo dục đến nội dung
và phương pháp giáo dục...Sự đổi mới này tất yếu đặt ra những yêu cầu xây
dựng, xây dựng lại đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng sự đổi mới đó. Sự phát triển

10


vũ bão của khoa học- công nghệ đòi hỏi mỗi thầy cô giáo phải luôn bồi dưỡng,
cập nhật thông tin, tri thức mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Nền giáo dục nước ta có sứ mệnh đào tạo ra nguồn lực người có khả năng
thích ứng với những thay đổi của nền khoa học công nghệ ,việc làm, tạo cơ hội
cho giáo dục đào tạo hội nhập với nền giáo dục của thế giới, sớm bắt nhịp với
nền văn hoá, văn minh tiên tiến để có cơ hội sử dụng kho tàng tri thức nhân
loại. Nếu nhân lực đào tạo thấp sẽ dẫn đến hậu quả giáo dục khó có thể cạnh
tranh trên thị trường. Vì vậy đòi hỏi giáo dục phải nhanh chóng đạt chuẩn mực
khu vực, không những đáp ứng nhu cầu của đất nước hôm nay mà cho cả mai

sau . Trước tình hình biến động của thế giới, xác định nhiệm vụ của đất nước
trong thời kỳ đổi mới Đảng ta đã chú trọng “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu
“Tại nghị quyết TWII khoá VIII Đảng ta đã đề cập “ Khâu then chốt để thực
hiện chất lượng giáo dục là phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn hoá
đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ nhà giáo ”, bởi không ai khác chính người
thầy là người “ Khai tâm mở trí cho bao thế hệ học trò ”. Tại nghị quyết hội
nghị lần thứ hai Ban chấp hành TW BCH Đảng khoá VIII, nghị quyết hội nghị
TW IV khoá VI đã khảng định “ Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng
giáo dục và được xã hội tôn vinh, giáo viên phải có đủ đức, đủ tài”. Ngày
15/6/2004 Ban bí thư TW Đảng ra chỉ thị 40, một lần nữa nhấn mạnh “Nâng
cao chất lượng quản lý và nhà giáo vừa là nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu trước mắt
vừa mang tính chiến lược lâu dài và chấn hưng đất nước, đảm bảo đủ số lượng,
nâng cao chất lượng, cân đối về cơ cấu, đạt chuẩn đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
mới ”. Như vậy vấn đề bồi dưỡng đội ngũ là rất quan trọng bởi: “Chất lượng
giáo dục trước mắt và trong tương lai tuỳ thuộc vào mỗi giáo viên”. Có thể nói
nếu không có đội ngũ giáo viên thì không có nhà trường, không có nhà trường
thì không có sự tồn tại và phát triển giáo dục. Bác Hồ đã nói “Nhiệm vụ của
giáo viên rất quan trọng và vẻ vang vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo
dục , không có giáo dục thì không có cán bộ, không nói gì đến tri thức văn hóa”
Nếu người thầy không gữi vai trò là chủ thể tích cực quan trọng của quá trình
đổi mới phương pháp dạy học, thì việc nâng cao chất lượng dạy học khó có thể
thành công, cho nên lo cho giáo dục thì trước hết là lo cho đội ngũ giáo
viên,vấn đề đặt ra là làm thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giáo
viên dần dần trở thành đội quân tinh thông về kiến thức, điêu luyện về phương
pháp, giỏi về nghiệp vụ tay nghề để họ có thể làm tròn sứ mệnh của mình. Với
bậc trung học cơ sở có ý nghĩa là tiền đề của bậc học trong hệ thống giáo dục

11



quốc dân, đây là bậc học tạo nền móng vững chắc cả về kiến thức cũng như
phát triển nhân cách HS, tri phối hướng phát triển nhân cách cả một đời
người,vì thế coi trọng việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là một việc làm cần
thiết, bởi người giáo viên luôn là tấm gương mẫu mực về phẩn chất đạo đức,
“Vừa hồng vừa chuyên” là người mẹ hiền để HS tôn thờ và làm theo . Thực tế
qua các năm làm công tác giáo dục ở trường THCS ... tôi nhận thấy bên cạnh
những mặt mạnh, tích cực, tiến bộ là chủ yếu, vẫn còn những hạn chế, yếu kém
nhất định, chất lượng giáo dục toàn diện chuyển biến chưa ổn định, phương
pháp giảng dạy còn chậm đổi mới chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo
của người học. Một bộ phận giáo viên còn ngại sử dụng các phương tiện thiết bị
dạy học. Một bộ phận GV tuổi cao trình độ chuyên môn còn hạn chế do tồn tại
của quá trình đào tạo chắp vá do đó còn dạy theo lối truyền thụ “ một chiều”.
Một số GV có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn nhưng lại non yếu
về phương pháp sư phạm. Chất lượng HSG chưa cao do còn ít kinh nghiệm
giảng dạy .Tất cả các nguyên nhân nêu trên không thể đáp ứng yêu cầu của nền
giáo dục tiên tiến hiện đại, khó có thể hoà nhập và đáp ứng những yêu cầu của
đất nước trong hiện tại và tương lai, việc thực hiện mục tiêu giáo dục cũng như
cung cấp nguồn lực người cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khó
có thể thành công. Vì thế giáo dục cần có những bước đột phá mới mà khâu bồi
dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ GV là rất cần thiết, người làm công tác
quản lý phải tìm ra biện pháp khả thi bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để đưa chất
lượng giáo dục đi lên, đây là một việc làm cần thiết và thiết thực phải thực hiện
ngay đối với mỗi nhà trường.

12


Chương 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG THCS
TIÊN LỮ, HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC TRONG NHỮNG

NĂM QUA
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình trường THCS ..., huyện ..., tỉnh
Vĩnh Phúc
*Về cơ sở vật chất: Trường THCS ... có địa điểm tại Thôn Mới xã ....
Năm học 2015-2016, trường có 08 phòng học kiên cố, có đủ bàn ghế cho HS và
CBGV, 05 phòng học bộ môn ( Lý, Hóa, Sinh, Tin học, Tiếng Anh), 01 phòng
Thư viện, 01 phòng đọc, 02 phòng làm việc của BGH, 01 phòng Hội đồng, 02
phòng tổ bộ môn, 01 phòng y tế, 01 phòng văn thư, 01 phòng kế toán, 01 phòng
công đoàn, 01 phòng truyền thống, 01 phòng đoàn đội, 02 nhà để xe cho HS và
GV, có nhà vệ sinh cho HS và GV, được đầu tư xây dựng để công nhận trường
chuẩn quốc gia trong năm học 2015 - 2016. Nhìn chung cơ sở vật chất và thiết bị
dạy học tương đối đảm bảo phục vụ cho công việc chuyên môn và tổ chức các hoạt
động giáo dục của nhà trường.
* Về sĩ số học sinh năm học 2015 – 2016:
Khối 6: 35 hs;
Khối 7: 53 học sinh;
Khối 8: 33 hs;
Khối 9: 41 học sinh
Tổng số: 162 học sinh
* Về chuyên môn, nghiệp vụ: 100% các giáo viên trong trường có trình độ
chuyên môn đạt yêu cầu trở lên. Cụ thể:
Tổng số giáo viên: 21
Trình độ đào tạo:
Đại học = 9 (tỷ lệ 42,9%) . Cao đẳng = 13 (tỷ lệ 57,1%).
Giới tính: Nam = 04, Nữ =17.
Độ tuổi:
Từ 50 tuổi trở lên = 02 đ/c
Từ 40 - 49 = 06 đ/c
Từ 30 - 39 = 07 đ/c
Từ 20 - 29 = 06 đ/c

2.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên trường THCS ...
2.2.1. Ưu điểm
Đội ngũ giáo viên trong trường cơ bản đủ về số lượng và cơ cấu các bộ
môn, hầu hết các đồng chí giáo viên đều có trình độ đạt chuẩn và vượt chuẩn,

13


có năng lực chuyên môn tương đối đồng đều, vững vàng nhiệt tình trong giảng
dạy và các hoạt động khác của nhà trường, có đạo đức tốt, tác phong sư phạm
nhà giáo chuẩn mực, chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước. Hầu hết các đồng chí giáo viên đều nắm rõ mục tiêu của GD
& ĐT THCS, gương mẫu, nhiệt tình trong các hoạt động giảng dạy. Một số
đồng chí giáo viên có ý thức phấn đấu đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp
tỉnh. Bên cạnh đó còn một bộ phận giáo viên mới ra trường tuổi nghề còn ít,
tuổi đời còn trẻ chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy và công tác, đa số giáo
viên có tuổi đời cao, có thâm niên trong nghề nghiệp, tuy nhiệt tình trong công
tác nhưng còn chậm trong việc đổi mới phương pháp dạy học, chưa đáp ứng
được yêu cầu đặc biệt phần lớn các giáo viên chưa có ý thức cao trong việc
tham gia các phong trào thi đua nhất là phong trào thi đua Hai tốt .
Về đạo đức và lòng yêu nghề tinh thần trách nhiệm của đội ngũ: Nghề
dạy học là nghề có tính đặc thù riêng, đối tượng của dạy học và giáo dục là con
người, phát triển và hoàn thành nhân cách cho học sinh vì vậy nhân cách, các
phẩm chất đạo đức của người thầy, tác động trực tiếp đến quá trình hình thành
phát triển nhân cách của học sinh, nhiều công trình nghiên cứu cho rằng phẩm
chất nhân cách của người thầy giáo là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả
giáo dục và đào tạo, đặc biệt ở lứa tuổi thiến niên thì điều đó càng có ý nghĩa
quan trọng. Thực tế về phẩm chất đạo đức của giáo viên nhà trường hiện nay
đều là những thầy, cô giáo có đạo đức tốt, tác phong sư phạm mẫu mực, có lối
sống trong sáng giản dị được học sinh, các bậc cha mẹ học sinh và đồng nghiệp

kính trọng, tin yêu.
Trong những năm qua, công tác dạy và học của thầy trò trường THCS ...
đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Theo số liệu thống kê đã đạt được về mặt
chuyên môn của đội ngũ giáo viên trường từ năm 2010 - 2011 đến nay như sau:
+ Năm học 2010 – 2011: Trường có 06 chiến sĩ thi đua cơ sở, 15 lao
động tiên tiến. Trường đạt danh hiệu Lao động tiên tiến. Đạt các chỉ tiêu đề ra
trong năm học. Học sinh giỏi cấp huyện đạt 24 em, cấp tỉnh 01 em. Thi đỗ vào
lớp 10 đạt 85% số các em dự thi
+ Năm học 2011 – 2012: Trường có 01 chiến sỹ thi đua cấp Tỉnh; 08
chiến sĩ thi đua cơ sở, 12 lao động tiên tiến. Trường đạt danh hiệu Tiên tiến xuất
sắc cấp tỉnh. Đạt các chỉ tiêu đề ra trong năm học, một số chỉ tiêu vượt kế
hoạch. Học sinh giỏi cấp huyện đạt 28 em, cấp tỉnh 02 em. Thi đỗ vào lớp 10
đạt 100% số các em đăng ký dự thi.

14


+ Năm học 2012 – 2013: Trường có 01 Bằng khen cấp Tỉnh; 08 chiến sĩ
thi đua cơ sở; 13 lao động tiên tiến. Trường đạt danh hiệu Tiên tiến xuất sắc cấp
tỉnh. Đạt các chỉ tiêu đề ra trong năm học, một số chỉ tiêu vượt kế hoạch. Học
sinh giỏi cấp huyện đạt 32 em, cấp tỉnh 01 em. Thi đỗ vào lớp 10 đạt 100% số
các em đăng ký dự thi.
+ Năm học 2013 – 2014: Trường có 02 Bằng khen cấp Tỉnh ; 09 chiến sĩ
thi đua cơ sở, 12 lao động tiên tiến. Trường đạt danh hiệu Tiên tiến xuất sắc cấp
tỉnh. Đạt các chỉ tiêu đề ra trong năm học, một số chỉ tiêu vượt kế hoạch. Học
sinh giỏi cấp huyện đạt 34 em, cấp tỉnh 03 em. Thi đỗ vào lớp 10 đạt 100% số
các em đăng ký dự thi.
+ Năm học 2014 – 2015: Trường có 01 Bằng khen cấp Tỉnh ; 03 chiến sĩ
thi đua cơ sở, 18 lao động tiên tiến. Trường đạt danh hiệu Tiên tiến cấp Huyện;
các chỉ tiêu đề ra trong năm học, một số chỉ tiêu vượt kế hoạch. Học sinh giỏi

cấp huyện đạt 38 em, cấp tỉnh 08 em; cấp quốc gia 01 em. Thi đỗ vào lớp 10 đạt
100% số các em đăng ký dự thi.
Tổng kết qua các năm học của nhà trường cho thấy chất lượng giáo dục
của nhà trường những năm qua đã có những bước tiến rõ rệt cả về chất lượng
đội ngũ và chất lượng học sinh, song vẫn còn nhiều điều đáng trăn trở như: Chất
lượng học sinh giỏi tuy có tăng về số lượng nhưng chất lượng giải chưa cao,
còn nhiều giải Khuyến khích, ít giải nhất, nhì. Số lượng học sinh giỏi cấp tỉnh
còn ít (chỉ có 1 hoặc 2 giải) và chất lượng giải thấp chủ yếu là giải Ba và giải
Khuyến khích; chưa đều ở các môn, chủ yếu ở các môn Toán; Địa; Vật Lý,
Sinh. Các môn Văn, Tiếng Anh, Hóa, Sử không có học sinh đạt giải. Vẫn còn
một bộ phận học sinh yếu kém, phải thi lại hàng năm.
Thực tế bên cạnh các đồng chí tích cực trong công tác giảng dạy thường
xuyên cập nhật kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra
đánh giá vẫn còn một số các đồng chí giáo viên chưa thật sự tâm huyết với nghề
chưa hết lòng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục của địa phương, chưa tích cực
trong trau dồi kiến thức, đổi mới phương pháp, chậm đổi mới; còn có tâm lý
dạy cho xong, chỉ dừng lại ở mức độ hoàn thành nhiệm vụ, không có ý chí phấn
đấu vươn lên nên kết quả một số bộ môn chưa cao, chưa tạo được hứng thú với
học sinh, chưa thúc đẩy được học sinh tham gia các hoạt động học tập.
2.2.2. Những mặt tồn tại, hạn chế

15


Bên cạnh những ưu điểm trên, chất lượng cán bộ, giáo viên và nhân viên
nhà trường cũng còn một số hạn chế như sau: Cán bộ quản lý đôi lúc chưa mạnh
dạn, quyết đoán. Công tác đánh giá cán bộ, giáo viên tuy thực hiệtn heo đúng
tinh thần hướng dẫn của các cấp nhưng nhìn chung tính sàng lọc cán bộ, giáo
viên chưa cao, còn mang tính hình thức. Cán bộ, giáo viên chưa ý thức đầy đủ
về công tác đánh giá cán bộ, giáo viên nên cũng có hiện tượng đánh giá chung

chung, tính phê và tự phê bình chưa cao, nên đã chưa thúc đẩy được các gương
điển hình tiên tiến trong đơn vị phát triển, những người còn hạn chế về chuyên
môn cũng không nhận thấy những sai lầm, khuyết điểm của mình để phấn đấu
vươn lên. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và nhất là trong đổi
mới phương pháp dạy học của một số ít giáo viên chưa thường xuyên. Cơ cấu
giáo viên vừa thiếu ở bộ môn này nhưng thừa ở bộ môn khác. Số ít giáo viên do
chạy theo vật chất đơn thuần, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, chưa gương mẫu trong
nếp sống, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và học sinh. Công tác tuyển
dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ nhà giáo còn nhiều khó khăn, phụ thuộc vào
cấp trên. Nhìn chung trong thời gian qua chất lượng hai mặt giáo dục của
trường THCS ... hàng năm đều tăng, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhất
định như tỷ lệ học sinh yếu kém hàng năm còn cao. Chất lượng mũi nhọn tăng
theo hàng năm, nhưng so với mặt bằng chung của các trường THCS trong toàn
huyện ... thì vẫn chưa ngang tầm đặc biệt là về chất lượng giải.
2.3. Nguyên nhân của những ưu điểm và tồn tại, hạn chế
2.3.1. Nguyên nhân của những ưu điểm
Một là, sự quan tâm sâu sắc của chi bộ đảng, của Đảng ủy - UBND xã ...
và sự chỉ đạo trực tiếp của Phòng Giáo dục - Đào tạo huyện ....
Hai là, tinh thần đoàn kết trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, sự đoàn kết,
thống nhất một lòng của đội ngũ giáo viên, sự cố gắng của học sinh và sự quan
tâm rất lớn từ chính quyền địa phương.
Ba là, hoạt động kiểm tra, thanh tra về hoạt động chuyên môn của nhà
trường cũng như của cấp trên tương đối sát, kịp thời rút kinh nghiệm, biết phát
huy những nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực để xây dựng đội ngũ
cán bộ, giáo viên ngày càng vững mạnh đủ năng lực thực hiện hoàn thành
nhiệm vụ từng năm học.
Bốn là, nghiêm túc thực hiện các cuộc vận động do ngành giáo dục phát
động như: “ Mỗi thầy, cô giáo là tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, cuộc

16



vận động “Hai không”, cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”…
Năm là, tinh thần tự học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tin
học của cán bộ, giáo viên.
Sáu là, hoạt động chuyên môn của nhà trường từng bước được khẳng
định từ đó tạo điều kiện để nhiều giáo viên phát triển về chuyên môn.
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Một là, nhận thức của một số cán bộ, giáo viên và nhân viên chưa đầy đủ
trong công tác đánh giá chất lượng cán bộ, giáo viên, còn quá nhiều nhiều cả nể.
Hai là, chưa có chính sách khuyến khích, động viên cán bộ, giáo viên và
nhân viên tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, chuyên
môn nghiệp vụ ( tự túc là chính).
Ba là, chưa đầu tư chuyên sâu về công tác ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học.
Bốn là, công tác tuyển dụng chưa đáp ứng nhu cầu công việc tại đơn vị.
Năm là, đa số học sinh là con em gia đình lao động nghèo nên việc hỗ
trợ, phối hợp giữa gia đình và nhà trường về mọi mặt còn nhiều hạn chế, học
sinh yếu kém còn cao

17


Chương 3
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG THCS TIÊN LỮ
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Điều 23 – Luật Giáo dục – 1998 quy định về nhiệm vụ của giáo

dụcTrung học cơ sở: “Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và
phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có trình độ học vấn phổ thông
cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống
lao động” Trong Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991- 2011) Đảng ta đã thẳng
thắn và mạnh dạn đánh giá những thành tựu, hạn chế và những bài học kinh
nghiệm của 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991. Trong báo cáo nêu rõ: Giáo
dục và đào tạo về cơ bản đó giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung, chương
trình và các chính sách giáo dục. Công bằng xã hội trong giáo dục được cải
thiện. Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp
tục phát triển. Các trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong phổ cập giáo dục
và đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo gắn kết chặt chẽ hơn với yêu
cầu phát triển kinh tế- xã hội, khoa học- công nghệ. Hệ thống giáo dục quốc dân
được tiếp tục phát triển, mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng. Cơ sở vật chất
- kỹ thuật cho GD&ĐT ngày càng được cải thiện. Nhà nước đầu tư nhiều hơn
cho GD&ĐT. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ngày càng tăng, từ 15%
năm 2000 lên 20% năm 2007, xã hội hóa giáo dục đạt được nhiều kết quả quan
trọng, huy động được nhiều nguồn lực khác trong xã hội đầu tư cho giáo dục và
đào tạo. Nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và học tập có đổi mới,
chất lượng bước đầu được cải thiện. Chủ trương xây dựng xã hội học tập đang
được tích cực triển khai. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không
ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đã có những đóng góp quan
trọng cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Bên cạnh những kết quả trên, trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo còn
những hạn chế, yếu kém, chưa thật sự là quốc sách hàng đầu. Chưa giải quyết
tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng . Chất
lượng giáo dục toàn diện giảm sút. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu đồng bộ,

18



chưa liên thông, mất cân đối trong các cấp học, ngành học, cơ cấu, ngành, nghề,
vùng, miền. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, về truyền thống văn hóa,
lịch sử dân tộc, về Đảng, về quyền lợi và nghĩa vụ công dân cho học sinh, sinh
viên chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp; Giáo dục phổ
thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy chữ” chưa quan tâm đúng mức đến
“dạy người”, kỹ năng sống và “dạy nghề” cho thanh, thiếu niên. Chương trình,
giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa; Nhà trường
chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp, chưa chú trọng phát
huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém và là nguyên nhân chủ yếu
của nhiều yếu kém khác. Cơ chế quản lý giáo dục chưa theo kịp sự đổi mới trên
các lĩnh vực của đất nước. Đạo đức và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý
giáo dục còn thấp. Công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng yêu cầu.
Một số ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về công tác xã
hội hóa giáo dục, làm hạn chế khả năng thu hút các nguồn lực để chăm lo cho
sự nghiệp giáo dục, đào tạo và giải quyết những khó khăn đang đặt ra đối với
một bộ phận nhân dân.
Phát huy những thế mạnh khắc phục những tồn tại của đội ngũ giáo viên,
nhà trường hướng đến việc xây dựng đội ngũ giáo viên:
- Phấn đấu 100% cán bộ, giáo viên, công nhân viên chức có phẩm chất đạo
đức tốt, có tư tưởng chính trị vững vàng, yên tâm công tác. Thực hiện nghiêm túc
chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Xây dựng tập thể đoàn kết thân ái giúp đỡ lẫn nhau trong công tác và
trong sinh hoạt, coi trường như nhà, xây dựng được không khí ấm cúng, lành
mạnh trong tập thể.
- Thực hiện tốt đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, hết lòng vì học
sinh thân yêu.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, nghiêm chỉnh chấp hành chính sách của

Đảng, Nhà nước, nội quy của nhà trường.
- Có ý chí phấn đấu vươn lên về mọi mặt, đảm bảo trình độ đồng đều và
ngày càng cao của đội ngũ trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có phẩm
chất và năng lực, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm được nâng cao
đáp ứng được những tiêu chuẩn của giáo viên, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm
vụ của mình, góp phần đáp ứng được yêu cầu đổi mới mục tiêu, nội dung và

19


phương pháp giáo dục ở bậc Trung học cơ sở để đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước, đồng thời tạo ra một động lực lớn cho sự phát triển giáo dục
của nhà trường, xây dựng trường THCS ... ngày càng vững mạnh, có chất lượng
giáo dục ngày càng cao, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương.
3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
trường THCS ... trong thời gian tới
3.2.1. Tranh thủ sự lãnh đạo và ủng hộ của các cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương, Phòng GD&ĐT thành phố cùng các cơ quan, đoàn thể
các doanh nghiệp đóng trên địa bàn nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hoá
giáo dục.
Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, của toàn xã hội những năm gần
đây cấp ủy, Ban giám hiệu nhà trường đã khẩn trương triển khai các biện pháp
xã hội hóa giáo dục, phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể chính trị trong nhà
trường, hội cha mẹ học sinh, hội khuyến học và các tổ chức đoàn thể ở địa
phương đặc biệt tranh thủ sự ủng hộ của Đảng ủy, UBND Xã ... tuyên truyền
cho nhân dân, các tầng lớp xã hội ở địa phương quan tâm và chăm lo cho sự
nghiệp giáo dục đào tạo, có ý thức sâu sắc rằng sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp
chính trị của xã hội, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước hiện

nay và mai sau.
Tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò vị trí “ Quốc sách hàng đầu” của
giáo dục trong sự phát triển kinh tế của xã hội cho toàn thể cán bộ, đảng viên và
nhân dân lao động. Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết TW 2 khóa VIII,
các Luật giáo dục, Luật phổ cập giáo dục Tiểu học, Luật bảo vệ chăm sóc, bảo
vệ và giáo dục trẻ em... làm cho mọi người hiểu hơn nữa về giáo dục- đào tạo.
Trên cơ sở xã hội hóa giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường tăng cường
tham mưu cho Đảng ủy, UBND và các tổ chức đoàn thể trong xã cùng nhân dân
lao động hiểu rõ và quan tâm hơn đến nghề thầy giáo, đến đội ngũ giáo viên
trong nhà trường.
3.2.2. Tiếp tục nâng cao nhận thức và vị trí vai trò của giáo dục đào tạo
cho đội ngũ giáo viên nhà trường
Ngay từ đầu năm học Ban Giám hiệu nhà trường đã thống nhất một số
chủ trương là: Vấn đề số lượng giáo viên đủ so với yêu cầu là vấn đề lâu dài,
vấn đề trước mắt là tăng cường bồi dưỡng chất lượng đội ngũ giáo viên về mọi
mặt đủ sức đảm đương với nhiệm vụ nặng nề hiện tại mà Đảng, Nhà nước và

20


nhân dân địa phương giao cho. Nhà trường đã bồi dưỡng cho giáo viên nhận
thức được vai trò trách nhiệm của người giáo viên trong giai đoạn mới. Cụ thể
đã tổ chức cho cán bộ giáo viên học tập quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo, chủ
trương đường lối của Đảng và nhà nước về giáo dục đào tạo, Nghị quyết TW 2
khoá VIII của Đảng, đã triển khai và thi hành nghiêm túc các quy định của luật
giáo dục trong nhà trường, quán triệt chỉ thị 34/CT-TW của Bộ Chính trị về
công tác tư tưởng chính trị trường học, tạo điều kiện về thời gian để giáo viên
tham gia học tập các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, học tập tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Kết hợp với công đoàn động viên cán bộ giáo viên thường xuyên bồi
dưỡng tư tưởng chính trị đạo đức lối sống, giúp giáo viên tin tưởng vào sự

nghiệp đổi mởi của Đảng về công tác giáo dục, yên tâm gắn bó với nghề, bám
trường, bám lớp, yêu nghề, mến trẻ, tích cực tham gia các cuộc vận động như
cuộc vận động “ Dân chủ- Kỷ cương- Tình thương - Trách nhiệm”, cuộc vận
động “Hai không” đặc biệt là cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
3.2.3. Thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ GV về chuyên môn nghiệp vụ
Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ là một việc không thể thiếu của giáo
viên trong suốt quá trình giảng dạy. Mỗi giáo viên cần có một trình độ chuyên
môn vững chắc, sâu rộng về bộ môn của mình. Vì vậy trong quá trình giảng dạy
giáo viên cần được bồi dưỡng những kiến thức cập nhật, nâng cao của bộ môn
khoa học mà mình dạy. Đối với những giáo viên đạt trình độ chuẩn, muốn đi
học để nâng cao trình độ nhà trường cũng đã tạo điều kiện để giáo viên đi học
đại học. Trên cơ sở những kiến thức chuyên môn vững chắc, giáo viên mới thể
hiện kỹ năng sư phạm nhuần nhuyễn. Có nghĩa là người giáo viên có một trình
độ chuyên môn vững chắc, kiến thức sâu sắc và toàn diện là cơ sở cho việc cải
tiến các phương pháp dạy học và hoàn thiện nghệ thuật sư phạm của mình.
Việc bồi dưỡng để hoàn thiện kỹ năng sư phạm là việc làm hết sức cần
thiết đối với các nhà trường THCS. Trong quá trình bồi dưỡng đội ngũ chúng
tôi sẽ chọn hình thức bồi dưỡng tại chỗ và cử giáo viên đi học có hệ thống để
nâng cao trình độ một cách cơ bản ( tại chức, chuyên đề...)
Đối với việc bồi dưỡng tại chỗ: Trong quá trình chỉ đạo công tác chuyên
môn của nhà trường, để bồi dưỡng năng lực cho giáo viên chúng tôi đã thường
xuyên tổ chức cho giáo viên dự giờ thăm lớp qua các đợt dự giờ khảo sát đầu
năm, thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn; giáo viên dự giờ đồng

21


nghiệp theo quy định 01 tiết/tuần; chỉ đạo các tổ chuyên môn xây dựng và thực
hiện các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học ở các bộ môn, công tác chủ

nhiệm, tham gia sinh hoạt chuyên môn do cụm, phòng, Sở GD&ĐT tổ chức; tổ
chức đúc rút kinh nghiệm và áp dụng những điểm thống nhất sau chuyên đề một
cách kịp thời, có hiệu quả. Đồng thời các giáo viên trong nhà trường có thể giúp
đỡ lẫn nhau, bằng cách những giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng kèm
cặp, giúp đỡ những giáo viên yếu kém, giao cho những giáo viên này soạn mẫu,
giảng mẫu để giáo viên yếu dự giờ rút kinh nghiệm, hoặc kèm cặp theo tổ nhóm
chuyên môn trên tinh thần giáo viên giỏi giúp giáo viên yếu về chuyên môn,
giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy giúp giáo viên mới ra trường. Nhà trường
và tổ chuyên môn sưu tầm những đề thi giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi các
cấp, đề thi vào lớp 10 THPT của các trường trên địa bàn để giáo viên tự giải,
trao đổi, thảo luận ở tổ, nhóm nhằm trau dồi kiến thức, kỹ năng. Cán bộ giáo
viên tự bồi dưỡng, giáo viên tự học theo chương trình bồi dưỡng thường xuyên
theo các chu kỳ , tiếp tục duy trì công tác tự bồi dưỡng hàng năm thường xuyên
liên tục, đặc biệt bồi dưỡng nội dung, đổi mới phương pháp và kiến thức, kỹ
năng theo chuẩn kiến thức, kỹ năng chương trình bộ môn và cấp học mà Bộ
GD&ĐT đã ban hành, kiến thức nâng cao. Nhà trường khuyến khích giáo viên
học vi tính, biết sử dụng kỹ thuật soạn thảo văn bản để soạn bài một cách thực
chất. Căn cứ vào đơn đề nghị của giáo viên, nhà trường tổ chức kiểm tra, đánh
giá các điều kiện cho phép giáo viên sử dụng giáo án soạn và in từ máy vi tính.
Động viên khuyến khích các giáo viên trẻ mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông
tin vào trong soạn giảng, nâng cao hiệu quả giờ dạy.
3.2.4. Tổ chức Hội thảo theo chuyên đề, thao giảng bồi dưỡng giáo
viên giỏi
Đây là một việc làm hết sức cần thiết trong việc nâng cao chất lượng đội
ngũ của nhà trường vì có thầy giỏi mới có trò giỏi. Hoạt động này được tiến
hành thường xuyên liên tục qua từng tháng, từng đợt thi đua chào mừng các
ngày lễ lớn trong năm học. Qua thao giảng đã chọn được những hạt giống của
từng bộ môn đồng thời qua đó chúng tôi đã nắm được trình độ chuyên môn, kỹ
năng tổ chức dạy học của đội ngũ giáo viên từ đó kịp thời có biện pháp điều
chỉnh hợp lý và thao giảng cũng là dịp để anh em giáo viên có điều kiện trao

đổi, học tập, rút kinh nghiệm lẫn nhau từ đó phát huy những mặt mạnh, khắc
phục mặt còn yếu kém của bản thân.

22


3.2.5. Bồi dưỡng giáo viên nghiên cứu khoa học và
làm đồ dùng dạy học
Đây là việc làm không thể thiếu trong mỗi năm học của nhà trường, cán
bộ giáo viên trong nhà trường làm tốt công tác nghiên cứu khoa học, đúc rút
sáng kiến kinh nghiệm sẽ thúc đẩy nhiệm vụ năm học tốt lên. Trình độ của đội
ngũ cũng được nâng lên một cách cơ bản. Vì vậy nhà trường xây dựng kế
hoạch, ngay từ đầu năm tổ chức cho giáo viên đăng ký tên sáng kiến kinh
nghiệm, hết học kỳ I duyệt bản thảo và đến đầu tháng 3 hàng năm giáo viên
hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm. Nhà trường thành lập hội đồng khoa học để
chấm sáng kiến kinh nghiệm, khuyến khích động viên giáo viên tham gia
nghiên cứu khoa học đúc rút sáng kiến kinh nghiệm trên cơ sở Phòng GD&ĐT
thành phố đã hướng dẫn.
3.2.6. Tổ chức cho đội ngũ giáo viên thăm quan học hỏi những đơn vị
có thành tích cao trên địa bàn
Tổ chức cho đội ngũ giáo viên đi thăm quan học hỏi các đơn vị trường
bạn, giao lưu kết nghĩa với các nhà trường có bề dày thành tích để trao đổi về
phương pháp quản lí, nghiệp vụ sư phạm, phương pháp giảng dạy. Từ đó động
viên khuyến khích đội ngũ mở rộng tầm nhìn, nâng cao ý thức tự học, tự bồi
dưỡng.
3.2.7. Làm tốt công tác kiểm tra nội bộ
Trong chỉ đạo hoạt động giáo dục của nhà trường nói chung và công tác
bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn nói riêng, công tác quản lý, kiểm
tra, thanh tra có ý nghĩa quan trọng trước hết định hướng đúng đắn cho việc tự
học, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện của đội ngũ giáo viên. Công tác quản lý phù hợp

với sự thúc đẩy quá trình giảng dạy và giáo dục đạt kết quả cao, giúp đội ngũ
giáo viên phát huy hết khả năng và năng lực của mình nhằm hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Trong công tác quản lý cần chỉ đạo theo hướng thật sự dân chủ để
mỗi đồng chí giáo viên chủ động trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện kế
hoạch của mình, chú trọng đến vai trò của các đồng chí tổ trưởng chuyên môn.
Trước hết lựa chọn và bổ nhiệm các đồng chí tổ trưởng là những người giỏi
chuyên môn, vững về tư tưởng chính trị, mẫu mực tận tâm với nghề nghiệp, gắn
bó với công việc của nhà trường và điều quan trọng là có tinh thần trách nhiệm
cao trong chuyên môn. Các đồng chí tổ trưởng chuyên môn chịu trách nhiệm
trước Ban giám hiệu về hoạt động chuyên môn của tổ mình từ thực hiện quy

23


chế chuyên môn đến việc thực hiện các giờ dạy trên lớp, từ khâu ra đề đến khâu
tổ chức đánh giá học sinh.
Công tác kiểm tra thanh tra các hoạt động giáo dục: Coi đây là một công
việc cần thiết để tiến hành thường xuyên liên tục nhằm nhắc nhở, uốn nắn, điều
chỉnh quá trình dạy học của đội ngũ giáo viên phù hợp với chức năng nhiệm vụ
được giao của từng đồng chí và đem lại hiệu quả cao. Để làm tốt công tác này
nhà trường xây dựng kế hoạch thanh tra nội bộ ngay từ đầu năm học và được
triển khai thường xuyên đúng kế hoạch đề ra. Trong năm học 100% cán bộ giáo
viên được kiểm tra toàn diện và kiểm tra chuyên đề. Quá trình kiểm tra được
thực hiện một cách nghiêm túc theo đúng quy chế. Ngoài ra Ban giám hiệu
thường xuyên dự giờ, kiểm tra hồ sơ giáo viên đột xuất, có như vậy mới khắc
phục được tâm lý đối phó của một bộ phận giáo viên, nâng cao được chất lượng
dạy và học của đội ngũ trong nhà trường.
3.2.8. Bố trí đội ngũ giáo viên theo đúng chuyên môn đào tạo
Đây cũng là một biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ. Hiện nay về số
lượng giáo viên của nhà trường là đủ song lại bất cập về cơ cấu, hơn nữa giáo

viên lại phải dạy dạy chéo ban, nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo
dục toàn diện của nhà trường. Vì thế trong việc bố trí chuyên môn của năm học
cần thực hiện phân công tương đối đúng người, đúng việc, đúng năng lực của
từng đồng chí từ đó đã tạo điều kiện cho các đồng chí giáo viên yên tâm thực
hiện nhiệm vụ của mình, có thời gian nghiên cứu soạn giảng đổi mới nội dung
phương pháp, nghiên cứu tài liệu, dự giờ, thăm lớp, dành nhiều thời gian tự học,
tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
3.2.9. Tăng cường quản lý nề nếp, thực hiện đúng Quy chế chuyên
môn và động viên khen thưởng kịp thời
Trong Hội nghị cán bộ công chức năm học 2015-2016 được tổ chức vào
tháng 9 năm 2015, toàn thể cán bộ, giáo viên nhà trường đã được bàn bạc, thảo
luận và thống nhất về việc thực hiện nhiệm vụ và và quy định trách nhiệm của
từng cá nhân, từng bộ phận trong nhà trường. Hưởng ứng các cuộc vận động,
các phong trào thi đua mà các cấp và ngành phát động, từng cán bộ, giáo viên
trong nhà trường đăng ký và cam kết thực hiện các tiêu chí thi đua một cách
nghiêm túc, tự giác. Nhà trường đã phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường
tuyên truyền để giáo viên hiểu rõ rằng đăng ký phấn đấu trở thành giáo viên dạy
giỏi là một tiêu chí để xét danh hiệu thi đua Lao động tiên tiến, Chiến sĩ thi đua
cấp cơ sở. Nhiều giáo viên đã hết sức cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao,

24


tích cực tham gia các kỳ kiểm tra kiến thức, thi giáo viên dạy giỏi do các cấp
quản lý tổ chức.
Động viên, khen thưởng các giáo viên có thành tích một cách kịp thời, ví
dụ như trước khi các giáo viên đi thi nhà trường tổ chức gặp mặt động viên, sắp
xếp chuyên môn và tạo mọi điều kiện giúp đỡ; đối với các đồng chí có thành
tích, tổ chức tuyên dương, khen thưởng trước toàn trường.
3.2.10. Quan tâm tới gia đình, đảm bảo các chế độ,

chính sách cho giáo viên
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có êm ấm, hạnh phúc thì giáo viên
mới yên tâm công tác, nhiệt tình với mọi công việc được giao. Ban giám hiệu
nhà trường cần phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường luôn luôn
quan tâm tới hoàn cảnh gia đình từng cán bộ giáo viên; thăm hỏi giúp đỡ kịp
thời. Bên cạnh đó lãnh đạo nhà trường luôn đảm bảo thực hiện đúng các chế
độ, chính sách hiện hành của Nhà nước, của ngành cho giáo viên như tăng
lương thường xuyên, chế độ nghỉ hè, nghỉ phép, khám sức khoẻ, khám bệnh,
các chế độ đối với nữ công nhân viên chức.
Tóm lại: Với sự phát triển mạnh mẽ, Việt Nam đang trên con đường đổi
mới CNH, HĐH đất nước và thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển Giáo dục
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Muốn thực hiện được
mục tiêu này thì đất nước phải có đông đảo những người có trình độ văn hoá và
tay nghề cao. Chất lượng giáo dục trước mắt và tương lai tuỳ thuộc vào đội ngũ
giáo viên. Do đó, để phát triển giáo dục thì khâu đột phá là chất lượng đội ngũ
giáo viên. Đặc điểm của lao động sư phạm đòi hỏi người giáo viên phải thường
xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao mở rộng tri thức và chuyên môn nghiệp
vụ. Do đó “Học tập suốt đời” là phương châm đối với các nhà giáo chân chính.

25


×