Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009-2013)

Đề tài:

TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
TS. PHẠM VĂN BEO
Bộ môn Tư Pháp

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN NGỌC HUỲNH PHƯƠNG
MSSV: 5095548
Lớp: Luật Hành chính K35

CẦN THƠ, 04/2013


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

 .................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................


.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
Ngày …… tháng ……. năm 2013


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

 .................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................

.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
Ngày …… tháng ……. năm 2013


Lời cảm ơn
Để hoàn thành nghiên cứu luận văn tốt nghiệp với đề
tài “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự
Việt Nam”, bên cạnh sự nổ lực của bản thân đã vận dụng
những kiến thức tiếp thu được ở trường, tìm tòi học hỏi
cũng như thu thập thông tin số liệu có liên quan đến đề
tài, người viết luôn nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận
tình của các thầy cô cùng với những lời động viên
khuyến khích từ phía gia đình, bạn bè.
Đầu tiên tiên người viết xin cảm ơn gia đình đã
luôn tạo điều kiện, giúp đỡ và động viên trong mọi mặt.
Xin cảm ơn quý thầy cô trong Khoa Luật đã dùng
tâm huyết của mình để truyền đạt những kiến thức, kinh
nghiệm quý báu trong thời gian học tập ở trường Đại
học. Đặc biệt, chân thành cảm ơn Thầy Phạm Văn Beo
đã hướng dẫn tận tình để người viết hoàn thành tốt luận
văn của mình.

Cảm ơn tất cả các bạn đã giúp đỡ người viết trong
quá trình viết luận văn, trong học tập cũng như trong
cuộc sống hằng ngày. Đặc biệt, cảm ơn các bạn lớp Luật
Hành chính - K35 đã giúp đỡ, động viên về mặt tinh
thần trong suốt thời gian học ở trường Đại học.
Mặc dù đã cố gắng để nghiên cứu hoàn thành
luận văn của mình nhưng do còn hạn chế về thời gian
nên không tránh được những thiếu sót, người viết rất
mong nhận được đóng góp của thầy cô và các bạn để
luận văn có thể hoàn thiện hơn.


MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU .........................................................................................................1
1.

Lý do chọn đề tài..............................................................................................1

2.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.........................................................................2

3.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài..........................................................................2

4.


Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................2

5.

Bố cục đề tài ....................................................................................................2

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ TUỔI
CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ...........................................................................4
1.1. Trách nhiệm hình sự.........................................................................................4
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự .......................................................................4
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm hình sự ........................................................................6
1.2. Cơ sở lý luận của trách nhiệm hình sự ..............................................................9
1.2.1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự ...........................................................9
1.2.2 Cơ sở thực tế của trách nhiệm hình sự ..........................................................10
1.3. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự .........................................................................11
1.3.1. Khái niệm ....................................................................................................11
1.3.2. Cơ sở của việc quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự .................................12
1.3.3. Ý nghĩa của việc ghi nhận tuổi chịu trách nhiệm hình sự ..............................12
1.4. Sơ lược lịch sử hình thành chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam13
1.4.1. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thời phong kiến ..........................13
1.4.2. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thời kì thực dân Pháp xâm lược ..14
1.4.3. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự giai đoạn từ năm 1954 đến trước
khi Bộ luật Hình sự 1985 ra đời..............................................................................15
1.4.4. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 1985.16


1.4.5. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình
sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 ................................................................................17
1.5. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số quốc gia trên thế giới...18
1.5.1. Quy định cụ thể của pháp luật tại một số quốc gia ........................................18

1.5.2. Bảng số liệu thống kê ...................................................................................19
CHƯƠNG 2. TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH ...............................................................................22
2.1. Năng lực chịu trách nhiệm hình sự và mối liên hệ giữa năng lực trách nhiệm
hình sự với tuổi chịu trách nhiệm hình sự ...............................................................22
2.1.1. Khái niệm năng lực chịu trách nhiệm hình sự ...............................................22
2.1.2. Mối liên hệ giữa năng lực chịu trách nhiệm hình sự với tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.........................................................................................................28
2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tuổi chịu trách nhiệm
hình sự ...................................................................................................................29
2.2.1. Quy định ở Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung 2009.......................29
2.2.2. Căn cứ và nguyên tắc xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự .......................34
2.3.Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và những chế định khác liên quan đến tuổi trong
Phần chung và Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành ..........36
2.3.1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế định người chưa thành niên trong
Phần chung của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành ............................................36
2.3.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và những chế định liên quan đến tuổi trong
Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành ..................................38
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ...............................................................39
3.1. Tình hình tội phạm theo lứa tuổi hiện nay........................................................39
3.1.1. Một số vụ án điển hình do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và
người chưa thành niên thực hiện.............................................................................39
3.1.1.1. Những vụ án do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện ....39
3.1.1.2. Những vụ án do người chưa thành niên thực hiện ......................................43


3.1.2. Số lượng và tính chất phạm tội của những vụ án do người chưa thành niên
thực hiện ................................................................................................................48
3.1.2.1. Về số lượng người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội .................48

3.1.2.2. Về mức độ phạm tội của người chưa thành niên .......................................49
3.1.2.3. Về hung khí người chưa thành niên sử dụng khi gây án .............................49
3.1.2.4. Về xu hướng hoạt động theo băng nhóm hiện nay của người chưa thành
niên 50
3.2. Nguyên nhân tình hình gia tăng tội phạm đối với lứa tuổi người chưa thành
niên 51
3.2.1. Hoàn cảnh gia đình.......................................................................................51
3.2.2. Tâm lí trẻ em giai đoạn vị thành niên............................................................53
3.2.3. Sự thay đổi quá nhanh của xã hội cùng với sự gia tăng của các loại tệ nạn xã
hội 54
3.2.4. Môi trường giáo dục .....................................................................................55
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam
hiện hành về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.............................................................56
3.3.1. Sự cần thiết để hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.........................................................................................................56
3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong bối cảnh
xã hội hiện nay .......................................................................................................57
3.3.3. Một số kiến nghị khác nhằm hạn chế thực trạng người chưa thành niên
phạm tội trong bối cảnh xã hội hiện nay .................................................................61
3.3.3.1. Kiến nghị tăng mức hình phạt tù đối với đối tượng phạm tội là người chưa
thành niên...............................................................................................................61
3.3.3.2. Kiến nghị giải quyết vấn đề nguyên nhân gia tăng tội phạm ở người chưa
thành niên...............................................................................................................66
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 69


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trẻ em nói chung và người chưa thành niên nói riêng là mầm non, là chủ nhân
tương lai của đất nước. Chính vì thế, họ rất cần được được chăm sóc và bảo vệ của gia
đình, nhà trường và toàn xã hội, tránh những tác động xấu ảnh hưởng đến quá trình phát
triển toàn diện về nhận thức và tri thức. Xác định được điều đó nên Đảng và Nhà nước ta
luôn có những chính sách quan tâm, ưu tiên đối với trẻ em, người chưa thành niên - thế
hệ cần được xã hội bảo vệ và đối xử một cách đặc biệt. Ngay trong những quy định khắt
khe nhất của Bộ luật Hình sự, Đảng và Nhà nước cũng thể hiện sự quan tâm, nhân đạo
đối với nhóm đối tượng này. Chính sách Hình sự của Việt Nam đối với việc truy cứu
trách nhiệm hình sự của các trường hợp này là nhằm giúp đỡ, cải tạo, giáo dục để người
chưa thành niên nhận ra sai lầm, từ đó sửa chữa những sai lầm của mình, tạo điều kiện để
các em có khả năng tái hòa nhập cuộc sống. Đây là nguyên tắc bao trùm mang tính chất
chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam lấy giáo dục làm
nền tảng, trọng tâm trong quá trình xử lý vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành
niên.
Hiện nay, nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa, phát triển theo nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi xã hội đang phát triển thì bên cạnh đó
tình hình phạm tội của người dân ngày càng phổ biến, đặc biệt ở lứa tuổi chưa thành niên
phạm tội đang gia tăng mạnh. Tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật diễn
biến phức tạp với mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn, cho nên vấn đề này
đang trở thành mối lo ngại của toàn xã hội, cần được đặc biệt quan tâm.
Trong tình hình hiện nay yếu tố "tuổi" đang giữ vai trò rất quan trọng. Tuổi chịu
trách nhiệm mặc dù không được ghi nhận chính thức dưới góc độ lập pháp là một đặc
điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm nhưng dấu hiệu này lại có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc xác định trách nhiệm hình sự của đối tượng phạm tội. Đây là dấu hiệu không
thể thiếu trong yếu tố chủ thể bên cạnh dấu hiệu "năng lực trách nhiệm hình sự". Bên
cạnh đó, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng là một vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết
định đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là trong bối cảnh gia tăng tội
phạm thanh, thiếu niên như hiện nay .

Từ những vấn đề nêu trên, người viết thấy rằng việc tìm hiểu, nghiên cứu các quy
định về tuổi chịu trách nhiệm hình là cần thiết. Xuất phát từ lí do trên người viết chọn đề
tài "Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam" để làm đề tài tốt
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

1

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

nghiệp nhằm nghiên cứu về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam hiện hành, thông qua đó đề xuất ra giải pháp hoàn thiện quy định của
pháp luật, góp phần hạn chế tình trạng phạm tội ở lứa tuổi chưa thành niên.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Người viết nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu trình bày những hiểu biết chung
nhất của người viết về “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” và những quy định của pháp luật
Hình sự hiện hành về "tuổi chịu trách nhiệm hình sự". Đồng thời, người viết cũng tìm
hiểu về thực trạng việc áp dụng vào thực tiễn về chế định này. Thông qua đó, tìm ra
những mặt hạn chế, chưa phù hợp để có hướng giải quyết vấn đề. Từ đó có thể đề xuất
các giải pháp thiết thực góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
về chế định “tuổi chịu trách nhiệm hình sự”.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Vì đây là đề tài có phạm vi tương đối rộng nên người viết không thể đi hết tất cả các
vấn đề mà người viết chỉ tập trung vào những vấn đề mang tính cấp thiết cần được thay
đổi để phù hợp với tình hình thực tại. Cụ thể, trong đề tài này người viết sẽ khái quát
chung về trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, sự phát triển của chế định

tuổi chịu trách nhiệm hình sự qua các thời kỳ lịch sử, những quy định hiện hành của pháp
luật hình sự liên quan đến năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự,
phân tích đánh giá tình hình tội phạm theo lứa tuổi hiện nay. Cũng từ những phân tích,
đánh giá đó, người viết đề xuất các giải pháp thiết thực để góp phần hoàn thiện quy định
về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong tình hình xã hội hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, để có được những thông tin cần thiết người viết đã sử
dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để tiếp cận vấn đề. Đầu tiên, để có tư liệu
cho việc nghiên cứu, người viết đã sử dụng biện pháp sưu tầm, tìm kiếm tài liệu, phân
loại tài liệu, tham khảo các thông tin qua báo đài, tạp chí, để chọn lọc, sắp xếp, cơ cấu
cho phù hợp vào nội dung từng chương. Tiếp đó, trong quá trình viết cũng sử dụng các
phương pháp phân tích luật viết, các biện pháp liệt kê, so sánh, đối chiếu các quy định
pháp luật với nhau, đồng thời để tạo ra sự dễ dàng cho người đọc trong việc tiếp cận luận
văn, người viết cũng đã sử dụng các biện pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch để phân tích,
chứng minh hay giải thích vấn đề. Tất cả các phương pháp trên được trình bày đan xen
trong luận văn, tùy từng nội dung mà áp dụng phương pháp cho phù hợp để tạo ra sự hài
hòa, cân đối mạch lạc trong từng vấn đề của luận văn.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

2

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung

chính của đề tài gồm 3 chương với kết cấu đề tài bao gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
- Chương 2: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam
hiện hành.
- Chương 3: Hoàn thiện quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

3

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
VÀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Trách nhiệm hình sự
1.1.1.

Khái niệm trách nhiệm hình sự

Trong ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo nhiều nghĩa
khác nhau, trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “trách nhiệm” có nghĩa là nghĩa vụ, bổn phận phải gánh

vác hoặc phải nhận lấy về mình của một người trước một người khác, trước xã hội hoặc
Nhà nước.1 Ví dụ như trách nhiệm của bố mẹ trong việc chăm sóc, giáo dục con cái; trách
nhiệm của công dân trong việc nộp thuế,…
Trong khoa học pháp lý, “trách nhiệm” thường được hiểu theo hai nghĩa: trách
nhiệm chủ động (có trách nhiệm) và trách nhiệm bị động (chịu trách nhiệm). Nếu trách
nhiệm chủ động được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ mà chủ thể phải thực hiện, thì trách
nhiệm bị động được hiểu là những hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh vác do không
thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ của mình.2
Theo từ điển Luật học, thì trách nhiệm trong lĩnh vực pháp lý là nghĩa vụ phải gánh
chịu những tước đoạt mang tính chất nhân thân hay tài sản tương ứng với hành vi vi
phạm pháp luật đã gây ra, phù hợp với chế tài của qui phạm pháp luật và chỉ xuất hiện
trong các quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm
quyền) và bên kia là người hay tổ chức vi phạm pháp luật.3 Việc áp dụng trách nhiệm
pháp lý, ngoài tác dụng trừng phạt còn có ý nghĩa rất lớn trong việc phòng ngừa, cải tạo
và giáo dục những người vi phạm pháp luật. Đồng thời răn đe tất cả những người khác
khiến họ phải kiềm chế, giữ mình không vi phạm pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng và
thực hiện pháp luật nghiêm minh, làm cho mọi người tin tưởng vào công lý, tích cực đấu
tranh chống mọi biểu hiện vi phạm pháp luật, dần dần từng bước loại trừ hiện tượng vi
phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội.

1
2
3

Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản (Nxb) Văn hóa – Thông tin, 1999, Tr.1678.
Phan Trung Hiền: Lý luận về Nhà nước và pháp luật quyển 2, Nxb Chính trị - quốc gia, Tr.175.
Lê Đức Thọ: “Trách nhiệm pháp lý” Từ điển Thuật ngữ pháp lý.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo


4

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ pháp lý và được sử dụng đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là loại trách
nhiệm nghiêm khắc nhất trong các loại trách nhiệm pháp lý ở Việt Nam, được thể hiện
thông qua hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Từ trước đến nay, xung quanh khái niệm “trách nhiệm hình sự” vẫn còn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau. Theo một trong những nhà khoa học Luật Hình sự hàng đầu,
PGS.TSKH Lê Cảm dẫn ra tại Sách chuyên khảo Sau đại học của mình thì trong khoa
học Luật Hình sự Việt Nam đang tồn tại bốn quan điểm như sau:
- Quan điểm thứ nhất: Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội,
thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà
nước.4
- Quan điểm thứ hai: Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là
trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện.5
- Quan điểm thứ ba: Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao
gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị
kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp)
và chịu mang án tích.6
- Quan điểm thứ tư: Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội
phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện

pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định.7
Tuy nhiên, phân tích khoa học về khía cạnh của trách nhiệm hình sự, chúng ta cần
phải hiểu trách nhiệm hình sự theo hai nghĩa tích cực và tiêu cực.

4

Đào Trí Úc (chủ biên): Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Khoa học xã hội Hà Nội,

1993, Tr.41.
5

Đỗ Ngọc Quang: Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng trong luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân Hà Nội, 1997, Tr.14.
6
7

Nguyễn Ngọc Hòa & Lê Thị Sơn: Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp Hà Nội, 2006, Tr.126.
Lê Cảm, Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự, tập III, Nxb Công an nhân dân Hà Nội, 2000,

Tr.122.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

5

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp


Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

Trong đó, ở nghĩa tích cực trách nhiệm hình sự là trách nhiệm phải xử sự hợp pháp
của một người trong việc ý thức được nghĩa vụ của mình là không được thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Về cơ bản, đây là cách hiểu theo quan điểm
không truyền thống, không có tính chất phổ biến và chính vì vậy cũng không được thừa
nhận rộng rãi trong các nhà hình sự học nói riêng và các nhà luật học nói chung.
Ở nghĩa tiêu cực thì trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm và hậu quả pháp lý ấy được
thể hiện trong việc Tòa án nhân danh Nhà nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc
thực hiện tội phạm đó, còn người bị kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp lý hình sự
theo một trình tự tố tụng riêng. Ngược lại với cách hiểu thứ nhất, đây chính là cách hiểu
theo quan điểm truyền thống, có tính chất phổ biến và được thừa nhận rộng rãi trong giới
luật học nói chung và luật hình sự nói riêng.
Dựa trên những phân tích trên, ta có thể hiểu một cách cơ bản nhất trách nhiệm hình
sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải
gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm và là kết quả của việc áp
dụng các quy phạm pháp luật hình sự, được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật, hình phạt và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy
định.
1.1.2.

Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự

Đây là vấn đề từ trước đến nay vẫn chưa được nghiên cứu, lý giải về mặt lý luận
trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, theo công trình nghiên cứu khoa học
của PGS.TSKH Lê Cảm, trên cơ sở phân tích khoa học về khái niệm trách nhiệm hình sự,
dựa vào các quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự
và thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật đã tổng hợp và rút ra những đặc điểm cơ

bản của trách nhiệm hình sự 8, cụ thể:
- Đặc điểm thứ nhất: trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện
hành vi phạm tội.
Trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh trên cơ sở khi có người thực hiện hành vi nguy
hiểm đáng kể cho xã hội bị pháp luật hình sự coi là tội phạm. Tuy nhiên, không phải bất
kì người nào thực hiện hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội cũng đều phải chịu trách
8

Lê Cảm, sách chuyên khảo Sau đại học Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự ( phần chung), Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội, 2005.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

6

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

nhiệm hình sự. Có những hành vi về mặt khách quan là rất nguy hiểm, gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho xã hội nhưng được loại trừ tính chất phạm tội thì người thực hiện
hành vi đó sẽ được loại trừ trách nhiệm hình sự. Mặt khác, có những người dù đã thực
hiện hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm nhưng vì một hoặc một số căn cứ nhất định mà
được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Đặc điểm thứ hai: trách nhiệm hình sự luôn được thể hiện trong phạm vi của quan
hệ pháp luật hình sự giữa hai bên là Nhà nước và người phạm tội.

Trách nhiệm hình sự luôn luôn được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật
hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định – một
bên là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội.
Nhà nước (mà đại diện là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền) có quyền xử
lý người phạm tội, nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được xử lý dựa trên các căn cứ và trong
giới hạn do pháp luật quy định.
Đối với người phạm tội thì có nghĩa vụ phải chịu sự tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự
do nhất định, nhưng đồng thời cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ từ phía Nhà nước tất cả
các quyền và lợi ích của con người và của công dân mà pháp luật đã quy định.
Riêng đối với chủ thể bị người phạm tội trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại quyền và
lợi ích hợp pháp thì không có quyền can thiệp để làm thay đổi trách nhiệm hình sự, ngoại
trừ một số trường hợp ngoại lệ xảy ra trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng mà việc
tiến hành xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm hại.9
- Đặc điểm thứ ba: trách nhiệm hình sự được xây dựng bằng một trình tự đặc biệt
bởi cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án),
mà trình tự đó phải do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Trình tự, thủ tục riêng này tuân theo pháp luật về tố tụng hình sự và chỉ được thực
hiện bởi các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và người tiến hành tố tụng. Ngoài ra,
không tổ chức hoặc cá nhân nào có quyền tiến hành các trình tự thủ tục để xác định trách
nhiệm hình sự. Đó chính là nét riêng đặc biệt mà việc xác định các trách nhiệm pháp lý
khác không có được.

9

Trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại (Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003).

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

7


SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

Việc xác định các căn cứ để có thể áp dụng trách nhiệm hình sự là kết quả của một
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng
hình sự. Trong mọi trường hợp, giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể tương ứng với cơ quan
nào thì cơ quan ấy mới có thẩm quyền xác định vấn đề trách nhiệm hình sự của công dân
bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm.
- Đặc điểm thứ tư: trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong bản kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật Hình sự quy định.
Căn cứ theo nguyên tắc hiến định về suy đoán vô tội đã được ghi nhận trong Hiến
pháp 199210 và Bộ luật Tố tụng hình sự 200311 thì trách nhiệm hình sự chỉ được chính
thức thực hiện khi bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và trách nhiệm hình
sự được thực hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật Hình sự quy định. Có thể là hình phạt gồm: Cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình
hoặc các biện pháp tư pháp gồm: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; buộc
công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh.
- Đặc điểm thứ năm: trách nhiệm hình sự được biểu hiện cụ thể nhất qua việc
người phạm tội có thể phải gánh chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước – hình phạt.
Biểu hiện cụ thể của trách nhiệm hình sự là hình phạt. Tuy nhiên, trách nhiệm hình
sự không đồng nhất với hình phạt, bởi vì, có những người phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự nhưng được miễn hình phạt. Từ “có thể” ở đây mang hàm ý như thế. Trách nhiệm

hình sự có nội dung rộng hơn hình phạt, là hậu quả pháp lý chung mà người phạm tội
phải gánh chịu. Trong khi đó, hình phạt chỉ là một trong những biểu hiện sinh động nhất
của trách nhiệm hình sự. Ngoài hình phạt, trách nhiệm hình sự còn có thể biểu hiện qua
các biện pháp tư pháp, miễn hình phạt.

10

Điều 72 đoạn 1 “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu

lực pháp luật”.
11

Điều 9 “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực

pháp luật”.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

8

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

- Đặc điểm thứ sáu: trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của cá nhân người phạm
tội.
Người phải chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể là người phạm tội, nghĩa là người

thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là tội phạm khi đã đạt độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự và có lỗi (cố ý hoặc vô
ý).Cùng với trách nhiệm hình sự của cá nhân, pháp luật hình sự nhiều nước cũng đã quy
định cả trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Ví dụ: Mỹ, Hà Lan, Pháp, Trung Quốc,...
Việc quy định hay không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật
hình sự của các nước phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, chính trị - xã hội và yêu
cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật của từng nước trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, pháp luật hình sự
nước ta chỉ mới thừa nhận trách nhiệm hình sự của cá nhân mà chưa coi pháp nhân là chủ
thể của tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp tội phạm do người
đại diện pháp nhân thực hiện không chỉ vì lợi ích của cá nhân người đó mà còn vì lợi ích
của cả pháp nhân thì trách nhiệm hình sự cũng chỉ có thể áp dụng đối với cá nhân người
phạm tội.
1.2. Cơ sở lý luận của trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý mà người thực hiện tội phạm phải chịu trách
nhiệm trước Nhà nước, thể hiện ở bản kết tội cũng như hình phạt mà Tòa án quyết định
áp dụng đối với người bị kết án và dấu hiệu án tích của người đó.
Cơ sở của trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 1999:
“Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự ”. Đây là căn cứ chung mà dựa vào đó Nhà nước, thông qua các cơ quan
đại diện có thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người nào đó.
1.2.1.

Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự

Trong khoa học pháp lý hình sự trong và ngoài nước, có nhiều quan điểm khác nhau
về cơ sở của trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý cơ bản và quan trọng để xác
định trách nhiệm hình sự của tội phạm là cấu thành tội phạm.
Cấu thành tội phạm là phạm trù pháp lý trừu tượng, là kết quả của hoạt động nhận
thức của con người và do các nhà lập pháp xây dựng nên trong quá trình làm luật. Thông

thường trong cấu thành tội phạm những dấu hiệu bắt buộc phải có bao gồm: dấu hiệu
hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi thuộc mặt chủ quan của tội

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

9

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

phạm, dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội
phạm, chúng ta có thể dựa vào những dấu hiệu của cấu thành tội phạm để nhận định hành
vi đó có phải là tội phạm hay không và người thực hiện hành vi có phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm nào không.
Tuy nhiên, nếu coi cơ sở của trách nhiệm hình sự chỉ là cấu thành tội phạm thôi thì
chưa đủ chính xác vì theo pháp luật hình sự Việt Nam: Người chuẩn bị phạm tội “rất
nghiêm trọng” hoặc tội “đặc biệt nghiêm trọng”12 hay “phạm tội chưa đạt” mặc dù trong
hành vi được thực hiện rõ ràng là chưa thể có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, theo người viết ý kiến của PGS.TS
Trần Văn Độ là hoàn toàn xác đáng khi cho rằng: “Quan điểm cho rằng cấu thành tội
phạm là cơ sở của trách nhiệm hình sự duy nhất là hoàn toàn sai lầm vì tự mình cấu
thành tội phạm không thể là cơ sở làm phát sinh trách nhiệm hình sự”.
1.2.2.

Cơ sở thực tế của trách nhiệm hình sự


Xét về mặt pháp lý, con người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ đã thực
hiện một hành vi bị cấm hoặc không thực hiện, thực hiện không đến nơi đến chốn những
gì mà pháp luật Hình sự yêu cầu, gây ra hoặc đe dọa gây ra hậu quả cho xã hội và bị cho
là tội phạm. Điều này có nghĩa là một người có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu
hành vi của họ có đủ những dấu hiệu cấu thành tội phạm. Hay nói cách khác, nếu cấu
thành tội phạm là điều kiện cần của trách nhiệm hình sự thì hành vi phạm tội là điều kiện
đủ, vì khi hành vi đã thoả mãn tất cả những dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì có đầy đủ
cơ sở để có thể buộc người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự mà
không đòi hỏi gì thêm.13
Hành vi phạm tội rất đa dạng, có thể là hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm, hành vi
xúi giục người khác thực hiện tội phạm hay tổ chức, giúp sức người khác thực hiện tội
phạm. Những hành vi này theo quy định của Bộ luật Hình sự có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự, phải nói là có thể bởi vì hành vi đó nhất thiết phải thoả mãn được các dấu hiệu
được quy định trong cấu thành tội phạm. Cũng không loại trừ trường hợp hành vi của một
số người được quy định trong cấu thành tội phạm, nhưng đối với những người này họ vẫn
không phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ có một số đặc điểm đặc biệt nào đó nên được
12

Điều 17 đoạn 2 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 “Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc

một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện”.
13

Điều 2 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy

định mới phải chịu trách nhiệm hình sự ”.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

10


SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

miễn hoặc được loại trừ trách nhiệm hình sự. Vì thế, không ai phải chịu trách nhiệm hình
sự nếu hành vi mà người đó thực hiện không được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm.
Tóm lại, nếu một hành vi đã thỏa mãn tất cả các dấu hiệu cấu thành tội phạm của
một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự thì hành vi đó mới bị coi là tội
phạm và người thực hiện hành vi đó mới có thể chịu trách nhiệm hình sự. Hay nói cách
khác, cơ sở của trách nhiệm hình sự cần thể hiện được vai trò quan trọng của việc thực
hiện hành vi (cơ sở thực tế) và cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lý) để coi hành vi nào đó
là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự, do đó cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc
thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được Bộ luật Hình sự
quy định.
1.3. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1.3.1.

Khái niệm

Theo từ điển Tiếng Việt thì “tuổi” có các nghĩa là:
- Khoảng thời gian đã qua kể từ khi sinh tính bằng năm đến một thời điểm xác định
nào đó. Ví dụ như cháu bé đã bốn tuổi.
- Thời kỳ trong đời mang một đặc tính sinh lý, xã hội,... đánh dấu một bước chuyển
biến của con người như: Tuổi dậy thì, Tuổi trưởng thành.
- Thời gian hoạt động trong một tổ chức, đoàn thể, nghề nghiệp: Tuổi Đảng, Tuổi
quân, Tuổi nghề.14

Luật Hình sự không định nghĩa thế nào là tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ quy
định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó, tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi
bổ sung 2009 quy định:
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành nhưng định nghĩa pháp luật của khái niệm “người đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự” thì vẫn chưa được các nhà làm luật điều chỉnh về mặt lập pháp. Do đó, có
14

Nguyễn Như Ý: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1999, Tr.1750.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

11

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

thể tạm hiểu định nghĩa khoa học của khái niệm người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là
người mà tại thời điểm phạm tội đã đạt đến độ tuổi do luật hình sự quy định để có thể có
khả năng nhận thức đầy đủ tính chất thực tế (tính nguy hiểm cho xã hội) và tính chất pháp
lý (tính trái pháp luật hình sự) của hành vi do mình thực hiện, cũng như có khả năng điều
khiển được đầy đủ hành vi đó.

1.3.2.

Cơ sở của việc quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Con người từ khi sinh ra đã có ý thức nhưng không phải có ý thức là có năng lực
trách nhiệm hình sự mà phải trải qua một quá trình phát triển về tâm, sinh lý trong điều
kiện xã hội nhất định thì năng lực đó mới hình thành..Khi đã đạt được một độ tuổi nhất
định nào đó con người nói chung sẽ có năng lực trách nhiệm hình sự trừ một số trường
hợp cá biệt (những trường hợp mà Luật Hình sự coi là trong tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự – Điều 13 Bộ luật Hình sự).
Luật Hình sự các nước dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát
về tâm lý cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của mình đã quy định tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.Giai đoạn hoàn chỉnh về nhận thức trong đời sống của mỗi cá nhân được
luật Hình sự mỗi nước trên thế giới quy định không giống nhau hoặc ngay cả tại một
quốc gia tùy từng thời điểm phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội nhất định thì cũng
không hoàn toàn giống nhau.
Ở nước ta, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, có tham khảo luật
Hình sự của các nước trên thế giới và trong khu vực, dựa trên những khảo sát về tâm sinh
lý của người Việt Nam kết hợp cùng yêu cầu của chính sách hình sự nước ta cùng với yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở tuổi vị thành niên, chính sách xử lý người chưa
thành niên phạm tội, Bộ luật Hình sự đã quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là đủ 14
tuổi.
1.3.3.

Ý nghĩa của việc ghi nhận chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm
1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phản ánh chính sách hình sự của Nhà nước về việc truy
cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội. Theo đó, luật Hình sự Việt
Nam không truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa đủ 14 tuổi. Với quy định về tuổi

chịu trách nhiệm hình sự như Điều 12 Bộ luật Hình sự không chỉ xác định tuổi bắt đầu có
thể phải chịu trách nhiệm hình sự mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên có hành vi phạm tội theo độ tuổi, chỉ khi đạt đến độ tuổi nhất định nào đó

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

12

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

cùng với sự phát triển trí tuệ, khả năng nhận thức thì vấn đề trách nhiệm hình sự mới
được đưa ra giải quyết..
Việc quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự không chỉ nhằm thể hiện chính sách
hình sự của Nhà nước mà trước hết phải đảm bảo điều kiện để cho chủ thể có năng lực
trách nhiệm hình sự. Độ tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự theo chính sách hình
sự phải đảm bảo chủ thể ở độ tuổi này là có năng lực trách nhiệm hình sự - là người có đủ
điều kiện để có thể có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Quy định về độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam được xây dựng theo đòi
hỏi này. Đây là kết quả của việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn đấu tranh phòng chống tội
phạm ở Việt Nam và có sự tham khảo học hỏi kinh nghiệm lập pháp của các nước khác.
Việc quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự có hai ý nghĩa
như vậy nhưng trong thực tế, nhiều khi chúng ta hay quên mất một trong hai ý nghĩa đó –
hoặc nhấn mạnh ý nghĩa là điều kiện để có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc nhấn mạnh
ý nghĩa là biểu hiện của chính sách hình sự.
1.4. Sơ lược lịch sử hình thành chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam

Nghiên cứu một cách hệ thống lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tuổi chịu trách
nhiệm hình sự sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và tổng quát về quá trình phát triển
của chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam. Nhờ đó,
chúng ta rút ra được những giá trị cần được kế thừa, qua đó sẽ tạo ra cơ sở để có sự đánh
giá đúng đắn thực trạng của pháp luật hình sự hiện hành về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
1.4.1.

Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thời phong kiến

Thành tựu lập pháp nổi bật trong thời kì phong kiến nước ta được thể hiện tập trung
vào hai bộ luật: Bộ Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) và Bộ Hoàng Việt luật lệ
(Bộ luật Gia Long). Điểm chung giữa hai bộ luật này là các nhà lập pháp đều khẳng định
nhất quán việc không buộc tội đối với người dưới 7 tuổi và người trên 90 tuổi, điều này
thể hiện sự tiến bộ trong việc đánh giá mối quan hệ giữa năng lực nhận thức của con
người đối với hành vi mà họ đã thực hiện. Điều 16 Luật Hồng Đức quy định “những
trường hợp phạm tội ở độ tuổi 80 trở lên, 10 tuổi trở xuống và đáng bị tử hình cũng phải
tâu lên Vua để xét định, còn người từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống dẫu có bị kết án tử
hình cũng không được hành hình”.15 Với quy định này các nhà lập pháp hình sự triều Lê
đã xác định trẻ em dưới 7 tuổi và người già 90 tuổi trở lên là đối tượng đặc biệt không
15

Phan Huy Lê: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1960, Tr.161.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

13

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương



Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

cần thiết phải áp dụng hình phạt, ngay cả trong trường hợp tội mà họ phạm là tử tội. Cũng
như Bộ luật Hồng Đức, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Gia Long cũng
được thể hiện thông qua Điều 21 như sau “90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù có phạm
tội chết cũng không chịu hình phạt nào”.16
Tóm lại, đặc trưng nổi bật trong những quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
thời kỳ này chính là những quy định mang tính chất nhân đạo và có dấu hiệu cho thấy,
các nhà lập pháp đã xem xét đến khả năng nhận thức của người phạm tội – đây là bước
tiến lớn trong kỹ năng lập pháp thời kì phong kiến.
1.4.2.
lược

Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thời kỳ thực dân Pháp xâm

Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách “chia để trị”, chia
đất nước Việt Nam thành ba xứ với ba chế độ chính trị khác nhau: Nam Kỳ là đất thuộc
địa, không còn quan hệ phụ thuộc vào triều đình Huế; Bắc Kỳ là đất “nửa bảo hộ” đặt
dưới quyền cai trị của một viên thống sứ người Pháp; ở Trung Kỳ, triều đình bù nhìn vẫn
còn được duy trì với danh hiệu “Chính phủ Nam triều”.
Ở Nam Kỳ, sắc lệnh ngày 31/12/1912 của Toàn quyền Đông Dương đã sửa đổi 56
điều luật của Bộ luật Hình sự Pháp thành Hình luật canh cải và cho áp dụng tại Nam Kỳ.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Bộ luật không quy định độ tuổi bắt đầu chịu trách
nhiệm hình sự mà chỉ quy định trường hợp người phạm tội dưới 16 tuổi tại Điều 67 thì
được giảm nhẹ hình phạt “nếu là tội xử tử, tù khổ sai chung thân hay lưu đầy, thì nó sẽ bị
tù từ 10 năm đến 20 năm”.17
Ở Bắc Kỳ, Nghị định ngày 2/12/1921 của Toàn quyền Đông Dương đã cho áp dụng
Luật hình An Nam. Về cơ bản, Luật hình An Nam và Hình luật canh cải đều do người

Pháp ban hành thông qua sửa đổi một số nội dung nhưng vẫn dựa trên Bộ luật Hình sự
Pháp nên hai bộ luật này không có gì khác biệt lớn về mặt nội dung, mà chủ yếu khác
nhau về mặt hình thức. Do đó, về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng tương tự như quy
định tại Hình luật canh cải.
Ở Trung Kỳ, bằng Dụ số 43 ngày 31/7/1933 của Bảo Đại, Hoàng Việt hình luật
được ban hành. Hoàng Việt đã có quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 84
như sau “Phàm người nào, phạm tội mà khi sự phát mới đầy 10 tuổi trở xuống, hoặc đã
16
17

Hoàng Việt: Luật lệ tập II, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1994, Tr.151.
Phan Khắc Giảng: Luật hình giải nghĩa và quy hình, Nxb Vĩnh Long – Sài Gòn, 1933, Tr.13.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

14

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

90 tuổi trở lên, thời (thì) khỏi phải chịu tội về mặt hình, trừ ra người già phạm tội đại
hình có phương hại đến sự trị an của Nhà nước thời (thì) không kể”.18
Từ sự phân tích trên, có thể thấy, pháp luật hình sự thời kỳ thực dân Pháp xâm lược
chịu ảnh hưởng nặng nề của pháp luật hình sự Pháp, nó thực sự là công cụ để thực dân
Pháp và bọn tay sai duy trì chế độ thực dân xâm lược ở nước ta. Tuy nhiên, xét về mặt
khoa học pháp lý, một số chế định trong giai đoạn này cũng cần được nghiên cứu để rút

ra những giá trị hợp lý phục vụ hoạt động lập pháp hình sự hiện nay.
1.4.3.

Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự giai đoạn từ sau 1954 đến

trước khi Bộ luật Hình sự 1985 ra đời
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết, miền Bắc
hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai
thống trị. Miền Bắc thành lập chính quyền cách mạng với tên gọi “Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa”, còn miền Nam hình thành chính quyền “Việt Nam Cộng hòa” dưới sự bảo trợ
của Mỹ.
Pháp luật hình sự thời kỳ này ở miền Bắc được thể hiện thông qua rất nhiều văn bản
pháp luật như Chỉ thị, Pháp lệnh, Bản tổng kết của Tòa án,… Riêng độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự được quy định tại Chỉ thị số 46 – TH ngày 14-1-1969 của Tòa án nhân dân
tối cao về việc tăng cường và phát huy hơn nữa tác dụng của công tác Tòa án trong công
tác bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ tài sản của Nhà nước và quản lý thị trường đã quy định
“Nói chung, đối với trẻ em hư dưới 14 tuổi, thì không đưa ra Tòa án xét xử; từ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi, nếu trường hợp phạm pháp cần thiết phải đưa ra xét xử thì có châm
chước đến tuổi còn non trẻ của chúng; riêng đối với loại từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, chỉ
nên xét xử trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng”.19 Quy định tiến bộ này về
sau đã được các nhà lập pháp tiếp thu và chính thức được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự
1985 và Bộ luật Hình sự 1999.
Trong báo cáo tổng kết công tác 4 năm 1965-1968 của Tòa án nhân dân tối cao lại
một lần nữa nhấn mạnh “Nếu chỉ xét riêng về khía cạnh năng lực trách nhiệm hình sự thì
đối với một số trường hợp cá biệt cũng có thể đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự
các em dưới 14 tuổi được, nhưng không nên đơn thuần chỉ nhìn vấn đề này dưới giác độ

18

Nguyễn Văn Hào: Bộ hình luật Việt Nam, xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp (chế độ Sài Gòn), 1962,


Tr.283.
19

Tập hệ thống hóa luật lệ hình sự, Tòa án nhân dân tối cao xuất bản, 1975, Tr.13.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

15

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

năng lực trách nhiệm hình sự mà là điều chủ yếu phải nhìn nhìn cả dưới giác độ yêu cầu
của xã hội đối với việc giáo dục thiếu niên”.
Qua các hướng dẫn trên, tuổi chịu trách nhiệm hình sự không những được xác định
dựa trên khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi cũng như khả năng điều khiển
hành vi mà còn căn cứ vào yêu cầu của xã hội trong việc giáo dục thanh thiếu niên.
Khác với chính quyền cách mạng, chính quyền Việt Nam Cộng hòa xác định tuổi
chịu trách nhiệm hình sự là 13 tuổi. Điều 77 Bộ luật Hình sự quy định “tội phạm không
cấu thành, nếu can phạm là vị thành niên 13 tuổi khi phạm pháp”. Theo quy định của Bộ
luật này có thể hiểu rằng người phạm tội nếu đủ 13 tuổi hoặc từ 13 tuổi trở xuống thì dù
thực hiện hành vi phạm tội nguy hiểm đến mấy cho xã hội cũng không bị coi là người
phạm tội và cũng không chịu sự trừng phạt của pháp luật. Nếu đem so quy định độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật này với quy định của chính quyền Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa thì có thể nhận thấy, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của bộ luật này rộng

hơn, dẫn đến khả năng áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cũng rộng
hơn.
1.4.4.
1985

Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm

Bộ luật Hình sự 1985 ra đời trong hoàn cảnh đất nước thống nhất, cả nước đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một Bộ
luật Hình sự hoàn chỉnh để đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới. Thực
tiễn công tác và áp dụng pháp luật hình sự từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho
đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự 1985 cho thấy các văn bản pháp luật Hình sự do
chính quyền cách mạng ban hành trước đó thường chỉ là những văn bản riêng lẻ, quy
định một nhóm tội hoặc trong một lĩnh vực nào đó.
Ngày 27 tháng 6 năm 1985, Bộ luật Hình sự đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, tại kì họp thứ 9 Quốc hội khóa 6 chính thức thông qua Bộ luật
Hình sự 1985 đã dành hẳn một chương quy định trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên phạm tội trong đó có Điều 58 quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định “Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý và người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”. Khoản 2 Điều 8 Bộ
luật Hình sự quy định “tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

16

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương



Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 5 năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình, những tội phạm khác là tội ít nghiêm trọng”.
Như vậy, dựa trên hai điều luật này Bộ luật Hình sự 1985 đã phân hóa trách nhiệm
hình sự dựa vào độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Nếu người phạm tội là người là người
đủ 16 tuổi trở lên thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội mà họ
thực hiện. Nếu họ là người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì họ chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự khi tội mà họ thực hiện là tội nghiêm trọng và được thực hiện với lỗi cố ý. Trong
trường hợp họ phạm tội với lỗi vô ý hoặc tội mà họ thực hiện là tội ít nghiêm trọng thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm
tội mặc dù là tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng với lỗi cố ý hay vô ý mà người
thực hiện hành vi phạm tội lại là người dưới 14 tuổi thì vấn đề trách nhiệm hình sự vẫn
không được đặt ra. Do đó, không áp dụng trách nhiệm hình sự đối với nhóm đối tượng
này.
1.4.5.

Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định trong Bộ luật

Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực.
Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân
dân ta và bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái
nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội
phạm diễn biến phức tạp. Trong tình hình đó, Bộ luật Hình sự năm 1985, dù đã được sửa
đổi bổ sung 4 lần, nhưng còn nhiều điểm bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung một

cách toàn diện, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới. Do đó, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật Hình sự năm 1985 là một đòi hỏi khách quan
của hoạt động lập pháp hình sự. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 21/12/1999, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua Bộ luật Hình
sự 1999 (sau này được sửa đổi bổ sung thêm năm 2009 nhưng người viết vẫn để là Bộ
luật Hình sự 1999 nhằm thống nhất mốc thời gian), thay thế cho Bộ luật Hình sự 1985, có
hiệu lực từ ngày 1/7/2000.
Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trước đây trong Bộ luật Hình sự năm
1985 để ở chương VII – Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội, nay
được quy định tại Điều 12 chương III – Tội phạm cho hợp lý hơn, vì đây là quy định về
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

17

SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


Luận văn tốt nghiệp

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam

độ tuổi của con người mà bắt đầu độ tuổi ấy, thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Bộ luật
Hình sự năm 1999 vẫn giữ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 14 tuổi, nhưng có sửa
đổi theo hướng nhẹ hơn“Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng”.
1.5. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số quốc gia trên thế giới
1.5.1.

Quy định cụ thể của pháp luật tại một số quốc gia


Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông
qua ngày 20/11/1989 có ghi nhận:“trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là
người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên, công ước này không thiết lập được một độ tuổi cụ thể
chung mà độ tuổi này được ghi nhận một cách khác nhau trong luật pháp của các quốc
gia khác nhau. Độ tuổi theo đó trẻ em bị coi là phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình
cũng thay đổi theo thời gian, và nó được phản ánh theo cách chúng được đối xử tại các
phiên toà của pháp luật.
Thời La Mã, trẻ em bị coi là không có lỗi về các tội phạm, một lập trường sau này
được Nhà thờ chấp nhận. Ở thế kỷ 19, trẻ em chưa tới bảy tuổi được cho là không phải
chịu trách nhiệm về mọi tội lỗi. Trẻ em từ bảy tuổi trở lên bị coi là phải chịu trách nhiệm
về các hành vi phạm tội. Vì thế, chúng có thể phải đối mặt với các trách nhiệm tội phạm,
bị gửi tới nhà tù của người lớn, và bị trừng trị như người lớn như đánh roi, đóng dấu ô
nhục hay treo cổ.
Tại Mỹ, độ tuổi của trách nhiệm hình sự được thành lập theo quy định của pháp luật
của từng tiểu bang. Chỉ có 13 tiểu bang đã thiết lập độ tuổi tối thiểu, khoảng từ 6 đến 12
tuổi (riêng ở North Carolina là 6 tuổi). Hầu hết các bang dựa vào luật Anh – Mỹ
(Common law), là từ 7 tuổi đến 14 tuổi.
Tại Nhật Bản, người phạm tội dưới 20 tuổi được xét xử tại một tòa án gia đình,
chứ không phải là trong hệ thống tòa án hình sự. Trong tất cả các nước Bắc Âu, tuổi trách
nhiệm hình sự là 15, và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi có thể đến một hệ thống tư pháp là
hướng chủ yếu đối với các dịch vụ xã hội, giam giữ như là phương sách cuối cùng. Tính
đến tháng 4 năm 1997, chỉ có 15 người chưa thành niên đang chấp hành hình phạt tù ở
Thụy Điển.
Ở Trung Quốc, trẻ em từ 14 đến 18 tuổi được xử lý bằng hệ thống tư pháp vị thành
niên và có thể bị kết án tù chung thân đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

18


SVTH: Nguyễn Ngọc Huỳnh Phương


×