Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.42 KB, 20 trang )

1

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự
theo Luật Hình sự Việt Nam
Theoretical and practical issues of ages bearing criminal responsibility in Vietnam Criminal Law
NXB H. : Khoa Luật, 2012 Số trang 111 tr. +
Trần Thị Hoàng Lan

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: GS.TS. Võ Khánh Vinh
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Phân tích các quy định của BLHS năm 1999 về chế định tuổi chịu TNHS trong
sự so sánh với quy định của một số nước trên thế giới, sự ảnh hưởng của lịch sử có dựa
trên các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm-sinh lý của con người trong
từng thời kỳ để từ đó đưa ra một số nhận xét có giá trị tham khảo cho các nhà làm luật Việt
Nam. Đánh giá thực tiễn áp dụng chế định tuổi chịu Trách nhiệm hình sự (TNHS), những
bất cập, vướng mắc và phân tích chúng trên cơ sở lý luận và thực tiễn. Đưa ra giải pháp
khắc phục và kiến giải nhằm hoàn thiện chế định tuổi chịu TNHS trong pháp luật hình sự
Việt Nam trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay và những dự báo trong tương lai.

Keywords: Luật hình sự; Trách nhiệm hình sự; Pháp luật Việt Nam; Tội phạm chưa thành
niên

Content
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Theo các kết quả nghiên cứu và thống kê mới của tội phạm học cho thấy rằng: tình hình tội
phạm ở nước ta trong những năm gần đây có gia tăng về số lượng, số vụ với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội cao, cũng như sự xuất hiện nhiều loại tội phạm mới trong điều kiện nền


kinh tế thị trường và toàn cầu hóa khu vực và thế giới. Tội phạm xảy ra do các chủ thể trải dài với
nhiều biên độ kéo dài từ thấp đến cao của độ tuổi, nhiều vùng miền khác nhau và ở những người
có trình độ văn hoá khác nhau. Đặc biệt, một vấn đề nóng hổi hiện nay đó là tội phạm do lứa tuổi
chthành viên thực hiện (nói cách khác là hiện tượng “trẻ hóa tội phạm”) trong xã hội ngày một gia
tăng, độ tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội ngày càng giảm và ở mức thấp trung bình từ
14 đến 18 tuổi, thậm chí dưới độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) với các hành vi phạm tội
manh động, liều lĩnh, hung bạo và tàn ác, cũng như mức độ gây nguy hiểm cho xã hội đặc biệt
nghiêm trọng.
Theo thống kê trong các báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao cho thấy
con số người chưa thành niên bị xét xử trong thời gian qua như sau: năm 2000 là 3.906 bị cáo,
năm 2001 là 3.441 bị cáo, năm 2002 con số này là 3.139 bị cáo, năm 2003 là 3.994 bị cáo, năm
2004 là 2.540 bị cáo, năm 2005 là 4.599 bị cáo và càng những năm gần đây (2006-2009), con số
2

này càng tăng nhanh hơn. Số lượng bị cáo chưa thành niên xét xử hàng năm dao động từ 6,5% đến
6,8% trên tổng số bị cáo. Nếu từ những năm 1990 trở về trước, hành vi phạm tội của người chưa
thành niên thường là những hành vi đơn giản, ít nghiêm trọng, phạm tội do hoàn cảnh, không gây
ảnh hưởng đến trật tự an xã hội, đến cơ cấu gia đình và thuần phong mỹ tục của dân tộc, thì những
năm 1999 trở lại đây, hành vi phạm tội của người chưa thành niên thường là rất nghiêm trọng,
cướp tài sản, hiếp dâm, giết người Ví dụ, năm 1998, Tòa án nhân dân xử 4.022 bị cáo chưa
thành niên nhưng có đến 114 bị cáo phạm tội cướp tài sản, 183 bị cáo phạm tội hiếp dâm và đến
năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 con số này tăng lên gần gấp đôi.
Cũng theo số liệu thống kê của Cục cảnh sát điều tra tội phạm hình sự (Bộ Công an), chỉ
riêng trong 5 năm (2000-2005) thực hiện Đề án Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em
và tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên thuộc Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, đã
phát hiện 47.000 vụ phạm pháp hình sự do 64.500 em vị thành niên gây ra; trung bình hàng năm
chiếm 1/4 tổng số vụ phạm pháp hình sự trên toàn quốc. Trong đó đối tượng dưới 14 tuổi chiếm
13%, từ 14 đến 16 tuổi chiếm 34,7%, từ 16 đến 18 tuổi chiếm 52%. Từ năm 2005 đến nay, tình
hình phạm tội ở lứa tuổi thành niên đang có dấu hiệu ngày càng cao hơn, cả về mức độ lẫn sự
nghiêm trọng của các vụ án. Chỉ trong năm 2006, riêng trẻ em dưới 14 tuổi có gần 8.000 vụ vi

phạm pháp luật, chiếm đến 70% tội phạm vị thành niên và năm 2007, 2008 thì trung bình cũng
chiếm hơn 8.100 vụ vi phạm pháp luật. Con số này là một lời cảnh báo về tình trạng trẻ em nhỏ
tuổi phạm tội. Ngoài ra, một vấn đề cũng đáng lo ngại là cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước, thời gian gần đây (hầu hết là ở những thành phố lớn, nơi đô thị có điều kiện kinh tế xã
hội phát triển) đã nổi lên tình trạng một số thanh niên, học sinh, sinh viên, độ tuổi từ 14 đến 18, tụ
tập ăn chơi thác loạn hoặc hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức, tổ chức các vụ đánh
nhau, cướp giật, giết người, sử dụng ma tuý hết sức nghiêm trọng, gây xôn xao dư luận mà các
phương tiện thông tin đại chúng đã thường xuyên đăng tải.
Những con số trên cho thấy tội phạm chưa thành niên diễn biến khá phức tạp, có nhiều
hướng gia tăng và ngày càng nguy hiểm. Đặc biệt, cũng cần chú ý đến hiện tượng phạm tội ở
những người cao tuổi đang tăng dần. Nguyên nhân của những hiện tượng nêu trên bắt nguồn từ
tính chất và đặc biệt của sự phát triển kinh tế - xã hội và theo đó là các điều kiện tương ứng văn
hóa, giáo dục, đạo đức, lối sống. Bên cạnh đó, Việt nam cũng là một nước đang phát triển. Do đó,
ngoài tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật, văn hóa tinh hoa nhân loại nhiều chiều với nhiều
màu sắc, mở rộng giao lưu với các nền văn minh thế giới trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa,
bên cạnh đó là sự tồn tại của nền văn hóa truyền thống với nhiều tư tưởng, tập quán đậm đà bản
sắc dân tộc những cũng không thiếu những hủ tục phong kiến, lạc hậu. Với sự thay đổi diễn ra
trong các quy chuẩn lối sống, đạo đức, giá trị trực tiếp tác động đến cơ chế hành vi, tạo ra tình thế
khi mà trong cùng một môi trường nhưng đa số thì tuân theo pháp luật, nhưng một số người đã vi
phạm pháp luật và phạm tội. Cộng hưởng với các vấn đề này còn là sự thiếu ý thức của con người,
một số yếu kém trong giáo dục, đào tạo, sự đua đòi theo nếp sống phương Tây không lành mạnh,
3

sự sa sút đạo đức con người, sự thiếu vắng tình cảm gia đình, con người chạy theo sức hút đồng tiền
và đặc biệt là hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, không đủ sức mạnh để hướng con người theo những
chuẩn mực và giá trị chung.
Vấn đề trẻ hóa độ tuổi phạm tội cũng như hiện tượng phạm tội ở những người cao tuổi đặt
ra cho nhiều ngành khoa học (tâm lý - xã hội học, luật tố tụng hình sự… ) đặc biệt là luật hình sự
nên chăng có sự điều chỉnh về độ tuổi chịu TNHS khi độ tuổi của những người thực hiện hành vi
phạm tội ngày càng thấp hoặc là quá cao so với trước đây. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng Bộ luật hình

sự (BLHS) năm 1999 cho thấy việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự (PLHS) về độ tuổi
chịu TNHS còn nhiều bất cập, tồn tại và dẫn đến vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Công việc
xác định tuổi của bị can, bị cáo cũng như người bị hại còn nhiều khó khăn. Hiện nay, chưa có văn
bản cụ thể nào hướng dẫn chi tiết về việc xác định tuổi và áp dụng các quy định về tuổi đối với
người phạm tội. Ngoài ra, trong xã hội thực trạng làm giả giấy tờ, giấy tờ không thống nhất hoặc
không có giấy tờ để xác minh tuổi của người phạm tội ngày càng phổ biến với nhiều lý do khác
nhau, làm cho công tác điều tra, truy tố và xét xử gặp nhiều khó khăn, đặc biệt đối với những trường
hợp người phạm tội là người chưa thành niên. Đặc biệt, việc áp dụng tuổi chịu TNHS ở nhiều nơi, ở
từng thời kỳ còn chưa thật thống nhất. Ngoài ra, điều kiện kinh tế mỗi vùng miền ở mỗi thời điểm là
khác nhau, do đó không thể giống nhau. BLHS năm 1999 quy định có phần sơ sài về tuổi chịu TNHS,
đồng nhất mọi cá thể ở các điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau trong cùng một độ tuổi, nhất là chủ thể
đặc biệt với dấu hiệu độ tuổi chịu TNHS còn thiếu quy phạm trong Phần chung của Bộ luật hay định
nghĩa lập pháp về tuổi và độ tuổi, về căn cứ xác định tuổi của người phạm tội dẫn đến việc hiểu và áp
dụng chưa thống nhất đòi hỏi cần phải hoàn thiện về mặt lập pháp.
Một vấn đề nữa đó là loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người cao tuổi chưa được đề cập đến
trong Bộ luật. Khía cạnh này chỉ được đề cập đến như một tình tiết (dấu hiệu) miễn giảm TNHS hoặc
hình phạt. Nếu đến một độ tuổi nhất định con người mới có khả năng nhận thức về điều khiển được
hành vi của mình, thì theo thời gian đến một độ tuổi nhất định, sự già yếu và bệnh tật, sẽ làm giảm đi
trí nhớ, sự minh mẫn, khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi đó. Do đó, nên chăng việc quy
định độ tuổi tối đa phải chịu TNHS (ví dụ như BLHS của Liên bang Nga có điều chỉnh vấn đề này,
không áp dụng hình phạt tử hình đối với người già từ 65 tuổi trở lên).
Do đó, từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam” làm
đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho tới thời điểm này, chế định tuổi chịu TNHS, mặc dù là một trong những chế định
quan trọng trong BLHS, những vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đáng kể. Đề tài này
chủ yếu được đề cập đến như một phần nhỏ trong các bài viết, khóa luận, luận văn về tội phạm và
cấu thành tội phạm, chủ thể của tội phạm hay nhân thân người phạm tội, hoặc trong các công trình
4


nghiên cứu về người chưa thành niên phạm tội. Các nghiên cứu khoa học khác cũng rất ít đề cập
đến việc nghiên cứu về tuổi hay cách xác định tuổi của con người trong mối quan hệ với TNHS.
Tuy nhiên, cũng có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: 1) Sách chuyên khảo
Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung) của GS.TSKH. Lê
Văn Cảm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2)Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (sửa đổi và
bổ sung) của GS.TS. Võ Khánh Vinh, NXB Công an nhân dân; 3) Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự 1999 – Phần chung, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 của ThS. Đinh Văn Quế; 4) Tội
phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2006 của GS.TS. Nguyễn Ngọc
Hòa; 5) Luận văn thạc sĩ luật học “Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Lê Đăng Doanh, Trường đại học Luật Hà Nội, 1999…
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan đến tuổi chịu TNHS, ví
dụ như: Nhân thân người phạm tội với việc quyết định hình phạt của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Thuỷ; bài về Xác định tuổi của người chưa thành niên như thế nào cho đúng? của tác giả Lưu
Đình Nghĩa; Nhân thân người phạm tội - Một số vấn đề lý luận cơ bản của TSKH. PGS. Lê Cảm;
Tiếp tục hoàn thiện những quy định của BLHS trước yêu cầu mới của đất nước của tác giả Trịnh
Tiến Việt… đã được đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân và Tạp chí Kiểm sát.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Tuổi chịu TNHS là một trong những dấu hiệu quan trọng thuộc chủ thể của tội phạm của
cấu thành tội phạm và là đặc điểm thiết yếu thuộc về nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu tuổi
chịu TNHS có ý nghĩa to lớn trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, dựa trên đặc điểm về
tâm lý độ tuổi.
Tuổi của người phạm tội là dấu hiệu cho phép xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm, ảnh hưởng của độ tuổi đến việc thực hiện tội phạm, mà nó còn là dấu hiệu
mang tính chất pháp lý có ý nghĩa quan trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Tuổi
chịu TNHS là vấn đề vô cùng quan trọng khi người phạm tội là người chưa thành niên, nó liên
quan đến vấn đề có TNHS hay không. Vì vậy, khi nghiên cứu về chế định này, cần phải giải quyết
được một số vấn đề sau:
1) Phân tích các quy định của BLHS năm 1999 về chế định tuổi chịu TNHS trong sự so
sánh với quy định của một số nước trên thế giới, sự ảnh hưởng của lịch sử có dựa trên các điều

kiện phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm-sinh lý của con người trong từng thời kỳ để từ đó
đưa ra một số nhận xét có giá trị tham khảo cho các nhà làm luật Việt Nam.
2) Đánh giá thực tiễn áp dụng chế định tuổi chịu TNHS, những bất cập, vướng mắc và
phân tích chúng trên cơ sở lý luận và thực tiễn.
3) Đưa ra giải pháp khắc phục và kiến giải nhằm hoàn thiện chế định tuổi chịu TNHS
trong pháp luật hình sự Việt Nam trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và những dự báo trong
tương lai.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn.
5

Đề tài này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước với phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch
sử và phép biện chứng duy vật.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật hình sự, luật
tố tụng hình sự và tội phạm học như: phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu,
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê hình sự để tổng
hợp các tri thức khoa học luật và những vấn đề cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học - thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng thể hiện ở chỗ đây sẽ là đề tài đề cập
tương đối đầy đủ và tương đối hệ thống đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học phân tích và
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích chế định tuổi chịu TNHS trong sự so sánh với quy
định của một số nước trên thế giới, sự ảnh hưởng của lịch sử có dựa trên các điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm sinh lý của con người qua từng thời kỳ. Đồng thời, đánh giá tiễn
áp dụng chế định tuổi chịu TNHS, những bất cập, vướng mắc và phân tích chúng qua các vụ án cụ
thể. Từ đó, luận văn đưa ra giải pháp khắc phục và kiến giải nhằm hoàn thiện chế định tuổi chịu
TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ lập pháp hình sự và thực tiễn áp dụng.
Luận văn có giá trị là tư liệu tham khảo cho các nhà lập pháp-hoạch định chính sách, các
nhà tâm lý-xã hội học, các nhà khoa học-thực tiễn, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh
chuyên ngành luật hình sự

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba chương
chính với nội dung:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự ở Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật
hình sự Việt Nam.

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tuổi chịu TNHS
1.1.1. Khái niệm tuổi chịu TNHS
Theo Đại từ điển Tiếng Việt – NXB Văn hóa thông tin năm 1998 tr.1750 thì tuổi là: “Năm,
dùng làm đơn vị tính thời gian sống của người, là khoảng thời gian từ khi sinh ra đến thời điểm
xác định nào đó”.
6

Trách nhiệm hình sự là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí
bất lợi về hành vi phạm tội của mình”
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là yếu tố không thể thiếu trong quá trình xem xét truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một người.
Trên cơ sở phân tích về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như trên, có thể rút ra định nghĩa về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ tuổi được luật hình sự
quy định nhằm xác định khi một người phát triển đến độ tuổi đó mới có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự hoặc loại trách nhiệm, mức trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do mình gây ra
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tuổi chịu TNHS
1.1.2.1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự do luật hình sự quy định
Mỗi ngành luật có cách xác định khác nhau về dộ tuổi. Chính vì vậy, về nguyên tắc, khi xác

định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, chúng ta cần căn cứ vào những quy định của luật hình sự mà
không viện dẫn các quy định của các ngành luật khác.
1.1.2.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là tuổi tròn
Tại điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đều quy định:
“người từ đủ 16 tuổi ” và “người từ đủ 14 tuổi”. Cách tính tuổi tròn được xác định bằng cách lấy
ngày sinh nhật gần nhất của người đó để tính.
1.1.2.3. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự tính từ thời điểm người đó sinh ra đến thời điển
người đó thực hiện hành vi phạm tội
Thời điểm đầu để xác định tuổi của người phạm tội là ngày người đó được sinh ra.
Thời điểm sau để xác định độ tuổi đó là thời điểm hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện.
1.2. Cơ sở khoa học và thực tiễn của việc quy định tuổi chịu TNHS trong luật hình sự
Việt Nam
1.2.1. Cơ sở tâm sinh lý học
Triết học Mác-Lênin thừa nhận sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp. Đó là một quá trình tích lũy dần về số lượng, dẫn đến sự thay đổi về
chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
nằm ngay trong bản than các sự vật, hiện tương.
Nguyên lí này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm sinh lí cong người. Bản chất của
sự phát triển tâm sinh lý con người không phải chỉ là sự tăng hay giảm về số lượng mà là một quá
trình biến đổi về chất trong tâm sinh lý, sự thay đổi về lượng của các chức năng tâm lí dẫn đến sự
thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt. Sự phát triển tâm lý gắn liền
với sự xuất hiện những những đặc điểm mới về chất - những cấu tạo tâm sinh lý mới ở những giai
đoạn lứa tuổi nhất định
Sự phát triển tâm sinh lý là một quá trình kế thừa. Bất cứ một mức độ nào của trình độ trước
cũng là sự chuẩn bị cho trình độ sau. Yếu tố tâm sinh lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, chuẩn bị cho tâm
sinh lý sau chuyển sang vị trí chủ yếu.
7

Căn cứ vào những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của con người, căn cứ
vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lí và cả sự trưởng thành cơ thể của con người, người ta chia

ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm sinh lý của con người.
Mỗi thời kì có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chuyển từ đứa trẻ mới sinh sang
một nhân cách trưởng thành. Một thời kì phát triển có nét tâm sinh lý đặc trưng của mình, mà đứa
trẻ phải trải qua. Sự chuyển từ thời kì này sang thời kì khác bao giờ cũng gắng với sự xuất hiện
những cấu tạo tâm sinh lý mới về chất.
Đến 18 tuổi thì các bộ phận và các hệ của con người cơ bản đã phát triển hoàn chính, con
người phát triển bình thường có thể hoàn toàn tự chủ trong việc thực hiện hành vi của mình cả về
lý trí, ý chí lẫn xử sự trên thực tế.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm là cơ sở thực tiễn để xác định và quy định độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự.
Ở nước ta, trong các giai đoạn phát triển khác nhau, cũng xuất phát từ chính sách hình sự và
xác định khách thể bảo vệ khác nhau mà tuội chịu trách nhiệm hình sự cũng khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, từ thực tiễn đấu tranh đối với những hành vi xâm phạm khác thể
bảo vệ luật hình sự cho thấy, người từ dưới 14 tuổi thực hiện hành vi xâm phạm vào quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ là rất ít. Từ thực tiễn đó cho nên luật hình sự Việt Nam hiện hành xác
định người dưới 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về bất kỳ hành vi nguy hiểm nào do
họ gây ra.
Lứa tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi là lứa tuổi đã hình thành cơ bàn về nhân cách, các xử sự
của họ đã thể hiện tính độc lập cao hơn rất nhiều so với lứa tuổi dưới 14. Vì vậy, trách nhiệm hình
sự đối với lứa tuổi này cũng chỉ được xác định trong những trường hợp nhất định.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng cho thấy những người từ 16 tuổi trở lên là
lứa tuổi phổ biến nhất thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm và các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ. Vì vậy pháp lật hình sự nước ta mới xác định từ lứa tuổi này trở lên họ
phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm do họ gây ra.
Tóm lại để xác định các vấn đề liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luạt hình
sự, các nhà làm luật cần phải căn cứ vào cả hai yếu tố là cơ sở tâm sinh lý học và cơ sở thực tiễn
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
1.2.3. Mối quan hệ giữa tuổi chịu TNHS với năng lực TNHS và với chủ thể của tội phạm
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi

họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm hình sự có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau.
Luật hình sự các quốc gia dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát tâm lí
cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của mình đã quy định độ tuổi bắt đầu có năng lực chịu
8

trách nhiệm hình sự và độ tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, mức tuổi cụ thể của tuổi
bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ được xác
định ở mỗi quốc gia và có thể ở mỗi thời gian nhất định trong các quốc gia không giống nhau.
Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có thể là con người cụ thể.
Nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi được quy
định trong luật hình sự.Một trong những điều kiện để có thể trở thành chủ thể của tội phạm là đạt
đến độ tuổi nhất định.
1.3. Những quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam
1.3.1. Thời kỳ phong kiến
Sự hình thành Nhà nước trong lịch sử Việt Nam được bắt đầu từ thời Hùng Vương xây dựng
Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Cho đến Giai đoạn thời kỳ Nhà Hồ, do Giai đoạn Nhà minh đô hộ
nước ta, với chủ trương đồng hóa, Tất cả các tư liệu lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam
trong giai đoạn này đều bị chúng đưa về Trung Quốc hoặc đốt tiêu hủy, nên không còn nhiều tài
liệu cho phép tìm hiểu cụ thể và đánh giá đầy đủ các quy định về tuổi liên quan đến trách nhiệm
hình sự trong giai đoạn này.
Thế kỷ XV, là thời kỳ nhà Lê, sau chiến thắng của Lê Lợi chống quân xâm lược nhà Minh,
Nhà nước Việt Nam thời kỳ đó phát triển thành Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền.
Trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ, đến thời Lê
Thánh Tông đã xây xong Bộ Luật Hồng Đức, thường được gọi là Bộ Quốc Triều Hình Luật gồm 6
quyển, 13 chương với 722 điều luật.
Trong Bộ luật Hồng Đức chứa đựng nhiều quy định liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm
hình sự, như có nhiều quy định bênh vực quyền lợi trẻ em, người già.
Từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVIII là thời kỳ nội chiến, thời kỳ phân chia cát cứ quản

lý Đàng trong, Đàng ngoài và thống nhất đất nước bằng cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do ba anh em
nhà Nguyễn lập lên triều đại Tây Sơn của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ. Thời kỳ này, về
cơ bản Bộ Luật Hồng Đức vẫn được sử dụng nhất là phần hình sự, có bổ sung một số lĩnh vực
kinh tế, tài chính
Trong thời gian thế kỷ XIX, Nhà Nguyễn ánh trị vì đất nước, việc xây dựng pháp luật được
quan tâm đặc biệt. Năm 1815, Bộ Hoàng Triều Luật lệ (thường được gọi là Bộ Luật Gia Long)
được xây dựng trên cơ sở Bộ Luật Hồng Đức và Luật lệ Đại Thanh (Trung Quốc). Trong Hoàng
Triều Luật lệ, phần hình sự được cấu tạo tương tự như Bộ Luật Hồng Đức. Nhưng diện trừng trị
của Hoàng Triều Luật lệ mở rộng hơn, đặc biệt là nguyên tắc tập thể chịu hình phạt được áp dụng
đối với tội quan trọng xâm phạm vào lợi ích Nhà nước, lợi ích của nhà vua.
Trong suốt thời gian từ 1858 đến 1945 thực dân Pháp đã thiết lập chính quyền thuộc địa ở
Việt Nam. Đây là thời kỳ, ở nước ta cùng lúc sử dụng hai loại Luật hình. Luật hình sự của Pháp áp
dụng cho người Pháp và người nước ngoài phạm tội ở Việt nam. Luật hình sự của Nhà Nguyễn áp
dụng cho người bản xứ.
9



1.3.2. Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 cho đến trước pháp điển hóa lần thứ
nhất - BLHS năm 1985
Sự hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung
từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/9/1945).
Trong những ngày đầu mới thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 cho phép áp dụng một số văn bản pháp luật của đế quốc phong kiến, với điều kiện
không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa. Do ba vùng Bắc,
Trung, Nam áp dụng ba Bộ luật hình sự khác nhau cho nên việc xử lý tội phạm ở ba vùng cũng
không thống nhất. Điều này là không phù hợp với chính thể cộng hòa, chính vì vậy việc ban hành
các văn bản pháp luật là một đòi hỏi khách quan. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa dã ban
hành nhiều văn bản pháp luật tay thế, trong đó có nhiều văn bản quy định liên quan đến tuổi chịu

trách nhiệm hình sự như Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5-1950, Nghị định 181/NV-6 ngày 12-6-1951
của Liên Bộ Nội vụ- Tư pháp, Chỉ thị số 46/TH ngày 14-1-1969 của Tòa án nhân dân tối cao
Nhìn chung, pháp luật trong giai đoạn này còn thiếu nhiều, chủ yếu xét xử theo án lệ thông qua
công tác tổng kết và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Thông qua sự hướng dẫn đó cũng đã
thống nhất được một số nội dung liên quan đến xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Về nguyên
tắc, từ 14 tuổi tròn trở lên coi là có trách nhiệm về mặt hình sự. Đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì
chỉ nên truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng như giết người, cướp
của, hiếp dâm
Ở các tỉnh phía Nam, Chính phủ Việt Nam cộng hòa (ngụy quyền Sài Gòn) đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật, đặc biệt là Bộ hình luật ngày 20 tháng chạp năm 1972. Bộ luật đã quy
định cụ thể về tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng như chính sách áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội.
Ngày 30-4-1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Để hàn gắn vết
thương chiến tranh, lập lại trật tự xã hội, việc thống nhất pháp luật cũ và xây dựng pháp luật mới
là nhiệm vụ cấp bách. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong giai đoạn này không có điểm gì
mới. Giai đoạn này, các nhà làm luật cũng đã tổng kết thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm ở Việt Nam, tham khảo Bộ luật hình sự của các nước trên thế giới để dự thảo Bộ luật
hình sự năm 1985.
1.3.3. Những quy định BLHS năm 1985
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời và qua bốn lần sửa đổi, bổ sung vào các ngày 28-12-1989;
12-8-1991; 22-12-1992; 10-5-1997 là công cụ quan trọng góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
10

Trên cơ sở căn cứ khoa học cũng như từ thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
có thể nói Bộ luật hình sự 1985 đã có một bước phát triển vượt bậc thể hiện trình độ cũng như kỹ
thuật lập pháp của nước ta. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 58:
“Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
1- Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải trách nhiệm hình sự về những tội
phạm nghiêm trọng do cố ý.

2- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.”
Thống nhất cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự được hướng dẫn chi tiết tại nội dung A,
mục IX trong Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05-01-1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.
1.4. Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tuổi chịu trách
nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng
1.4.1. Những quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Phần chung BLHS năm 1999
Tiếp tục kế thừa, hoàn thiện và bổ sung những quy định trong BLHS 1985 kết hợp với thực
tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, theo đó tại Điều 12 BLHS 1999 quy định tuổi chịu
trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Sau khi BLHS 1999 được ban hành trước khi chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vẫn áp dụng
cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự được hướng dẫn chi tiết tại nội dung A, mục IX trong
Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05-01-1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự như đã trình bày ở phần trên.
Ngoài quy định tại Điều 12, trong phần chung BLHS 1999 còn chứa đựng những quy định
khác bao hàm nội dung tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể về đường lối xử lý người chưa thành
niên phạm tội được quy định tại chương X của BLHS 1999.
Như vậy có thể phần chung của BLHS 1999 đã quy định cụ thể tuổi chịu trách nhiệm hình
sự, đồng thời quy định những vấn đề liên quan đến giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
1.4.2. Những quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Phần các tội phạm BLHS
năm 1999
Phần tội phạm cụ thể trong BLHS 1999 bao gồm 276 điều luật với 272 điều luật quy định về các
tội phạm và 4 điều luật khác (Điều 92, Điều 277, Điều 292, Điều 315). Phần lớn các điều luật đều
không quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự cụ thể, tức là chỉ cần đạt độ tuổi theo theo quy định tại
phần chung, cụ thể tại điều 12: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm và người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố

ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong BLHS 1999 có 104/272 điều luật quy định tội phạm cụ
11

thể mà chủ thể chỉ có thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên, bên cạnh đó cũng có những tội danh mà người
thực hiện chỉ cần đủ 14 tuổi trở lên. Ngoài ra trong phần này, cũng cố mốt số nhóm tội hoặc tội phạm
cụ thể coa quy định riêng về tuổi chị trách nhiệm hình sự.
12

CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Tình hình vi phạm pháp luật hình sự ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay
2.1.1. Cơ cấu tội phạm xác định theo lứa tuổi của chủ thể tội phạm
Nghiên cứu tình hình tội phạm ở nước ta từ năm 2006 đến nay cho thấy, biên độ tuổi của
người phạm tội ngày càng rộng, tính chất tội phạm của những người dưới 16 tuổi và những
người trên 70 tuổi ngày càng nghiêm trọng. Nếu xét về cơ cấu độ tuổi, nghiên cứu thực tiễn từ
năm 2006 đến nay cho thấy, người phạm tội có độ tuổi từ 14 tuổi đến 82 tuổi.
Đối với người chưa thành niên, Tình hình phạm tội do những đối tượng này gây ra trong
thời gian gần đây có chiều hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về tội danh và mực độ
nghiêm trọng cho xã hội.
Độ tuổi từ 18 tuổi đến dưới 70 tuổi là độ tuổi phổ biến của người phạm tội và chiếm 96%
tội phạm đã xảy ra từ năm 2006 đến nay cũng như hàng năm.
Độ tuổi tiếp theo chúng ta cần xem xét trên thực tiễn là người phạm tội từ 70 tuổi trở lên.
Trong những năm qua, tội phạm do người từ 70 tuổi trở lên thực hiện có chiều hướng gia tăng.
Các tội phạm do những người này thực hiện là các tội phạm có tính chất vụ lợi như trộm cắp tài
sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đánh bạc. mua bán trái phép chất ma túy
2.1.2. Tình hình vi phạm pháp luật xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do tác động của yếu tố độ tuổi
Đối tượng mà tác giả đề cập đến ở đây chính là những người đã thực hiện các hành vi nguy

hiểm cho xã hội xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng hành vi của họ
không bị coi là tội phạm vì họ chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Xét về cơ cấu thì chúng ta phải đánh giá tình trạng của tất cả những người từ dưới 14 tuổi
thực hiện hành vi phạm phạm tội và nhưng người từ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi
phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý. Do không có số liệu
thống kê của các cơ quan chức năng nên không thể đánh giá hết mà tác giả chỉ có thể phân tích
thông qua số liệu các đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã,
phường thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng do chưa đủ tuổi chịu TNHS. Nghiên cứu cho thấy,
sự trẻ hóa của hành vi phạm tội đã làm cho Nhà nước và cả xã hội quan tâm.
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong thời gian qua
2.2.1. Về cách tính tuổi
Nhìn chung, từ khi luật hình sự được pháp điển hóa thành bộ luật đến nay, cách tính tuổi
đã có sự thống nhất theo quy định của Bộ luật hình sự. Nghiên cứu quá trình áp dụng pháp
luật hình sự từ năm 2006 đến nay cho thấy, các cơ qua tiến hành tố tụng hình sự, người tiến
hành tố tụng đã nhận thức rõ về các quy định tuổi trong Bộ luật hình sự, các quy định về độ
13

tuổi đã được thi hành cơ bản đúng yêu cầu. Tuy nhiên vẫn có những sai lầm nhất định. Mặc dù
không còn phổ biến, nhưng cách tính tuổi để xác định trách nhiệm hình sự vẫn còn những trường
hợp chưa thực hiện đúng quy định của BLHS và chưa đúng tinh thần có lợi cho đương sự.
2.2.2. Về thời điểm tính tuổi
Về nguyên tắc, xác định năng lực của chủ thể là xác định vào thời điểm thực hiện hành vi. Tuy
nhiên, xung quanh vấn đề này, trong thực tiễn xuất hiện các tình huống dẫn đến có các quan điểm
khác nhau khi xác định độ tuổi. Điều này đỏi hỏi phải có quan điểm thống nhất về vấn đề này.
2.2.3. Căn cứ xác định tuổi
Nghiên cứu cách tính tuổi của người phạm tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự cho
thấy, hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc lấy căn cứ nào, ưu tiên căn cứ nào để xác định
tuổi. Hơn nữa thực tiễn xã hội Việt Nam cũng gây khó khăn không ít cho việc xác định tuổi trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
2.3. Đánh giá việc áp dụng các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong thời gian qua

2.3.1. Thuận lợi
- Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch đã từng bước chuẩn hóa trình tự, thủ tục và
căn cứ áp dụng .
- Các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng được hoàn thiện, các yêu cầu về mặt pháp lý của hồ
sơ các vụ án ngày các chặt chẽ.
- Người dân ngày càng nâng cao ý thức trong việc đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, làm chứng minh
thư nhân dân.
- Công nghệ thông tin phát triển, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có thể nhanh chóng có được
thông tin để xác định độ tuổi.
2.3.2. Khó khăn
- Hệ thống pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, tính phù hợp cũng như kỹ thuật lập pháp.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về hộ tịch, hộ khẩu nhiều nơi, đặc biệt là những vùng nông
thôn vẫn chưa nhận thức đầy đủ về giá trị của các loại giấy tờ mà mình có trách nhiệm cấp cho công
dân, dẫn đến việc cấp tùy tiện không theo đúng trình tự thủ tục, không có căn cứ.
- Trong hoạt động giải quyết các va hình sự, một số người tiến hành tố tụng chưa nhận thức đầy
đủ ý nghĩa của việc xác định tuổi với trách nhiệm hình sự họ phải gánh chịu nên xem nhẹ vấn đề xác
định tuổi.
- Một vấn đề khó khăn nữa là hiện nay vẫn tồn tại nhiều nơi là người dân không đăng ký khai
sinh, không đăng ký cứ trú, không làm chứng minh nhân dân nên họ hầu như không có bất kỳ loại
giấy tờ gì để chứng minh tuổi của họ.
2.3.3. Tác động xã hội của vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong thời gian qua
Tình trạng tội phạm do các lứa tuổi khác nhau gây ra trong thời gian qua và trách nhiệm
hình sự họ phải gánh chịu có tác động rất lớn đến xã hội trong thời gian qua.
14

Trước hết là tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Do sự không tương xứng giữa
hậu quả cho xã hội do họ gây ra và trách nhiệm hình sự họ phải gánh chịu nên xã hội đã có
những phản ứng với những quy định hiện hành của pháp luật hình sự nhà nước ta và đã đặt ra
vấn đề cần thay đổi chính sách hình sự đối với người chưa thành niên, nếu không sẽ tạo thành

một hiệu ứng tiêu cực trong xã hội đối với lứa tuổi này.
Bên cạnh đó, một bộ phận trong xã hội vẫn cho rằng việc người chưa thành niên phạm
tội vẫn là cá biệt, đặc biệt là lứa tuổi từ 14 đến dưới 15, thậm chí là dưới 16 vẫn chưa hoàn
chỉnh về phát triển nhân cách, tâm sinh lý và trình độ hiểu biết xã hội, cho nên cần có các biện
pháp để giáo dục họ mà không năng về trừng phạt như hiện nay.

CHƢƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TUỔI
CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự
3.1.1. Xu hướng độ tuổi của những người thực hiện hành xâm phạm vào các quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ trong thời gian tới
“Tội phạm được trẻ hóa” – đó là vấn đề được các phương tiện thông tin đại chúng đề
cập đến rất nhiều.
3.1.2. Xu hướng xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự của các nước trên thế giới.
Nhìn chung, trên thế giới đang có sự xung đột giữa vấn đề nhân quyền và vấn để đảm
bảo thực tiễn trật tự xã hội, nên vẫn đang có hai xu hướng là tăng tuổi chịu trách nhiệm hình
sự và giảm tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
3.1.3. Các yếu tố khác tác động đến vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Bên cạnh những yếu tố tác động đến nội dung của chế định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự trong thời gian tới, một số yếu tố khác tác động đến luật hình thức trong vấn đề xác định
độ tuổi các yếu tố này bao gồm:
- Tình trạng một bộ phận dân cư không đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, không làm chứng
minh nhân dân vẫn còn phổ biến; Người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam ngày càng
tăng; Vẫn còn tồn tại một bộ phận các bộ công chức còn non kém về nghiệp vụ hoặc bị thoái
hóa sẽ làm sai lệch các thông tin tuổi của đương sự; khoa học công nghệ tiếp tục phát triển, là
điều kiện thuận lợi cho việc xác định chính xác độ tuổi.
3.2. Các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện những quy định của PLHS Việt Nam hiện
hành về tuổi chịu TNHS
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung BLHS Việt Nam năm 1999

Mặc dù mới có hiệu lực hơn 10 năm và dã được sửa dổi một lần vào năm 2009, nhưng
những thiếu sót của Bộ luật hình sự liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu xuất
15

phát từ kỹ thuật lập pháp, một số ít là do sự thay đổi của tình hình thực tiễn. Để hoàn thiện
tác giả đề xuất cần sửa đổi những vấn đề sau trong Bộ luật hình sự:
3.2.1.1.Cần sửa đổi để thống nhất giữ phần chung và phần các tội phạm về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự
3.2.1.2. Cần giải thích cụ thể và xác định độ tuổi các thuật ngữ liên quan đến xác định
độ tuổi như: trẻ em, người chưa thành niên, người già
Hiện nay các thuật ngữ này được dùng nhiều trong Bộ luật hình sự, tuy nhiên do sử
dụng không đồng nhất trong các điều luật nên nên cần phải giải thịch cụ thể.
3.2.1.3. Cần xác định cụ thể độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong một số tội phạm cụ thể
Hiện nay, trong một số tộ phạm cụ thể, do không quy định cụ thể độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự, nhưng trong các thông tư hướng dẫn lại đưa ra độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Xét
về nội dung là phù hợp, Nhưng xét về kỹ thuật lập pháp và giá trị pháp lý thì không bảo đảm.
3.2.1.4. Xem xét điều chỉnh loại và mức trách nhiệm hình sự cho các lứa tuổi
Hiện nay, do tình trạng người chưa thành niên phạm tội và thậm chí là người dưới 14
tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng về
số lượng và tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi như đã phân tích trong phần thực trạng.
Qua nghiên cứu tác giả cho rằng, có thể nghiên cứu để xem xét việc giảm tuổi tối thiểu
chịu trách nhiệm hình sự.
Về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên, để đảm bảo tính răn đe và tác giả
kiến nghị trong thời gian tới cần nâng mức hình phạt tù đối với người từ đủ 16 đến dưới 18
tuổi lên đến 30 năm tù. Tuy nhiên, trong chính sách giảm hình phạt đã tuyên cần có quy định
riêng cho với lứa tuổi này sớm hơn so với người đã thành niên.
3.2.2.

Xây dựng cơ sở pháp lý phục vụ công tác xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự
3.2.2.1.


Những vấn đề trước mắt cần tiến hành để giải quyết những vấn đề của thực tiễn
hiện nay
-

Ban hành văn bản quy định cụ thể giá trị pháp lý của các loại giấy tờ được sử dụng để xác
định tuổi.
-

Sửa đổi quy định hiện hành về xác định tuổi của đương sự trong trường hợp không có căn
cứ cụ thể để xác định
- Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp mã số cá nhân cho mỗi công dân

3.2.3.

Nâng cao trình độ các bộ công chức làm công tác đăng ký quản lý hộ tịch, hộ
khẩu và người tiến hành tố tụng
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng bộ tư pháp- hộ tịch
Tác giả kiến nghị cần xây dựng và chuẩn hóa chức danh Hộ tịch viên cho các cán bộ làm công
tác hộ tịch từ cấp xã trở lên.
3.2.2.2. Đào tạo bồi dưỡng và tăng cường đội ngũ người tiến hành tố tụng đủ năng lực trình độ
và chuyên mộn nghiệp vụ thực hiện chức năng giải quyết các vụ án hình sự.


16

Bên cạnh tạo cơ sở pháp lý vững chắc, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người
trực tiếp áp dụng pháp luật trong truy cứu trách nhiệm hình sự để họ nhận thức đúng đắn, và nắm
chắc trình tự thủ tục và những yêu cầu cần phải làm sáng tổ để chứng minh độ tuổi của các đương sự
trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự.


KẾT LUẬN
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một ván đè quan trong trong luật hình sự của hầu hết
các quốc gia. Nó vừa liên quan đến quyền con người vừa ảnh hưởng bởi chính sách hình sự
và thực tiễn của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Ở nước ta, từ lịch sử đến nay,
trong pháp luật của Nhà nước đều có những quy định liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm
hình sự. Sự thể hiện của vấn đề này ngày càng hoàn thiện. Song, do nhiều lý do khác nhau,
trong quy định của pháp luật hiện hành vẫn có những vấn đề chưa bảo đảm tính thống nhất,
phù hợp dẫn tới quá trình áp dụng còn gắp nhiều khó khăn. Thực tiễn giải quyết vấn đề độ
tuổi trong truy cứu trách nhiệm hình sự còn bộc lộ nhiều thiếu sót dẫn tới không xử lý
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Từ những vấn đề trên, quá trình nghiên cứu, tác giả
tap trung giải quyết các vấn đề :
1. Làm rõ được những nhận thức cơ bản về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quy định
vấn đề này trong luật hình sự Việt nam qua các thời kỳ lịch sử từ trước đến nay. Tập trung
phân tích quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề tuổi trách nhiệm hình sự, đánh giá sự
phù hợp và bất cập của pháp luật hiện hành về vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
2. Luận văn đã khảo sát thực trạng tội phạm ở các lứa tuổi và tác động xã hội của vấn
đề tuổi chị trách nhiệm hình sự từ năm 2007 đến năm 2011, phân tích những yếu tố tác
động làm trẻ hóa người thực hiện hành vi nguy hiểm, và cơ cấu độ tuổi của người phạm tội
trong thời gian qua và những người thực hiện hành vi nguy hiểm được quy định trong Bộ
luật hình sự nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do yếu tố độ tuổi. Luận văn cũng
đã phân tích cách thức và căn cứ mà các cơ quan có thẩm quyền đã sử dụng để làm rõ vấn
đề tuổi của các đương sự trong các vụ án và những thuận lợi, khó khăn cũng như nguyên
nhân điều kiện của thực trạng đó. Kết quả nghiên cứu thực tiễn là cơ sở để đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả vấn đè xác định độ tuổi của các đương sự trong quá trình truy
cứu trách nhiệm hình sự.
3. Luận văn đã phân tích, đưa ra các dự báo có tính khoa học về những vấn đề liên
quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong thời gian tới như : xu hướng trẻ hóa tuổi của
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ ; xu hướng xác định tuổi chịu trách nhiệm cùa các quốc gia trên thế giới và các

yếu tố khác tác động đến vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó, luận văn đưa
ra các kiến nghị đề xuất liên quan đế tuổi chịu trách nhiệm hình sự bao gồm : sửa đổi bộ
luật hình sự hiện hành để đảm bảo tính đồng bộ thống nhất, phù hợp với thực tiến cuộc
17

sống ; sửa đổi một số quy định khác trong các văn bản hướng dẫn về luật hình sự, luật tố
tụng hình sự liên quan đến vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự ; Nâng cao trình độ của cán
bộ hộ tịch, hộ khẩu và người tiến hành tố tụng là những người góp phần hình thành nên các
thông tin làm căn cứ xác định tuổi và những người có trách nhiệm khai thác thông tin để
chứng minh tuổi mọt con người cụ thể.
Với kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả hy vọng sẽ góp phần tích cực vào hoàn
thiện hệ thống lý luận về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, góp phần hoàn thiện các quy định
của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự trong thờì gian tới./.

References
1. Báo An ninh thủ đô số cuối tuần Chủ nhật ngày 29/4/2007 (số 128).
2. Ban chỉ đạo thi hành Bộ luật hình sự; Tài liệu Tập huấn chuyên sâu về Bộ luật hình sự
năm 1999; Nhà in Bộ Công an, Hà Nội, 2000.
3. Bộ luật hình sự của chính quyền Nguỵ Sài Gòn; NXB Thần Chung, Sài Gòn, năm 1973.
4. Bộ luật hình sự Liên bang Nga; Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 1998.
5. Bộ luật hình sự Nhật Bản (bản dịch tiếng Việt); người dịch Hatsukano; nguồn: Ban soạn
thảo Bộ luật hình sự năm 1999.
6. Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; NXB Tư pháp, 2005.
7. Bộ luật Hồng Đức di sản văn hóa pháp lý đặc sắc của Việt Nam; NXB Tư pháp.
8. Lê Văn Cảm (2000); Các đặc điểm của tội phạm & tính quyết định xã hội của chúng - Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2000.
9. Lê Văn Cảm (2000); Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự (Tập III);
NXB Công an nhân dân, H. 2000.
10. Lê Văn Cảm (2001); Nhân thân người tội phạm; Một số vấn đề lý luận cơ bản. Tạp chí
Tòa án nhân dân; số 10/2001.

11. Lê Văn Cảm (2002); Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự (Tập IV);
NXB Công an nhân dân, H. 2002.
12. Lê Văn Cảm (2005); Sách chuyên khảo sau đại học; Những vấn đề cơ bản trong khoa học
Luật hình sự (Phần chung); NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
13. Lê Văn Cảm (chủ biên); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm); NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, H. 2003.
14. Lê Văn Cảm (chủ biên); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung); NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, H. 2003.
15. Chính phủ (2005); Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, của Chính phủ về đăng ký hộ tịch.
16. Công báo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa số 4-1945.
17. Lê Đăng Doanh (1999); Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam; Luận văn thạc
sĩ luật học; Đại học Luật Hà Nội, 1999.
18

18. Trần Văn Dũng (2005); Những đặc điểm cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên phạm tội trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam; Tạp chí Tòa án nhân dân
tháng 11/2005 (số 22).
19. Nguyễn Ngọc Hòa & Lê Thị Sơn(2006); Từ điển pháp luật hình sự; NXB Tư pháp, H.
2006.
20. Nguyễn Ngọc Hòa (2005); Tội phạm và cấu thành tội phạm; NXB Công an nhân dân, H.
2005 và tái bản năm 2006.
21. Hoàng Việt luật lệ; Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Văn Tài dịch; NXB Văn hoá thông
tin, H.1998.
22. Hội đồng thẩm phán TANDTC (2006); Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006
của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật hình sự.
23. Hà Thị Hương (2007); Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam; Khóa
luận tốt nghiệp; Khoa Luật, ĐHQGHN, 2007.
24. Cao Văn Liên (2003); Tìm hiểu các nước và các hình thức Nhà nước trên thế giới; NXB
Thanh niên, Hà Nội, 2003.

25. Lưu Đình Nghĩa (2000); Xác định tuổi của người chưa thành niên như thế nào cho đúng?;
Tạp chí Toà án nhân dân, số 1/2000.
26. Đinh Văn Quế (2000) Bình luật khoa học BLHS năm 1999 - Phần chung; NXB Tp. Hồ
Chí Minh, năm 2000.
27. Quốc Hội (1985); Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1985.
28. Quốc hội (1992); Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; NXB
Chính trị quốc gia, H. 1998.
29. Quốc hội(1999); Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999.
30. Quốc hội(1999); Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21/1/1999 của Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Bộ luật hình sự.
31. Quốc hội(2003); Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2003; NXB Chính trị quốc gia, H. 2004.
32. Quốc hội(2004); Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam năm 2004; NXB Chính trị
quốc gia, H.2005.
33. Tạp chí Dân chủ pháp luật năm 2000 – 2009.
34. Tạp chí Dân chủ và pháp luật; Số chuyên đề về luật hình sự các nước trên thế giới; tháng
3/1998.
35. Tạp chí Tòa án nhân dân 2000 – 2009.
36. Đặng Thị Thanh (2000); Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội và
nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự năm 1999; Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2000.
19

37. Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 26/12/1986 của TANDTC-VKSNDTC-BNV
hướng dẫn về việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt và chấm dứt thời hạn
chấp hành hình phạt tù.
38. Kiều Đình Thụ (1996); Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam; NXB TP. Hồ Chí Minh, 1996;
NXB Đồng Nai, 1998.
39. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2005); Nhân thân người phạm tội với việc quyết định trách
nhiệm hình sự; Tạp chí Toà án nhân dân, số 8/2005

40. Tòa án nhân dân tối cao (1975); Hệ thống hóa luật lệ về hình sự; t.1 (1945-1974), Hà Nội
1975.
41. Tòa án nhân dân tối cao (1992); Công văn số 03 ngày 20/6/1992 của Tòa án nhân dân tối
cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ hướng dẫn xác minh địa điểm cư trú; các
trường hợp không thể xác minh được lý lịch bị can.
42. Tòa án nhân dân tối cao (2002); Công văn số 81 ngày 10/6/2002 của Toà án nhân dân tối
cao về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn xác định tuổi theo tuần tự thời gian.
43. Triết học Mác-Lênin; Chủ nghĩa duy vật biện chứng; NXB Sách giáo khoa Mác - Lênin,
H.1983.
44. Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Công an nhân dân 1999.
45. Đỗ Kim Tuyến (2001); Đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội; Luận
án tiến sĩ Luật học; Trường đại học Luật Hà Nội, 2001.
46. Đào Trí Úc (2000); Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề chung); NXB Khoa
học xã hội. Hà Nội, 2000.
47. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2001); Pháp lệnh Người cao tuổi Việt Nam; NXB Chính trị
Quốc gia, H.2001.
48. Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Các văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự năm
1999, H. 2006.
49. Trịnh Tiến Việt (2008); Tiếp tục hoàn thiện những quy định của BLHS trước yêu cầu mới
của đất nước; Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14 (7)/2008.
50. Trịnh Tiến Việt & Trần Hồng Lê(2005); Tìm hiểu một số chế định cơ bản trong luật hình
sự Thụy Điển; Tạp chí Tòa án nhân dân; số 14 (7)/2005 và số 15 (8)/2005.
51. Võ Khánh Vinh (2008); Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Sửa đổi và bổ sung).
52. Võ Khánh Vinh (đồng tác giả); Giáo trình tội phạm học’ Trường Đại học Luật Hà Nội
1994.
53. Võ Khánh Vinh; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự; NXB Công an nhân dân
2004.
54. Võ Khánh Vinh; Nguyên tắc công bằng trong Luật Hình sự Việt Nam; NXB Công an nhân
dân 1994.
55. Võ Khánh Vinh; Giáo trình các cơ quan bảo vệ pháp luật; NXB Công an nhân dân 2003.

20

56. Võ Khánh Vinh; Tìm hiểu trách hình sự đối với các tội phạm về chức vụ; NXB Chính trị
quốc gia 1996.
57. Võ Khánh Vinh; giáo dục quyền con người – Những vấn đề lý luận và thực tiễn; NXB
Khoa học Xã hội 2010.
58. Võ Khánh Vinh; Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành KHXH; NXB Khoa
học Xã hội 2010.
59. Võ Khánh Vinh; Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn; NXB Tư pháp 2006.


×