Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TIỀN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.2 KB, 90 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................................6
Chương 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM................10
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM. .10
CHƯƠNG MỘT: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
...............................................................................................................................................................11
CHƯƠNG HAI: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM..........37

2.2 Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam 49
2.2.1 Các văn bản pháp quy...........................................................................................................49
2.2.2 Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá (Công cụ và biện pháp thực hiện)...........................50

2.3 Đánh giá chung về thực trạng điều hành chính sách tỷ giá....................65
2.3.1 Những kết quả đạt được.......................................................................................................65
2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại....................................................................................................67
CHƯƠNG BA: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM
...............................................................................................................................................................72

3.1 Bối cảnh kinh tế Việt Nam trong thời kì hậu suy thoái (Giai đoạn 2010 2011)72
3.1.1 Cơ hội....................................................................................................................................72
3.1.2 Thách thức............................................................................................................................73
3.1.3 Mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô.........................................................................................75

3.2 Định hướng chính sách tỷ giá của NHNN Việt Nam năm 2011.............76
3.3 Các giải pháp hoàn thiện điều hành chính sách tỷ giá của NHNN Việt
Nam. 78
3.3.1 Điều hành linh hoạt tỷ giá cơ bản do NHNN công bố............................................................78
3.3.2 Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao. 79
3.3.3 Hoàn chỉnh và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng................................................80
3.3.4 Kiểm soát và tiến tới loại bỏ thị trường chợ đen...................................................................81


3.3.5 Ổn định hoạt động kinh tế đối ngoại:....................................................................................83
KẾT LUẬN...............................................................................................................................................87



DANH MỤC BẢNG BIỂU

BẢNG

Bảng 1: Diễn biến TGHĐ CNY/USD giai đoạn 1978 - 1990......................................................................28
Bảng 2: Biến động TG danh nghĩa CNY/USD đầu những năm 1990........................................................29
Bảng 3: Tổn thất tài chính đối với XK do thay đổi TG ở Trung Quốc.......................................................29
Bảng 4:Diễn biến FDI ở Argentina giai đoạn 1990 – 1998......................................................................32
Bảng 5: Tỷ giá NH công bố và tỷ giá thị trường giai đoạn 1989-1991.....................................................38
Bảng 6: NHNN Việt Nam điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá giai đoạn 1995-1999...............................41
Bảng 7: Tỷ lệ lạm phát trong các năm 1985 – 1991................................................................................50

BIỂU ĐỒ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước

TG

: Tỷ giá


DN XNK

: Doanh nghiệp Xuất Nhập Khẩu

VNĐ

: Việt Nam đồng

USD

: Đô la Mỹ

TMQT

: Thương Mại quốc tế

NSNN

: Ngân sách Nhà nước

CSTT

: Chính sách Tiền tệ



LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 2000 đến nay, kinh tế thế giới luôn trải qua nhiều biến động.
Bắt đầu từ sự phá sản của WorldCom năm 2003, Mardoff với vụ lừa đảo
lịch sử 65 tỷ USD năm 2005, và lớn nhất là khủng hoảng tín dụng Mỹ

năm 2007, kéo theo sự sụp đổ của đế chế Lehman Brothers, cùng khủng
hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009. Bước sang năm 2010, tuy ảnh hưởng
khủng hoảng kinh tế đã tạm lắng nhưng vẫn còn tiểm ẩn nhiều biến động,
điển hình là khủng hoảng nợ công của Hi Lạp, các nước Châu Âu như
Tây Ban Nha, Ý và Bồ Đào Nha cũng đang đứng trước nguy cơ tương tự
và bong bóng tài sản ở Trung Quốc. Có thể thấy rằng các quốc gia đang
bất lực trước những diễn biến bất thường của nền kinh tế. Mặc dù các
chính sách tiền tệ cũng được các nước thay đổi liên tục cho phù hợp với
những điều kiện thực tế nhưng kết quả đạt được không nhiều.
Việt Nam cũng đang nằm trong vòng xoáy chung của kinh tế thế giới.
Những thay đổi là yêu cầu tất yếu được đặt ra. Trong thời gian vừa qua,
Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) cũng đã liên tục điều chỉnh chính sách
tiền tệ, vừa thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát vào đầu năm 2008
thì đến cuối năm 2008 lại nới lỏng để chống suy thoái kinh tế. Các công
cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc, tín dụng, quản lý ngoại hối v.v… được điều
chỉnh một cách linh hoạt. Chính sách tiền tệ đã góp phần đáng kể trong
thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô, ổn định thể chế chính trị trong những
năm vừa qua. Bên cạnh thành tựu đáng ghi nhận như trên, trong giai đoạn
nền kinh tế có nhiều biến động, việc điều hành chính sách tiền tệ cũng tồn
tại nhiều khiếm khuyết. Đó là lạm phát, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng
thương mại (NHTM), hiện tượng dollar hóa nền kinh tế và vấn đề tỷ giá.
1. Lý do chọn đề tài


Để tiếp tục thực hiện con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn,
chúng ta đã và đang xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Đây cũng chính là
tiền đề cho những bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế, đưa nước ta
ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu, từng bước thực hiện quá trình công nghiệp
hoá- hiện đại hoá đất nước, mở cửa nền kinh tế và hội nhập sâu rộng vào

nền kinh tế thế giới. Gia nhập WTO là một trong những biểu hiện cho sự
hội nhập này, đây được coi là một cơ hội nhưng cũng là một thách thức
rất lớn. Đó là tình trạng thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng,
cán cân vốn đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn bị biến động mạnh. Thực
trạng cán cân thanh toán toán tổng thể cộng với tác động tiêu cực của
khủng hoảng tài chính 2008 đã ảnh hưởng đến nền tài chính tiền tệ của
Việt Nam.
Về chính sách tỷ giá, trong những năm qua, NHNN đã chuyển đổi
điều hành tỷ giá theo cơ chế cố định sang thả nổi có kiểm soát (2/1999).
Mặc dù đã được điều chỉnh linh hoạt hơn nhưng dưới tác động của các
yếu tố nội sinh và ngoại sinh hiện nay tỷ giá VND/USD chưa phản ảnh
đúng cung –cầu ngoại tệ trên thị trường, tỷ giá chính thức và tỷ giá trên
thị trường chợ đen vẫn có độ lệch lớn, hiện tượng găm giữ ngoại tệ vẫn
gia tăng v.v.. Tỷ giá vẫn còn là nỗi lo ngại của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu, của các nhà đầu tư nước ngoài, của chính NHTM và của các
nhà hoạch định chính sách tiền tệ.
Nhận thức được tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái trong tổng thể
chính sách tài chính – tiền tệ của chính phủ trong suốt thời gian qua, khái
quát sự đổi mới hệ thống tài chính trên lĩnh vực tỷ giá nhằm làm sáng tỏ
những ưu nhược điểm để từ đó có những điều chỉnh thích hợp góp phần
đưa tỷ giá trở thành công cụ giúp ổn định giá trị VND và hỗ trợ họat động
kinh tế đối ngoại, góp phần tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hội nhập


kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Chính vì vậy nhóm em
quyết định chọn đề tài "Hoàn thiện điều hành chính sách tỷ giá tại Việt
Nam hiện nay”.
Với kiến thức còn nhiều thiếu sót, cơ sở số liệu thống kê không
đầy đủ và tính phức tạp của đề tài nên trong bài viết không tránh khỏi
khiếm khuyết rất mong được sự góp ý của thầy cô giáo

2. Mục đích nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ những lý luận cơ bản về tỷ
giá và chính sách tỷ giá; khảo sát kinh nghiệm điều hành tỷ giá của một
số quốc gia nhằm tìm ra bài học cho Việt nam; phân tích thực trạng điều
hành tỷ giá của Việt Nam trong những năm qua; nhằm tìm ra các biện
pháp hữu hiệu góp phần hoàn thiện chính sách tỷ giá tại Việt Nam trong
tương lai
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về mặt khoa học, trong quá trình nghiên cứu, đề tài làm rõ được
những lý luận cơ bản về tỷ giá và chính sách tỷ giá như: tỷ giá hối đoái,
các nhân tố tác động đến tỷ giá, các loại tỷ giá, các hoạc thuyết về tỷ giá;
chính sách tỷ giá bao gồm khái niệm, phân loại, các công cụ của chính
sách tỷ giá và mối quan hệ giữa chính sách tỷ giá với các yếu tố khác
trong nền kinh tế; đồng thời, đề tài cũng rút được bài học về điều hành tỷ
giá thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước điển hình ở
Châu Á.
Về mặt thực tiễn, đề tài đã khái quát được thực trạng điều hành tỷ
giá của Việt Nam từ năm 1999 đến nay được chia thành 2 giai đoạn từ
1999 đến 2006 và từ 2006 đến 2010- giai đoạn trước và sau khi Việt Nam
gia nhập WTO. Trong từng giai đoạn, đề tài đã giới thiệu sơ lược về bối
cảnh kinh tế Việt Nam, phân tích thực trạng điều hành tỷ giá, đánh giá tác


động của tỷ giá đến nền kinh tế. Qua phân tích, đề tài đã hệ thống được
những thành tựu và hạn chế trong điều hành tỷ giá của Việt Nam Kết hợp
giữa khảo sát thực tiễn và nghiên cứu lý luận về tỷ giá, đề tài đã gợi ý cho
một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách tỷ giá trong ngắn và dài
hạn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tỷ giá chi phối đến tất cả các lãnh vực, các hoạt động trong nền kinh tế.

Thật vậy, những thay đổi trong điều hành tỷ giá không chỉ tác động đến
chính sách tiền tệ mà còn ảnh hưởng đến chính sách kinh tế đối ngoại của
quốc gia; đến hoạt động sản xuất và chi phối lãnh vực tiêu dùng; đến
thương mại trong nước và quốc tế; đầu tư nội địa và vay mượn nước
ngoài; thị trường chính thức và thị trường tự do; giá cả hàng hoá và giá trị
tiền tệ.
Trong phạm vi giới hạn nhất định, đề tài không nghiên cứu sâu sắc toàn
bộ các vấn đề trên mà chỉ tiếp cận việc điều hành tỷ giá hướng quan sát,
phân tích, đánh giá thực trạng thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, đầu
tư, vay nợ nước ngoài và kinh doanh tiền tệ của các NHTM từ 1999 đến
2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, logic học,
chứng minh, phân tích hệ thống, thống kê, chọn mẫu, so sánh, tổng hợp,
kết hợp với sự suy luận khoa học v..v, đề tài hy vọng đóng góp một số
hiểu biết nhất định cho việc nâng cao chất lượng điều hành tỷ giá của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng số liệu, thông tin từ các
nguồn: NHNN, các NHTM, Qũy Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới tại


Việt Nam, Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Viện Nghiên cứu
kinh tế trung ương, các công trình nghiên cứu cấp ngành, tạp chí v.v..
6. Kết cấu đề tài:
Hướng theo mục tiêu nghiên cứu, đề tài được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
Chương 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM


CHƯƠNG MỘT: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH
SÁCH TỶ GIÁ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

1.1.Những vấn đề chung về tỷ giá hối đoái.
1.1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái.
Theo quan điểm cổ điển, tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá)
là sự so sánh ngang giá vàng giữa hai đồng tiền của hai nước, là hệ số
chuyển đổi giữa đơn vị tiền tệ nước này sang đơn vị tiền tệ nước khác.
Theo quan điểm kinh tế hiện đại, tỷ giá là sự so sánh về mặt giá cả
giữa hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối
đoái là giá cả của một đồng tiền này tính bằng đơn vị tiền tệ khác.
Như vậy, bản chất của tỷ giá hối đoái là một loại giá cả nhưng là giá
cả của hàng hóa đặc biệt đó là tiền tệ. Với bản chất như vậy, tỷ giá hối
đoái đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế:
-

Tỷ giá có tác động to lớn tới quan hệ TMQT và XNK hàng hóa dịch

vụ: Khi tỷ giá hối đoái tăng đồng nghĩa với việc đồng nội tệ bị mất giá so
với ngoại tệ thúc đẩy XK hàng hóa tăng, NK hàng hóa giảm và ngược lại.
Do vậy, các quốc gia sử dụng tỷ giá như 1 công cụ để điều hành tiến trình
thương mại của quốc gia mình ( khuyến khích hay hạn chế XNK); đồng
thời dựa vào biến động tỷ giá để đưa ra những chính sách TMQT phù hợp
trong từng giai đoạn nhất định. Ví dụ như khi tỉ giá đang trên đà tăng,
hoạt động XK dầu thô sẽ diễn ra mạnh mẽ, khi đó nhà nước cần có biện
pháp can thiệp thông qua đánh thuế dầu cao. Như vậy, nhìn chung các
quốc gia đã dựa vào tỷ giá để tăng sức cạnh tranh, thành lập thị trường

của mình trên thị trường quốc tế.


-

Tỷ giá cũng là nhân tố tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế trong

nước: Khi tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ giảm giá so với ngoại tệ làm
tăng giá hàng hóa NK dẫn đến tăng chi phí sản xuất, kéo theo sự tăng lên
của giá thành sản phẩm, tất yếu dẫn đến sự gia tăng lạm phát trong nước
và ngược lại. Bởi vậy, nếu được sử dụng một cách đúng đắn, tỷ giá sẽ là
một công cụ hữu ích để điều tiết, quản lý những mất cân đối lớn trong
hoạt động kinh tế. Khi kinh tế khủng hoảng suy thoái, Nhà nước sẽ tìm
cách giảm giá đồng nội tệ để đặt mục tiêu thúc đẩy XK, tăng trưởng kinh
tế. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển nóng, lạm phát cao, bằng cách
nâng giá đồng nội tệ, Nhà nước có thể hạn chế XK và kiềm chế lạm phát.
Ngoài ra, tỷ giá còn thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển, tác động đến
hành vi của những chủ thể tham gia trên thị trường như đối với các doanh
nghiệp XNK, tỷ giá là cơ sở để xác định giá cả, cơ cấu hàng hoá XNK,
đối với các NHTM, những dự báo về sự biến động của tỷ giá là yếu tố
quan trọng để quyết định loại ngoại tệ và thị trường đầu tư... Và cuối
cùng, tỷ giá là thước đo phản ánh chính xác cung cầu ngoại tệ trong nước,
là tín hiệu cho thực trạng mối quan hệ kinh tế đối ngoại mà thông qua đó,
chính phủ có thể đưa ra chính sách kinh tế phù hợp đáp ứng kịp thời nhu
cầu ổn định kinh tế trong từng thời kì.
1.1.2.Các

mô hình xác định tỷ giá

Trên thực tế các nhà kinh tế học cổ điển và cả hiện đại đã mất rất

nhiều thời gian và công sức để tìm ra các mô hình dự báo và xác định tỷ
giá một cách chính xác nhất. Các mô hình đó phải kể đến: Mô hình ngang
giá sức mua (ppp); mô hình ngang giá lãi suất; các mô hình từ cách tiếp
cận tiền tệ; các mô hình từ cách tiếp cận thị trường tài sản...
Trong đó, mô hình ngang giá sức mua (lý thuyết sức mua cân bằng –
PPP) là mô hình ra đời sớm nhất vào khoảng đầu thế kỷ 20. Lập luận của
mô hình vô cùng đơn giản: nếu hàng hóa có thể lưu thông dễ dàng giữa


các nước và do vậy giá của một mặt hàng ở các nơi khác nhau phải tương
đương nhau, tỷ giá giữa hai đồng tiền sẽ chỉ được xác định bằng mối
tương quan về lạm phát giữa hai nước đó. Mặc dù cơ sở lý thuyết của mô
hình này khá đơn giản và dễ hiểu, tuy nhiên rất nhiều thế hệ các nhà kinh
tế thực nghiệm đã không thể chứng minh được tính xác thực của mô hình
cũng như đưa mô hình vào ứng dụng trong thực tế để dự báo tỷ giá cho
chính sách kinh tế và quyết định đầu tư. Chỉ đến khoảng 15 năm lại đây
các nhà kinh tế với những kỹ thuật kinh tế lượng hiện đại nhất mới khẳng
định được mô hình trong dài hạn (khoảng 3-5 năm). Quan trọng hơn các
nhà kinh tế đã chỉ ra được những lý do làm cho mô hình này không đúng
trong thực tế nếu chỉ dựa vào lạm phát. Một số yếu tố thường được đề cập
đến là tác động của các loại hàng hóa phi thương mại hoặc các chi phí
vận tải, hay cả các chính sách can thiệp tỷ giá của các ngân hàng trung
ương.
Cho đến sau khi lý thuyết vĩ mô của Keynes ra đời, một loạt các mô
hình xác định tỷ giá được tiếp tục phát triển sau mô hình PPP ban đầu
như mô hình Mundell-Fleming, mô hình overshooting của Dornbusch,
mô hình thanh khoản tiền tệ và mô hình portfolio-balance. Cơ sở của tất
cả các mô hình này đều là mô hình khung kinh tế vĩ mô theo trường phái
Keynes, nghĩa là nền kinh tế được mô hình hóa thành hai thị trường quan
trọng nhất: thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ. Mỗi mô hình có một

số giả định khác nhau về mức độ mềm dẻo của mặt bằng giá và mức độ
hoán đổi của hàng hóa, tài sản nội địa và quốc tế. Với những giả định đó,
các mô hình trên chỉ ra mối liên hệ giữa tỷ giá cân bằng với một số biến
số vĩ mô quan trọng khác như GDP, lạm phát, tổng thanh khoản, lãi suất,
cán cân thương mại. Cho đến nay, các mô hình này đều được các tổ chức
tài chính tư nhân cũng như các chính phủ và tổ chức quốc tế sử dụng để
xác định tỷ giá cân bằng hoặc dự báo tỷ giá trong tương lai.


Các chuyên gia IMF đã nghiên cứu và đưa những mô hình lý thuyết
trên vào thực tế, trở thành một dạng mô hình thực nghiệm tên là
BEER(Behavioral Equilibrium Exchange Rate) . Các mô hình BEER
được coi là trung hạn so với mô hình PPP (dài hạn). Tuy nhiên, những mô
hình BEER chỉ đưa ra kết quả khả quan khi sử dụng đánh giá trong mẫu,
hầu hết các đánh giá ngoài mẫu đều cho kết quả không có ý nghĩa thống
kê.
Không chỉ rất kém về mặt dự báo tỷ giá, cả mô hình PPP và các mô
hình thế hệ thứ hai đều không giải thích được một số hiện tượng quan
trọng trong thị trường ngoại hối như sự dao động của lãi suất thực... Và
không đề cập, phân tích hành vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất,
những đơn vị nhỏ nhất của một nền kinh tế.
Đến khi trường phái Keynes mới xuất hiện vào những năm 1990 dựa
trên nguyên tắc vi mô, các mô hình kiểu mới tiếp tục được ra đời và giải
quyết phần nào những khúc mắc mà các mô hình kiểu cũ không có câu trả
lời. Một mô hình xác định tỷ giá có tính bước ngoặt trong thời kì này là
mô hình vĩ mô mở của Maurice Obstfeld và Kenneth Rogoff. Trong mô
hình Obstfeld-Rogoff, tỷ giá được đặt ngang hàng với các biến số vĩ mô
khác với giả định giá chậm thay đổi. Các mối quan hệ vĩ mô là kết quả
của một quá trình tối ưu tổng thể của các đối tượng kinh tế riêng lẻ (người
tiêu dùng, công ty) và cơ chế cạnh tranh có độc quyền ngắn hạn. Những

ứng dụng sau này của mô hình Obstfeld-Rogoff trong vấn đề tỷ giá còn
phân biệt các loại hàng hóa ngoại thương và phi ngoại thương và mô hình
hóa các loại rủi ro của tỷ giá.
Việc chuyển hướng xem xét tỷ giá trên khía cạnh độc lập như trong
các mô hình Keynes cũ sang một hệ thống cân bằng tổng thể đã giúp các
nhà kinh tế hiểu sâu hơn về cơ chế điều chỉnh tỷ giá của một nền kinh tế.


Tuy nhiên hướng nghiên cứu này còn khá mới và chưa có ứng dụng cụ
thể trong dự báo và phân tích tỷ giá cho một đồng tiền trên thực tế.
Còn trên thực tế thị trường ngoại hối, những người tham gia vào thị
trường không căn cứ vào những dự báo trung và dài hạn của những mô
hình kinh tế trừu tượng mà đa số chỉ quan sát diễn biến tỷ giá theo một số
qui luật thông dụng gọi là phân tích kỹ thuật. Cơ sở lý luận của các phân
tích này chính là trong ngắn hạn hành vi và tâm lý của các đối tượng tham
gia thị trường ngoại hối có ảnh hưởng lớn hơn nhiều các yếu tố kinh tế cơ
bản. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đã không quan tâm đến phân tích kỹ thuật
vì cho rằng những phân tích kiểu này “phi khoa học”.
1.1.3. Các nhân tố tác động lên tỷ giá
Tỷ giá là một yếu tố không cố định và luôn luôn biến đổi dưới sự tác
động của rất nhiều các yếu tố khác nhau. Trong đó, ba yếu tố chính tác
động đến tỷ giá chính là mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, độ lệch về lãi
suất và lạm phát giữa các nước.
 Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường
Bản chất tỷ giá chính là giá cả của hàng hóa "tiền tệ". Do vậy, nhân tố
đầu tiên tác động trực tiếp lên tỷ giá chính là cung cầu về ngoại tệ trên thị
trường. Và nhân tố cung cầu này lại chịu sự ảnh hưởng của không ít các
yếu tố khác nhau.
Các yếu tố kinh tế có thể kể đến là cán cân thanh toán quốc tế và mức
độ tăng trưởng cũng như suy thoái của nền kinh tế. Cán cân thanh toán

của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba trạng thái: Cân bằng, thâm
hụt hay thặng dư. Nếu cán cân thanh toán quốc tế thặng dư thì có thể dẫn
đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, từ đó mà tỷ giá hối đoái
sẽ có chiều hướng giảm hoặc giữ vững. Ngược lại nếu cán cân thâm hụt
thì có thể tác động làm tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng. Tương tự như


vậy, mức độ tăng trưởng và suy thoái của nền kinh tế cũng có thể tác
động lên cung cầu ngoại tệ, qua đó tác động bắc cầu đến tỷ giá. Khi nền
kinh tế có mức tăng trưởng ổn định, nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập
khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu
tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các
hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho
nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời
được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên
cao.
Bên cạnh các yếu tố về kinh tế, các nhân tố khác có khả năng tác động
cung cầu ngoại tệ có thể kể đến các yếu tố chính trị, kinh tế xã hội, thiên
tai, chiến tranh… và hoạt động đầu cơ. Ví dụ như nếu có sự đình công,
biểu tình, có các biến cố về chính trị trong nước thì các nhà đầu tư nước
ngoài sẽ rút vốn làm cho ngoại tệ trở nên khan hiếm làm cho cung ngoại
tệ giảm do vậy tỷ giá giảm. Hay như hoạt động của những nhà đầu cơ
ngoại tệ: khi nhà đầu cơ dự đoán giá của một loại ngoại tệ nào đó sẽ lên,
họ sẽ dùng nội tệ để mua một số lượng lớn ngoại tệ, làm cho ngoại tệ này
ở trên thị trường trở nên khan hiếm, cung sẽ nhỏ hơn cầu về ngoại tệ đó
dẫn đến giá của loại ngoại tệ đó tăng do đó tỷ giá hối đoái tăng lên.
 Mức chênh lệch về lãi suất giữa các nước
Do tất cả các nhà đầu tư đều thực hiện các hành vi kinh tế của mình
dựa trên lợi ích về kinh tế nên nước nào có lãi suất tiền gửi ngắn hạn cao
hơn lãi suất tiền gửi của các nước khác thì vốn ngắn hạn sẽ chảy vào

nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cho nguồn
ngoại tệ chảy vào thị trường nội địa tăng lên, tỷ giá hối đoái có xu hướng
giảm.


Mức chênh lệch lạm phát của hai nước


Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao động của
hai nước là tương đương, cơ chế quản lý ngoại hối tự do thì khi đó tỷ giá
biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền.
Nguyên nhân là do tỷ lệ lạm phát ở một quốc gia tăng lên hay giảm
xuống sẽ làm giá trị của đồng tiền nước đó thay đổi. Dựa vào thuyết
ngang giá sức mua của đồng tiền PPP, mức giá của một nước tăng lên
tương đối so với mức tăng giá của nước khác trong dài hạn sẽ làm cho
đồng tiền của nước đó giảm giá và ngược lại. Sức mua của tiền trong
nước giảm thì sức mua đối ngoại của nó cũng giảm làm cho tỷ giá hối
đoái tăng lên. Tuy nhiên nó chỉ có thể làm thay đổi tỷ giá trong dài hạn,
trong ngắn hạn, sự tác động là không đáng kể.
Ngoài ba yếu tố chính trên, TGHĐ còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố
khác như yếu tố tâm lý, chính sách của chính phủ, uy tín của đồng tiền…
Ở Việt Nam, yếu tố tâm lý hay còn gọi là tâm lý số đông cũng là một
yếu tố tác động không nhỏ đến tỷ giá. Yếu tố này được gây ra bởi người
dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ,
các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Do hoạt động
mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động
đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào
tương lai. Nếu kỳ vọng tỷ giá hối đoái tăng trong tương lai, các tác nhân
đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại. Bên cạnh đó,
giá ngoại tệ cũng rất nhạy cảm với thông tin cũng như các chính sách của

Chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế
nhập Nhẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán
ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng.
1.2.Các vấn đề cơ bản về chính sách tỷ giá.
1.2.1.Khái

niệm và mục tiêu của chính sách tỷ giá.


Chính sách tỷ giá là những hoạt động của Chính phủ (mà đại diện thường
là NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành
tỷ giá)và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố
định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với
mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia.
Các chính sách tỷ giá NHTW thường sử dụng :
-Chính sách chiết khấu: chính sách này tác động đến tỷ giá thông qua lãi
suất chiết khấu của NHTW. Khi NHTW thực hiện tăng lãi suất chiếu
khấu sẽ làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên. Trong ngắn hạn sự tăng
lên của lãi suất trong nước sẽ thu hút một lượng vốn trên thị trường quốc
tế chảy vào trong nước, từ đó làm tăng nguồn cung ngoại tệ nhằm giảm
bớt sự căng thẳng thiếu ngoại tệ trên thị trường, làm tỷ giá giảm xuống
(đồng nội tệ lên giá) và ngược lại.
-Chính sách hối đoái: NHTW tác động đến tỷ giá thông qua hoạt động
mua bán ngoại tệ ra thị trường. Khi tỷ giá lên cao, NHTW bán ngoại hối
ra thị trường là cho cung ngoại hối tăng lên kéo tỷ giá giảm xuống (nội tệ
lên giá) và ngược lại. Tuy nhiên, để thực hiện chính sách này, NHTW cần
có một lượng ngoại hối đủ lớn để thực thi biện pháp này hiệu quả.
-Phá giá tiền tệ: là sự nâng cao một cách chính thức tỷ giá hối đoái hay là
việc Nhà nước hạ thấp sức mua của đồng tiền nội tệ so với ngoại tệ, từ đó
thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu, cải thiện cán cân thương

mại.
-Nâng giá tiền tệ: Nhà nước thực hiện nâng giá đồng nội tệ của mình một
cách chính thức làm cho tỷ giá giảm, khuyến khích xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu.
Như vậy chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách kinh tế, sử dụng
các công cụ can thiệp tác động đến đối tượng là tỷ giá. Khi tỷ giá biến


động sẽ có ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động xuất nhập khẩu, từ đó tác
động đến các hoạt động kinh tế trong nước.
 Mục tiêu của chính sách tỷ giá
Là một bộ phân của chính sách kinh tế, vì thế mục tiêu chính sách tỷ giá
cũng phải phù hợp với mục tiêu của chính sách kinh tế. tùy theo mỗi quốc
gia mà mục tiêu chính sách kinh tế có thể khác nhau, nhưng nhìn chung
nó bao gồm:
-Ổn định giá cả.
-Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đẩy đủ.
-Cân bằng cán cân vãng lai.
a) Ổn định giá cả:
Ta có công thức xác định tỷ lệ lạm phát:
P = . PD + (1 – α) . E . P*M
Trong đó:
- α: tỷ trọng hàng hóa sản xuất trong nước.
- (1-α) : tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu.
- PD: giá hàng hóa sản xuất trong nước tính bằng nội tệ.
- E: tỷ giá ( nội tệ/ ngoại tệ)
- P*M: giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng ngoại tệ.
- P: giá hàng hóa chung của nền kinh tế.
Từ công thức trên ta dễ dàng nhận thấy:
Khi các yếu tố khác không đổi:

-Nếu Chính phủ thực hiện phá giá đồng nội tệ ( tỷ giá (E) tăng hay đồng
nội tệ giảm giá so với ngoại tệ), khi đó giá hàng hóa nhập khẩu bao gồm


nguyên vật liệu dùng cho sản xuất, hàng tiêu dùng, máy móc thiết bị kĩ
thuật sản xuất… tính bằng nội tệ tăng lên. Giá hàng hóa nhập khẩu tăng
(P*M) là cho giá hàng hóa chung của nền kinh tế tăng lên gây ra lạm phát.
Tỷ giá tăng càng mạnh và tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu càng lớn càng gây
ra lạm phát cao.
-Ngược lại khi Chính phủ thực hiện giảm giá đồng nội tệ (Tỷ giá E giảm)
làm giá hàng hóa nhập khẩu giảm, từ đó giảm lạm phát.
Như vậy thông qua các chính sách tác động đến tỷ giá mà Chính phủ có
thể tác động đến giá cả của hàng hóa nhập khẩu, từ đó góp phần điều
chỉnh tỷ lệ lạm phát. Trường hợp muốn giảm lạm phát Chính phủ có thể
thực hiện chính sách nâng giá đồng nội tệ so với ngoại tệ, trường hợp
muốn kích thích lạm phát, Chính phủ có thể phá giá đồng nội tệ (giảm giá
nội tệ so với ngoại tệ) từ đó đạt được mục tiêu về kinh tế đề ra hay khi
muốn ổn định lạm phát, Chính phủ có thể sử dụng chính sách ổn định và
cân bằng tỷ giá.
b) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ.
Theo công thức:
Y=C+I+G+X+M
Khi Chính phủ thực hiện chính sách phá giá nội tệ (giảm giá đồng nội tệ,
tăng giá đồng ngoại tệ) điều này sẽ kích thích xuất khẩu (X tăng) , hạn
chế nhập khẩu (M giảm) do đó thu nhập quốc dân Y tăng và công ăn việc
làm đầy đủ hơn (do nhu cầu lao động sản xuất ở các lĩnh vực xuất khẩu).
Ngược lại, Khi thực hiện chính sách nâng giá nội tệ sẽ làm giảm tăng
trưởng kinh tế và gia tăng thất nghiệp.
Có thể thấy chính sách tỷ giá cũng có tác động lớn thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và công ăn việc làm. Cụ thể muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế



cần áp dụng chính sách phá giá nội tệ ngược lại muốn kìm hãm tốc độ
tăng trưởng kinh tế thì áp dụng chính sách nâng giá nội tệ.
c) Cân bằng cán cân vãng lai:
Bộ phận chủ yếu của các cân vãng lai là cán cân thương mại. Trong khi
đó chính sách tỷ giá tác động trực tiếp đến xuất nhập khẩu hàng hóa dịch
vụ cũng chính là cán cân thương mại. Do đó chính sách tỷ giá tác động
đến cán cân vãng lai.
Với chính sách tỷ giá thấp, định giá nội tệ thấp hơn so với ngoại tệ sẽ
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, từ đó cải thiện được
cán cân vãng lai từ trạng thái thâm hụt trở về cân bằng hay thăng dự.
Trường hợp chính sách tỷ giá cao thì ngược lại.
1.2.2. Vai trò của chính sách tỷ giá:
a) Đối với cán cân thanh toán.
Như đã nói ở trên, chính sách tỷ giá có tác động trực tiếp tới giá cả hàng
hóa xuất nhập khẩu của một quốc gia. Khi tỷ giá tăng hay đồng nội tệ
giảm giá sẽ làm tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu và giảm giá
hàng xuất khẩu, do đó kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , kết quả
là cán cân thanh toán được cải thiện.
b) Đối với lạm phát và lãi suất.
Khi các yếu tố khác không đổi, tỷ giá tăng (đồng nội tệ giảm giá, ngoại tệ
lên giá) sẽ làm tăng giá hàng hóa nhập khẩu. Trong số hàng hóa nhập
khẩu có cả các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất
nhiều hàng hóa trong nước, do vậy vô hình làm giá hàng hóa trong nước
tăng lên cũng với tỷ lệ phá giá. Nếu tỷ giá tiếp tục có sự gia tăng liên tục
qua các năm điều ngày đồng nghĩa với lạm phát đã tăng. Trong khi đó,
nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải, có thể kiểm soát được, sẽ kích thích



tăng trưởng kinh tế nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi
suất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế giảm
sút.
c) Với sản lượng và việc làm.
Như đã nói, chính sách tỷ giá có tác động trực tiếp đến hoạt động xuất
nhập khẩu. Khi thực thi chính sách duy trì tỷ giá cao (nội tệ giảm giá) sẽ
khuyến khích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, khi đó nhu cầu của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu tăng lên cùng với đó là số lượng công nhân
có việc làm tăng lên.
d) Với đầu tư quốc tế.
-Đầu tư trực tiếp: tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới giá trị phần vốn
mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trong nước. Bên cạnh đó tỷ giá còn tác
động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài bởi
ngoại tệ đầu tư được chuyển đổi sang nội tệ thông qua tỷ giá hối đoái. Do
đó sự thay đổi tỷ giá có ảnh hưởng nhất định đến hành vi của các nhà đầu
tư trong việc quyết định đầu tư hay quyết định rút vốn vào nước sở tại
hay không.
-Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua việc mua bán chứng
khoán trên thị trường chứng khoán quốc tế.
Lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ = lãi suất ngoại tệ +giảm giá đồng nội
tệ.
Trong đầu tư gián tiếp, luồng vốn lưu chuyển tự do hơn và dễ hàng biến
động hơn so với đầu tư trực tiếp. các nhà đầu tư có thể sẵn sàng rút vốn
khỏi thị trường khi có biến động. Do đó biến động tỷ giá cũng có thể có
tác dụng tích cực thu hút đầu tư cũng có thể có tác dụng tiêu cực làm
giảm vốn đầu tư vào trong nước.


Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi
hỏi các quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp

lý giảm mức độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
e)Với nợ nước ngoài.
Các khoản nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước ngoài
hoặc là đồng tiền mạnh nên khi tỷ giá biến động cũng chịu ảnh hưởng
không ít. Cụ thể khi tỷ giá tăng lên (nội tệ giảm giá so với ngoại tệ) điều
này đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay
khi sự luận chuyển vốn ngày càng tự do thì các nước đang phát triển cần
thận trong hơn nữa trong chính sách tỷ giá để đảm bảo khả năng tăng
trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài của mình.
1.2.3. Các công cụ của chính sách tỷ giá.
1.2.3.1. Các công cụ trực tiếp:
a)Mua bán ngoại tệ trên thị trường: đây là biện pháp can thiệp trực tiếp
của NHTW vào tỷ giá. Nghiệp vụ này tác động đến cung tiền trong nước,
NHTW đóng vai trò là người mua bán cuối cùng trên thị trường liên ngân
hàng tại một mức tỷ giá nhất đinh. Ngân hàng sẽ thực hiện bán ngoại tệ ra
thị trường trong trường hợp cung ngoại tệ không đáp ứng đủ cầu và thực
hiện mua ngoại tệ trong trường hợp ngược lại. Nghiệp vụ này dễ dàng
thực hiện, tuy nhiên NHTW cần phải có lượng dự trữ ngoại tệ đủ lớn để
có thể thực hiện mua bán ngoại tệ ngay khi cần thiết.
b) Biện pháp kết hối: biện pháp này được áp dụng trong trường hợp thị
trường khan hiếm ngoại tệ, tuy nhiên cùng với đó là sự xuất hiện của
hành vi đầu cơ ngoại tệ của các DN XNK. Khi xảy ra hiện tượng này,
Nhà nước có thể yêu cầu các Cá nhân hay tổ chức pháp nhân có nguồn


thu ngoại tệ phải thực hiện bán lại một phần hoặc toàn bộ số ngoại tệ cho
các cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối.
Bên cạnh đó chính phủ có thể kết hợp quy định hạn chế các đối tượng
được phép mua ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng người mua ngoại tệ,

số lượng ngoại tệ được phép mua… Tất cả các biện pháp này được đưa ra
nhằm giảm thiểu áp lực thiếu hụt ngoại tệ, tránh đầu cơ và ổn định tỷ giá.
Tuy nhiên có thể thấy kết hối là biện pháp có tính chất hành chính, bắt
buộc các Doanh nghiệp thực hiện và không phù hợp trong bối cảnh nền
kinh tế có xu hướng tự do hóa.
Tóm lại các công cụ trực tiếp là những biện pháp có tác động trực tiếp tới
tỷ giá, làm cho tỷ giá lên xuống theo mong muốn của cơ quan quản lý.
Tuy nhiên cùng với đó là sự hạn chế trong việc kìm hạn tính chất tự nhiên
của nền kinh tế cũng như sự gò ép tỷ giá một cách cứng nhắc có thể gây
ra những hậu quả tiêu cực trái với mong muốn.
1.2.3.2. Các công cụ gián tiếp:
a) Lãi suất tái chiết khấu:
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà NHTW đánh vào các khoản tiền cho
các NHTM vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt trong ngắn hạn hoặc bất
thường của các ngân hàng này. Lãi suất tái chiết khấu là một công cụ của
chính sách tiền tệ để điều chỉnh lượng cung tiền từ đó tác động đến tỷ giá
hối đoái.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi NHTW tăng mức lãi suất
tái chiết khấu sẽ tác động làm tăng lãi suất của các NHTM trên thị trường
mà cụ thể là lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Vì vậy trong ngắn hạn sẽ
thu hút được một lượng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước. Điều này là
cho cung ngoại tệ trên thị trường tăng lên, trong khi đó cầu ngoại tẹ
không đổi , do đó tỷ giá giảm hay nội tệ lên giá so với ngoại tệ.


Ngược lại khi NHTW điều chỉnh giảm lãi suất tái chiết khấu làm cho mặt
bằng chung lãi suất trên thị trường giảm. Dẫn đến giảm luồng vốn ngắn
hạn nước ngoài đang đầu tư ở thị trường sẽ chuyển sang đầu tư ở những
nước có lãi suất cao hơn. Khi đó cung ngoại tệ giảm, cầu ngoại tệ không
đổi, vì thế tỷ giá tăng hay nội tệ giảm giá so với ngoại tệ.

Sử dụng công cụ lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái được
các nước sử dụng nhiều nhất trong các công cụ gián tiếp bởi hiệu quả nó
mang lại không chỉ giải quyết trong tình trạng cấp bách mà còn mang tính
chiến lược lâu dài. Tuy nhiên cách dùng lãi suất để điều chỉnh tỷ giá cũng
có những hạn chế nhất định do tỷ giá là lãi suất có mối quan hệ khá chặt
chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy khi sử dụng phương pháp này, cần
có sự xem xét kĩ lưỡng các chiều hướng biến động có thể xảy ra trên thị
trường.
b) Thuế quan:
Thuế quan là một trong những công cụ phổ biến nhất mà Chính phủ sử
dụng để hạn chế hay kích thích hoạt động xuất nhập khẩu, loại thuế này
buộc các nhà nhập khẩu phải nộp một tỷ lệ nhất định theo giá trị hàng hóa
nhập khẩu trên cơ sở giá quốc tế.
Khi Chính phủ đánh thuế hàng nhập khẩu sẽ là cho giá hàng hóa nhập
khẩu cao hơn so với hàng hóa sản xuất trong nước. Điều này sẽ làm giảm
cầu hàng hóa nhập khẩu, tăng cầu về hàng hóa nội địa và dẫn tới tỷ giá
giảm hay đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ. Do vậy một mức thuế quan
cao có tác dụng hạn chế nhập khẩu và làm giảm sức ép lên tỷ giá, kéo tỷ
giá đi xuống dần nhằm tạo sự cân bằng trên thị trường ngoại hối. Khi thuế
quan thấp có tác động ngược lại. Đối với các nước có nền sản xuất còn
non trẻ thì thuế quan còn có tác dụng bảo hộ nền kinh tế trong nước khỏi
sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng hóa nước ngoài.


×