Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.85 KB, 119 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1
LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC
KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
MỤC LỤC..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1........................................................................................................................................1
LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC KIỂM SOÁT LẠM PHÁT...................1
LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC KIỂM SOÁT LẠM PHÁT...................8
CHƯƠNG 3......................................................................................................................................93
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHẰM MỤC TIÊU KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Ở VIỆT NAM.....................................................................................................................................93

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh nghiệm thực tiễn của các nước qua nhiều thập kỷ và kết quả nghiên cứu
của các nhà kinh tế học trên thế giới đã cho thấy chính sách tiền tệ là công cụ quan
trong trọng trong việc làm thay đổi tiền tệ trên tất cả các mặt: lưu thông, chi phí, giá
trị,… Chính sách tiền tệ tập trung vào việc giải quyết khả năng thanh toán cho toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu
thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng. Hơn nữa, chính sách tiền tệ còn đáp
ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường
vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp
lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại, hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn
định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả của hàng hóa. Chính vì
thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên, bởi nó
được sinh ra là để điều tiết tiền tệ,mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế lại
như máu lưu thông trong cơ thể con người. Không khó khăn nếu muốn chứng minh
về vấn đề này, nhất là trong giai đoạn gần đây – chính phản ứng của thị trường đối
với sự thay đổi của chính sách tiền tệ là biểu hiện rõ nhất về những tác động của
chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.




Trong tình hình nền kinh tế trong nước và quốc tế đầy biến động,với mục tiêu
theo đuổi tăng trưởng kinh tế trên 7%/ năm, đồng thời phải đảm bảo được giá trị
đồng nội tệ, nền kinh tế Việt Nam luôn luôn chịu sức ép của lạm phát. Trong thời
gian qua, nhằm đảm bảo giá trị đồng nội tệ, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào một
khối lượng lớn đồng ngoại tệ, bên cạnh việc duy trì một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cho
sự phát triển kinh tế, giá nguyên vật liệu đầu vào, giá nhiên liệu liên tục tăng cao đã
làm cho giá cả ngày càng tăng lên, có nguy cơ gây ra lạm phát cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 09
tháng 01 năm 2011 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 theo đó ,
Ngân hàng nhà nước phối hợp với các bộ ngành có liên quan thực hiện chính sách
tiền tệ chặt chẽ, thận trọng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá, cung vốn
kịp thời cho sản xuất thiết yếu và giữ vững thanh khoản của hệ thống
Vậy xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta cùng với mục tiêu của Chính Phủ
tác giả đã chọn đề tài : " Sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ổn
định nền kinh tế vĩ mô”.
Do còn hạn chế trong việc hiểu biết về lĩnh vực tài chính kinh tế, nên đề tài của
tác giả không tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong thầy cô giúp đỡ, góp ý để tác
giả hoàn thành đề tài này.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống lý thuyết về chính sách tiền tệ, điều hành chính sách tiền tệ với
mục tiêu kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Trung ương.
- Phân tích thực trạng điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ trong việc
kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ 2007 đến
nay.
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện việc điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong giai đoạn

tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng: chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: chính sách tiền tệ từ năm 2007 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu đề tài bao gồm: phương
pháp thống kê và mô tả trên cơ sở tập trung số liệu về chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam từ 2007 đến nay; phương pháp tổng hợp sử dụng trong
việc tổng hợp các vấn đề lý thuyết về chính sách tiền tệ; phương pháp so sánh để so
sánh thực trạng và đánh giá kết quả điều hành chính sách tiền tệ trong các năm của
giai đoạn nghiên cứu.

5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở bài và kết luận, đề tài nghiên cứu được kết cấu gồm 3 chương
như sau:
Chương 1: Lạm phát và vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm
phát trong những năm qua
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm
soát lạm phát ở Việt Nam


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CPI

Chỉ số giá tiêu dùng


CSTK

Chính sách tài khóa

CSTT

Chính sách tiền tệ

DTBB

Dự trữ bắt buộc

ECB

Ngân hàng trung ương Châu Âu

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FED

Cục dự trữ liên bang Mỹ

GDP

Tổng sản phẩm quốc dân

GNP


Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

Quỹ tiền tệ thế giới

NHNH

Ngân hàng nhà nước

NHNNVN

Ngân hàng nhà nước Việt Nam

NHTW

Ngân hàng trung ương


NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần

NVTTM

Nghiệp vụ thị trường mở


OMO

Nghiệp vụ thị trường mở

TCTD

Tổ chức tín dụng

TPCP

Trái phiếu chính phủ

USD

Đồng đola Mỹ

VNĐ

Đồng Việt Nam

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1:Nhận xét biến động lãi suất 2007-2010………………………………...43
Bảng 2.2: Biến động biên độ tỷ giá 2007-3/2011……………………………...….55
Bảng 2.3 :Kết quả giao dịch nghiệp vụ thị trường mở năm 2008………………....63

Bảng 2.4: Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát…………………………………...69
Biểu đồ 1.1: tăng trưởng GDP theo quý giai đoạn 2008-2009…………………….31
Biểu đồ 2.1 : Biến động lãi suất theo tháng năm 2008………………………….…37
Biểu đồ 2.2: Các lãi suất chủ chốt của NHNN Việt Nam………………………....41
Biểu đồ 2.3:Tăng trưởng tín dụng từ 2001 đến 2010……………………………...48
Biểu đồ 2.4: Diễn biến tỷ giá 2008-2009…………………………………...57
Biểu đồ 2.5:Biến động tỷ giá USD/VNĐ từ năm 2009 đến nay…………………..58
Biểu đồ 2.6: Biến động tỷ giá năm 2010…………………………………………..59
Biểu đồ 2.7: Lượng bơm ròng qua OMO hàng tháng ( ngàn tỷ đồng )…………...66
Sơ đồ 1.1: Chiến lược mục tiêu cục dự trữ liên bang Mỹ…………………………15



CHƯƠNG 1
LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC
KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1.1. Những quan điểm về lạm phát
1.1.1. Khái niệm
Lạm phát (Inflation) là một phạm trù kinh tế vĩ mô, chứa đựng nội hàm
phức tạp. Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn đối với nền kinh tế phát triển theo
cơ chế thị trường, nó xuất hiện khi nền kinh tế có những dấu hiệu mất cân đối,
mất cân đối giữa cung - cầu hàng hóa và cung - cầu tiền,… Lạm phát là một
vấn đề lớn, khó và phức tạp nên mỗi khi nó xuất hiện lại đòi hỏi nhiều tâm trí,
sức lực của các nhà kinh tế, các nhà khoa học, các nhà chính trị và các nhà
quản lý để tìm ra những giải pháp kiềm chế, tránh hậu quả do nó gây ra. Trong
lịch sự nhiều nhà kinh tế đã đưa ra những quan điểm khác nhau về lạm phát:
Theo trường phái lạm phát “lưu thông tiền tệ” (đại diện là Milton Priedman)
họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa (bất kể kim loại hay tiền
giấy) vào lưu thông làm cho giá cả hàng hóa tăng lên. Chúng ta đều biết rằng
không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu

nhanh hơn sản xuất cũng là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội
dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân
sách. K.Mazx đã chỉ ra rằng ý nghĩa về lạm phát của học thuyết này là quá đơn
giản. Những người theo học thuyết này đã dùng logic hình thức để kết hợp một
cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra
bản chất kinh tế của lạm phát.
Trường phái lạm phát “cầu dư thừa tổng quát” (hay “cầu kéo”) mà đại diện
là J.M.Keynes cho rằng: lạm phát là “cầu dư thừa tổng quát do phát hành tiền
ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng. Có
thể nói được rằng “cầu dư thừa tổng quát” là không chính xác, vì trong giai
đoạn khủng hoảng ở thời kỳ CNTB phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất


thừa mà vẫn có lạm phát. Thêm vào đó ở Việt Nam trong năm 1991 có tình
trạng cung lớn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes
đã tiến sâu hơn trường phái lạm phát lưu thông tiền tệ là không lấy hiện tượng
bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng
lại mắc sai lầm về mặt logic là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của
lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn chưa nêu được đúng bản chất kinh tế - xã
hội của lạm phát.
Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá.Thực chất
lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của sự tăng giá.Có những thời kỳ
tăng giá mà không có lạm phát như: thời kỳ “cách mạng giá cả”ở thế kỷ XVI ở
Châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa…
tăng giá chỉ là hệ quả, một tín hiệu dễ nhận thấy của lạm phát nhưng có lúc
tăng giá lại là nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra do tăng nhiều thứ
chứ không đơn thuần là tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn
lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và
lạm phát.
Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền

giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các
đại diện tiền giấy của mình".Điều này, có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy
do Nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện
thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và
nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: " Lạm phát là
sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian".
Như vậy có thể hiểu là “lạm phát là sự gia tăng giá kéo dài, là sự thừa các
đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp
bội chi ngân sách”.Hay lạm phát là chính sách đặc biệt nhanh chóng và tối đa
trong các hình thức phân phối lại giá trị vật chất xã hội mà giai cấp cầm quyền


sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Nhưng nói chung, lạm phát là một hiện
tượng của nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Phân loại lạm phát
1.1.2.1.

Xét về mặt định lượng

Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia
lạm phát thành:
 Lạm phát một con số mỗi năm (có tài liệu gọi là lạm phát vừa phải):
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới
10% /năm. Đây là mức lạm phát nền kinh tế có thể chấp nhận được, với
mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng
kể.
 Lạm phát hai con số mỗi năm: khi tỷ lệ tăng, giá cả bắt đầu tăng đến hai
con số mỗi năm. Ở mức lạm phát hai con số thấp (11.12.13% năm), nói
chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền kinh tế có

thể vẫn chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ ở mức hai con số cao, lạm phát
sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực
của nó là không nhỏ. Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe dọa đến sự
ổn định của nền kinh tế.
 Siêu lạm phát: tùy theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài các loại
lạm phát trên đây còn có loại lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi đây là
lạm phát này là siêu lạm phát vì nó có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ
tăng rất nhanh.Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó tới đời
sống và nền kinh tế trở nên nghiêm trọng. Kinh tế suy sụp một cách
nhanh chóng, thu nhập thực tế của người lao động giảm.
1.1.2.2.

Về mặt định tính

 Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
-

Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập. Do vậy lạm


phát không ảnh hưởng đến đời sống người lao động.
-

Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu

nhập.Trong thực tế lạm phát không cân bằng thường xảy ra nhất.
 Lạm phát dự đoán trước và dự đoán bất thường
-

Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối


dài với tỷ lệ hàng năm khá đều đặn và ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán
trước lạm phát cho nhưng năm tiếp theo.Về mặt tâm lý, người dân đã quen với
tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị trước để thích nghi với
tính trạng lạm phát này.
-

Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa

hề xuất hiện. Do vậy , về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều
chưa được thích nghi.Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế
và sự tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.

1.1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.1.3.1.

Lạm phát do mức cung tiền tăng cao liên tục

Đây là quan điểm của các nhà kinh tế theo trường phái trọng tiền. Quan
điểm này cho rằng lạm phát là kết quả của việc tăng thêm tiền với một tỷ lệ
cao. Nó cũng cho rằng lạm phát là kết quả của tăng trưởng tiền tệ cao song
cũng phải thừa nhận lạm phát cao kéo theo sự tăng trưởng tiền tệ cao. Milton
Friedman đưa ra một câu nói nổi tiếng trong ý kiến đề xuất của mình để dập tắt
lạm phát trong những năm 60 ở Mỹ: “Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một
hiện tượng của tiền tệ”.Có thể nói đây là sự đồng nhất giữa J.M.Keynes và
M.Friedman trong phân tích nguyên nhân và bản chất của lạm phát.
M.Friedman nói “Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số
lượng tiền trong lưu thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất”. Ông chỉ ra rằng
mọi trường hợp mà tỷ lệ lạm phát của một nước là cực kỳ cao thì tỷ lệ tăng



trưởng và cung tiền tệ cũng cực kỳ cao. Thực ra kết quả luận này dựa trên hai
điều:


Thứ nhất, các nhà tiền tệ cho rằng lạm phát gây ra bởi sự dư thừa tổng cầu
so với tổng cung, và nguyên nhân của sự dư thừa này là có quá nhiều tiền
trong lưu thông. Nếu cách giải thích này đúng về mặt lịch sử thì nó khẳng
định rằng lạm phát gây ra bởi sức ép từ phía cầu, chứ không phải từ phía
cung.



Thứ hai, nó giả sử rằng mối quan hệ nhân quả bắt nguồn từ tác động của
cung ứng tiền đến mức giá, chứ không phải là giá cả tăng lên làm tăng
lượng tiền cung ứng.
Điểm khởi đầu cho lý thuyết số lượng là quan sát cho thấy dân cư giữ tiền

chủ yếu để mua hàng hóa và dịch vụ. Giả sử Y là mức sản lượng mà nền kinh
tế tạo ra trong một năm và P là mức giá của một đơn vị sản phẩm điển hình, khi
đó số đồng được trao đổi trong năm bằng P*Y. Vì tiền trao tay khi giao dịch,
chúng ta có thể sử dụng thông tin này để dự đoán số lần mà tờ giấy bạc điển
hình trao tay trong năm. Nếu chũng ta ký hiệu V là tốc độ chu chuyển, tức là số
lần trung bình mà một tờ giấy bạc điển hình được sử dụng để mua hàng hóa và
dịch vụ trong một năm, và M là cung tiền, thì số đơn vị tiền tệ trao đổi trong
năm cần phải là M*V. Như vậy chúng ta có đồng nhất thức:
M*V=P*Y
Đó là phương trình số lượng, bởi vì nó phản ánh mối quan hệ giữa lượng
tiền cung ứng M và GDP danh nghĩa (P*Y). Phương trình số lượng này cho
thấy sự gia tăng lượng tiền trong nền kinh tế phải được phản ánh ở một trong

ba biến số khác: mức giá phải tăng, sản lượng phải tăng, hoặc tốc độ chu
chuyển tiền tệ phải giảm.
Nhìn chung, tốc độ chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Khi
đó, lạm phát (P tăng) chỉ có thể xảy ra khi lượng tiền cung ứng (M) tăng nhanh
hơn sản lượng (Y): tốc độ tăng cung tiền càng cao thì lạm phát càng cao (khi


các nhân tố khác không thay đổi). Đồng thời, các biện pháp chính sách mà một
nước cần thức hiện để giảm lạm phát chính là cắt giảm tốc độ cung ứng tiền tệ.
Như vậy, theo quan điểm này, chính sách tiền tệ là chính sách then chốt nhằm
kiểm soát lạm phát; và chính sách tài khóa cũng có thể ảnh hưởng đến lạm phát
bởi vì thâm hụt ngân sách của chính phủ có xu hướng làm tăng cung tiền.
Có thể nói quan điểm về lạm phát “Lưu thông tiền tệ được cả những
người theo chủ nghĩa tiền tệ (M.Friedman) và cả những người theo trường
phái J.M.Keynes thừa nhận đã chứng tỏ phần nào sự đồng nhất trong việc
phân tích nguyên nhân và bản chất của lạm phát. Ở đây người ta tin rằng lạm
phát cao là kết quả của tăng trưởng tiền tệ cao song cũng phải thừa nhận “
nhân quả ngược” tức lạm phát cao kéo theo một sự tăng trưởng tiền tệ cao.
1.1.3.2.

Lạm phát do cầu kéo và lạm phát do chi phí đẩy

a. Lạm phát cầu –kéo (Demand pull inflation)
Nguyên nhân này xảy ra khi tổng cầu trong nền kinh tế cao hơn tổng cung
trong cùng thời điểm đó. Trường hợp này xuất hiện có thể là do tổng cầu tăng
nhưng tổng cung không đổi hoặc tổng cung cũng tăng nhưng không tăng bằng
tổng cầu.
Lạm phát cầu kéo giải thích rằng: khi tổng cầu tăng tức là có nhiều người
muốn mua và sẵn sàng mua hàng hóa, trong khi đó lượng cung không tăng
hoặc tăng không bằng tổng cầu, thì đương nhiên trên thị trường sẽ xảy ra thiếu

hụt hàng hóa, theo quy luật cung cầu thì trong trường hợp này giá cả hàng hóa
tăng lên là điều tất yếu. Như vậy đã xuất hiện lạm phát.
Tổng cầu trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu hộ gia đình – C, chi tiêu của
chính phủ - G, đầu tư trong nền kinh tế - I, nhu cầu hàng hóa cho xuất khẩu –
M, hàng hóa nhập khẩu làm phong phú thêm hàng hóa trong nước làm giảm
căng thẳng của tổng cầu nên được biểu diễn bằng dấu (-) trong biểu thức cộng
các yếu tố của tổng cầu.nếu gọi tổng cầu là AD thì:


AD = C + I+ G + X – M
Tổng cầu tăng có thể do một hoặc một số các yếu tố trong vế bên phải của biểu
thức tăng:
 Các hộ gia đình tăng chi tiêu do thu nhập tăng, hoặc được chính phủ giảm
thuế, tăng trợ cấp hoặc cảm thấy các chế độ an sinh xã hội hay bảo hiểm tốt
nên quyết định cắt giảm tiết kiệm để chi tiêu.
 Chính phủ tăng các khoản chi tiêu cho an ninh quốc phòng, tăng các khoản
đầu tư cũng làm tăng tổng cầu.
 Các doanh nghiệp tăng đầu tư do xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh hấp
dẫn.
 Kim ngạch XNK thay đổi theo hướng chênh lệch (X-M) ngày càng tăng do
đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ, chât lượng sản phẩm ngày càng tốt
hơn nên bán được nhiều hơn.
b. Lạm phát do chi phí đẩy ( Cost push inflation)
Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc
năng lực sản xuất của nền kinh tế sụt giảm. Chi phí đầu vào tăng có thể do giá
các nguồn nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất tăng giá. Điều kiện khai thác
khó khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí hơn; thiên tai mất mùa lụt bão, động đất
làm giảm năng lực sản xuất; khủng hoảng dầu mỏ do các liên minh dầu mỏ
tăng giá hoặc chiến tranh vùng vịnh làm tăng giá, giá dầu tăng làm tăng chi phí
cho ngành năng lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào cho các ngành khác. Các

chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành phẩm và buộc doanh nghiệp phải tăng
giá bán để bù đắp chi phí. Giá bán tăng tạo lạm phát. Nhưng mặt khác giá bán
tăng, theo quy luật cung cầu làm cho tổng cầu giảm xuống, các doanh nghiệp
sẽ cắt giảm sản xuất sa thải nhân công. Hậu quả làm cho nền kinh té lúc này
vừa lạm phát, vừa suy thoái. Chính vì vậy loại lạm phát này được gọi là loại
lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát kèm theo suy thoái.
Ba loại chi phí có thể gây ra lạm phát đó là: tiền lương, thuế gián thu và giá


nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên
cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện.
Vòng xoáy đi lên tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu
chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng nới lỏng tiền tệ.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời tất cả các nhà sản
xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu,
các loại lệ phí bắt buộc ) đóng vai trò quan trọng vì chúng trực tiếp tác động
đến giá cả hàng hóa. Đối với nền kinh tế, nhập khẩu nhiều nguyên vật liệu cần
thiết mà nền công nghiệp trong nước chưa thể sản xuất được, thì sự thay đổi giá
cả của chúng (có thể do giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá biến động) sẽ ảnh
hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát trong nước.
Nếu lạm phát do cầu kéo ở mức vửa phải là một điều rất tốt cho nền kinh
tế, nó sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất, người ta còn ví nó như một chất
dầu mỡ dùng để bôi trơn cho bộ máy kinh tế. Nhưng lạm phát chi phí đẩy thì
dù bất cứ ở mức độ nào cũng không tốt, vì bản thân nó mang trong mình sự suy
thoái kinh tế. Cung một hiên tượng lạm phát, nhưng bản chất và nguyên nhân
khác nhau nên tác động cảu chúng là khác nhau.
1.1.3.3.

Lạm phát do chênh lệch cơ cấu


Lạm phát do thiên lệch trong cơ cấu kinh tế hoặc do bóp méo giá cả. Dễ
thấy nhất là khi nền kinh tế phụ thuộc lớn vào nông nghiệp. Mỗi khi có thiên
tai, mất mùa, dịch bệnh gây hại nguồn thực phẩm chính đều ảnh hưởng trực
tiếp mạnh mẽ đến tăng giá; bắt đầu từ lương thực, thực phẩm sau đó là phản
ứng dây chuyền đến nhiều loại hàng hóa khác. Tình trạng lạm phát của Việt
Nam trong các năm từ 1979 đến 1986 và đến 1990, đều có nguyên nhân từ
lương thực, do cơ cấu kinh tế lúc ấy phần lớn phụ thuộc vào nông nghiệp và
sản xuất gạo. Lạm phát do cơ cấu còn do nguyên nhân khó nhận thấy hơn đó là
sự thiên lệch trong chính sách. Việc khuyến khích một ngành này bằng cách tập
trung các nguồn lực có thể có làm nhiều ngành khác không có điều kiện phát


triển. Giá cả của hàng hóa được khuyến khích có thể rẻ tương đối, nhưng nhiều
loại hàng hóa cần thiết khác lại quá đắt làm cho cơ cấu giá cả bị bóp méo.
Chính sách bảo hộ hàng trong nước không chỉ làm cho giá cả hàng hóa được
bảo hộ có mức giá cao gây bóp méo cơ cấu giá mà còn tạo ra kênh phân phối
độc quyền. Với các chủng loại hàng tiêu dùng thiết yếu, thì hệ thống phân phối
này sẽ thường xuyên làm “giá” với bất kỳ lý do nào từ chính sách trong nước,
tỷ giá hay việc nhập khẩu trở nên khó khăn.
Lạm phát do cơ cấu kinh tế lạc hậu sẽ thay đổi khi cơ cấu kinh tế thay đổi.
Nhưng lạm phát do sự thiên lệch trong chính sách thì sự thay đổi phức tạp hơn
nhiều.
1.1.3.4.

Một số nguyên nhân khác

a. Lạm phát do thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách cúng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng
tiền tệ và gây lạm phát cao.
Ở các nước đang phát triển do thị trường tài chính còn hạn chế nên việc

phát hành trái phiếu để bù đắp cho thiếu hụt ngân sách là rất khó thực hiện, con
đường duy nhất của họ là “ sử dụng máy in tiền”. Biện pháp này làm tăng cung
ững tiền tệ, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát.
b. Lạm phát do tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng
là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Thứ nhất, khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá , trước hết nó tác động lên tâm
lý của những người sản xuất trong nước, muốn kéo mức hàng lên theo mức
tăng của tỷ giá hối đoái.
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu ,hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao,


đẩy chi phí về nguyên vật liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi phí đẩy
như đã phân tích pử trên. Việc tăng giá cả của nguyên vật liệu và hàng hóa
nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều các
hàng hóa khác, đặc biệt là các hàng hóa của những ngành sử dụng nguyên liệu
nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau ( nguyên liệu của
ngành này là sản phẩm của ngành khác).
c. Lạm phát do tâm lý
Khi thông tin trên thị trường không hoàn hảo gây ra tình trạng xao động tâm
lý trong tầng lớp dân cư và doanh nghiệp. Đặc biệt, thông tin sai lệch này lại do
các nhà đầu cơ gây ra nhằm găm hàng để trục lợi. Lạm phát do tâm lý thường
xảy ra ở những quốc gia có mạng lưới kiểm tra, kiểm soát thị trường không
hoàn hảo tạo điều kiện cho các hành vi gian lận thương mại diễn ra.
1.2.

Tác động của lạm phát
Trên thực tế, nhiều nước chứng tỏ không thể triệt tiêu được lạm phát trong

kinh tế thị trường dù đạt trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất. Nếu

giữ được lạm phát ở mức độ nền kinh rế chịu được, cho phép có thể mở thêm
việc làm, huy động thêm các nguồn lực phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế.
Nếu tỷ lệ tăng trưởng cao, tỷ lệ lạm phát quá thấp thì dấn tới tình trạng các
ngân hàng ứ đọng vốn, làm ảnh hưởng tới sự phát triển.
Vì thế trong trường hợp đó người ta phải cố gắng tăng tỷ lệ lạm phát lên.
Khi chính phủ kiểm soát lạm phát ở mức độ nền kinh tế chịu được (tỷ lệ lạm
phát dưới 10%) thì vừa không gây đảo lộn lớn, các hệ quả của lạm phát được
kiểm soát ,vừa sức che chắn hoặc chịu đựng được của nền kinh tế. Hơn nữa,
một sự hy sinh nào đó do mức lạm phát được kiểm soát đó mang lại được đánh
đổi bằng sự tăng trưởng, phát triển kinh tế mở ra nhiều việc làm hơn, thu nhập
danh nghĩa có thể được tăng lên cho mỗi người lao động nhờ có đủ việc làm
hơn trong tuần, trong tháng hoặc tăng thêm người có việc làm, tăng thu nhập
trong gia đình và cả tầng lớp lao động do thất nghiệp giảm. Đến lượt nó, thu


nhập bằng tiền tăng lên thì tăng thêm sức kích thích của nhu cầu tiền tệ và sức
mua đối với đầu tư, tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Nhưng khi tỷ lệ lạm phát từ hai con số trở lên (lạm phát phi mã hoặc siêu
lạm phát) thì hầu như tác động rất xấu tới nền kinh tế như sự phân phối và phân
phối lại một cách bất hợp lý giữa một nhóm dân cư hoặc các tầng lớp trong xã
hội và các chủ thể trong các quan hệ về mặt tiền tệ trên các chỉ tiêu mang tính
chất danh nghĩa (chỉ tiêu không tính đến yếu tố lạm phát, không tính đến sự
trượt giá của đồng tiền). Mặt khác tỷ lệ lạm phát cao phá hoại và đình đốn nền
sản xuất xã hội do đó độ rủi ro cao, không ai giám tính toán đầu tư lâu dài,
những hoạt động kinh tế ngắn hạn từng thương vụ, từng đợt, từng chuyến diễn
ra phổ biến, trong xã hội xuất hiện tình trạng đầu cơ tích trữ, dẫn đến khan
hiếm hàng hóa. Điều đó lại làm giác càng tăng, và xã hội rơi vào vòng luẩn
quẩn, lạm phát càng tăng dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, xã hội. Tỷ lệ lạm
phát cao còn có ảnh hưởng xấu tới quan hệ kinh tế quốc tế.
Lạm phát đối với các mặt của đời sống kinh tế xã hội:

 Đối với lĩnh vực sản xuất:
Đối với lĩnh vực sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự
mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu
quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra
những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận
thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
 Đối với lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng
hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông.
Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực
sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu


thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa
mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu
thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
 Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu
hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống
ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu
cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều
chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt
nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự
mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống
ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn
chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì
chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
 Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước.
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá.

Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của
giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những
doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu
vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho
phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ
đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà
nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã
hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
Do đó chính phủ phải có giải pháp khắc phục, kiềm chế và kiểm soát lạm
phát. Có rất nhiều giải pháp để kiểm soát lạm phát nhưng ở đề tài này tác giả
chỉ nêu ra giải pháp sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát.


1.3.

Quan niệm về chính sách tiền tệ

1.3.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng
nhất mà nhà nước giao cho ngân hàng trung ương (NHTW) thực hiện. Ở mỗi
quốc gia khác nhau có đề cập tới CSTT với những quan điểm khác nhau.
Theo quan điểm của Frederic S.Mishkin – trường đại học Columbia (Mỹ) –
thì CSTT chính là việc mà Cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System –
FED) sử dụng đến 3 công cụ để điều tiết cung ứng tiền tệ: nghiệp vụ thị trường
tự do nghiệp vụ này ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ; thay đổi lãi suất chiết khấu,
thay đổi này ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, bằng cách này ảnh hưởng đến lượng
vay chiết khấu; và thay đổi dự trữ bắt buộc (DTBB), thay đổi này làm ảnh
hưởng đến cơ số nhân tiền tệ.
Quan điểm của NHTW châu Âu (ECB) về CSTT như sau: công cụ chính là
lãi suất ngắn hạn để thực hiên mục tiêu chính của CSTT là ổn định giá cả khu

vực Châu Âu trong thời kỳ trung hạn.
Theo quan điểm của ngân hàng nhân dân Trung Quốc: mục tiêu của CSTT
là ổn định giá trị đồng tiền và theo cách đó đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế.
Còn ở Việt Nam, theo điều 3, luật ngân hàng nhà nước Việt nam
(NHNNVN) năm 2010, số 46/2010/QH12 quy định: Chính sách tiền tệ quốc
gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng
chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện
mục tiêu đề ra.
Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động ngân hàng; có chính sách để
động viên các nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực nước
ngoài, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, bảo đảm vai trò
chủ đạo và chủ lực của các tổ chức tín dụng (TCTD) nhà nước trong lĩnh vực


tiền tệ và hoạt động ngân hàng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
quyền quốc gia , mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần thưc hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Chính sách tiền tệ có một vai trò quan trọng và tương lối độc lập với các
chính sách quốc gia khác xuất phát từ ba luận điểm mang tính định hướng sau:
(i) thứ nhất, sẽ không có tăng trưởng kinh tế nếu không có đầu tư; (ii) thứ hai,
không thể có đầu tư mà không có tiết kiệm; (iii) thứ ba, không thể có tiết kiệm
nếu thiếu sự ổn định giá cả hàng hóa và sức mua của tiền tệ. Chính vì vậy,
chính sách tiền tệ có nhiệm vụ tác động vào nhiều hướng nhằm: tạo ra đầu tư,
tạo ra tiết kiệm và tạo ra sự ổn định tiền tệ, ổn định tỷ giá.
Tuy có rất nhiều quan điểm khác nhau về CSTT nhưng về cơ bản thì CSTT
là chính sách kinh tế vĩ mô mà NHTW thực hiện nhằm tác động vào cung tiền
tệ, đảm bảo mục tiêu ổn định hay tăng trưởng kinh tế. Có thể nói sử dụng chính
sách tiền tệ sao cho hiệu quả là một vấn đề hiện đang được tranh cãi rất nhiều

vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng kinh tế. Tuy điều hành CSTT giữa
các thời kỳ, các giai đoạn phát triển kinh tế ở mỗi nước khác nhau song việc
xây dựng và thực thi CSTT của các NHTW đều hướng tới mục tiêu tăng trưởng
hay ổn định nền kinh tế. Một chính sách tiền tệ thắt chặt (Tight- Monetary
Policy) sẽ dẫn tới khan hiếm về tiền tệ và đắt đỏ về chi phí. Ngược lại, một
chính sách tiền tệ nới lỏng (easy- Monetary policy) sẽ làm cho tiền tệ gia tăng,
kích thích tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
1.3.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.3.2.1.

Mục tiêu cuối cùng

Mục tiêu cuối cùng của CSTT là mục tiêu về ổn định và tăng trưởng. Mục
tiêu ổn định bao gồm: ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài
chính và ổn định tỷ giá.Về mục tiêu tăng trưởng bao gồm đảm bảo công ăn việc
làm và có tăng trưởng kinh tế.


a. Mục tiêu ổn định
-

Ổn định về giá cả: ổn định giá cả được coi là mục tiêu của chính sách

kinh tế. Ổn định giá cả là điều ai cũng mong muốn bởi vì giá cả tăng lên (lạm
phát) gây nên tình trạng bấp bênh trong nền kinh tế. Một ví dụ cực đoan nhất
của giá cả không ổn định là siêu lạm phát mà Đức đã trả qia những năm 19211923.Trong hai năm của siêu lạm phát, hoạt động kinh tế của Đức (tính bằng
tổng sản phẩm quốc dân) bị giảm sút nghiêm trọng vì phải gánh chịu mức chi
phí do mức giá cả tăng lên.
-


Ổn định lãi suất: Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biến

động của lãi suất làm cho nền kinh tế bấp bênh và càng khó lập kế hoach cho
tương lai. Biến động của lãi suất nảh hưởng đến lượng dự trữ, mức chi tiêu của
người dân và đông thời khả năng mở rộng khả năng sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp. Một lãi suất ổn định sẽ giúp các thành phần trong nền kinh
tế hoạch định được cụ thể cho tiêu dùng và sản xuất kinh doanh trong tương lai.
-

Ổn định các thị trường tài chính: Ổn định thị trường tài chính là một vấn

đề quan trọng của nền kinh tế. Bởi lẽ, thị trường tài chính là nơi giao dịch các
nguồn tài chính, mà thực chất là giao dịch của các khối tài sản của nền kinh tế,
được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và các công cụ có giá trị như tiền tệ,
thường được gọi là các công cụ tài chính hay hàng hóa tài chính. Như vậy ổn
định thị trường tài chính, trước hết là sự ổn định sức mua của các đơn vị tiền tệ
quốc gia. Sự ổn định này có thể hiểu cả trên hai mặt. Thứ nhất, giá cả hàng hóa
và dịch vụ không biến động. Thứ 2, tỷ giá của nội tệ so với các ngoại tệ mạnh
không biến động.
-

Ổn định tỷ giá: với tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái trong thương mại

quốc tế, ổn định tỷ giá trở thành mục tiêu quan trọng của CSTT. Ổn định tỷ giá
mang lại cơ hội trao đổi ngoại thương cho các chủ thể của nền kinh tế, dễ dàng
hơn trong việc hoạch định được hoạt động trao đổi trong tương lai.
Việc phân nhỏ các mục tiêu ổn định trong mục tiêu cuối cùng nhằm mong
muốn sự phối hợp hoạt động của các cơ quan, các sở ban ngành các cấp để có
thể cùng hoàn thành các mục tiêu một cách đúng đắn và chính xác nhất.



b. Mục tiêu tăng trưởng
-

Đảm bảo công ăn việc làm: trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao

động trở thành hàng hóa thì hiện tượng thất nghiệp là một hiện tượng tất yếu
xảy ra. Do vậy, đảm bảo công ăn việc làm là một yêu cầu bức thiết và thường
trực của mỗi quốc gia. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm, nói chung chủ yếu
phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế được mở rộng và
phát triển thì việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và ngược lại,
khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm giảm, thất nghiệp tăng.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả
của của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Mặt khác,
nhà kinh tế học tên là Arthur Okun đã phát hiện ra một quy luật rằng: khi tổng
sản phẩm quốc nội (GNP) thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất
nghiệp tăng 1%. Như vậy, nếu GNP thực tế lúc bắt đầu là 100% tiềm năng và
sau đó giảm xuống còn 98%GNP tiềm năng tỷ lệ thất nghiệp tăng từ x% lên
(x+1)%. Hay nói một cách tổng quát, hiện tượng suy thoái kinh tế theo chu kỳ
sẽ làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng. Những phân tích trên cho thấy vai trò của
NHTW khi thực hiện mục tiêu này là phải vận dụng các công cụ của mình góp
phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh nhằm mục đích khống
chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tạo ra một
lượng công ăn việc làm cao.
-

Tăng trưởng kinh tế: mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với mục

tiêu việc làm cao. CSTT có thể tác động đồng thời đến hai mục đích này. Khi
cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến

khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp có nhu
cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư,
thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp cần ít lao
động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại.


Rõ ràng sự phối hợp của hai mục tiêu ổn định và tăng trưởng là rất quan
trọng. Bởi vì, không phải cùng một lúc mà cả hai mục tiêu đó đều có thể thực
hiện được mà không có sự mâu thuẫn với nhau. Do vậy, khi đặt ra mục tiêu cho
CSTT cần phải có sự dung hòa. Cụ thể là phải tùy lúc, tùy thời, tùy điều kiện
cụ thể mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Muốn vậy, NHTW phải luôn nắm bắt được
thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu, nhằm điều tiết chúng khi
có sự thay đổi bằng những giải pháp thích hợp.
1.3.2.2. Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ
Để biết các mục tiêu cuối cùng nói trên có được thực hiện hay không, thì
NHTW phải chờ một thời gian (thường là một năm – khi kết thúc năm tài
chính). Lúc này nếu kết quả thực hiện không đạt được như mục tiêu đề ra, thì
đã quá muộn để tiến hành bất kỳ một sự sửa chữa nào. Do vậy, bên cạnh các
mục tiêu cuối cùng, NHTW còn phải xác định các mục tiêu trung gian của
CSTT nhằm đạt được đến mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu chung gian của CSTT là mục tiêu do NHTW lựa chọn nhằm đạt
được mục tiêu cuối cùng và phải có liên hệ với mục tiêu cuối cùng. Tiêu chuẩn
để NHTW lựa chọn mục tiêu trung gian là: có thể đo lường được một cách
chính xác và nhanh chóng để NHTW điều chỉnh hướng tác động khi cần thiết,
có khả năng kiểm soát được và có liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng (đây
là tiêu chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung gian).Với những tiêu chuẩn
đó, các mục tiêu trung gian của CSTT thường được các NHTW sử dụng là: chỉ
tiêu tổng hợp lượng tiền cung ứng, lựa chọn MS là lượng tiền trung gian phải
thả nổi lãi suất; chỉ tiêu lãi suât; để duy trì mục tiêu lãi suất, mức cung tiền và

tiền cơ sở sẽ bị biến động.
1.3.2.3. Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ
Để đạt được các mục tiêu trung gian trên, mục tiêu trung gian lại tiếp tục
được chi tiết hóa bằng những mục tiêu hành động.


Mục tiêu hoạt động của CSTT là mục tiêu do NHTW lựa chọn nhằm đạt được
mục tiêu trung gian. Nó có phản ứng tức thời với những thay đổi trong sử dụng
công cụ CSTT.Tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu hoạt động: có mối quan hệ mật
thiết với mục tiêu trung gian, NHTW có thể đo lường được, chịu sự tác động
của công cụ gián tiếp. Các chỉ tiêu thường được lựa chọn: về lượng là lượng
tiền cơ sở MB, dự trữ của các NHTM r, về giá là lãi suất liên ngân hàng, lãi
suất chiết khấu, lãi suất thị trường mở, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất tín
phiếu kho bạc.
Sơ đồ 1.1: Chiến lược mục tiêu cục dự trữ liên bang Mỹ
Những công cụ

số tiền
NhữngCơ
mục
tiêutệ

( tổn dự trữ+
số tiền bên
ngoài) =>
khối lượng
dự trữ

Thị trường mở
Dự trữ bắt buộc

Tỷ lệ chiết khấu

M1
Tỷ lệ lạm phát
M2
Những mục M3
tiêu
Mục tiêu cuối cùng
Tỷ lệ thất nghiệp
Lãi suất dài
hạn
Tỷ lệ tăng trưởng
Tổng nợ phi
GDP
tài chính

Tổng dự trữ
Lãi suất liên

hoạt động
ngân hàng trung gian
Trong ngắn hạn, NHTW không thể đạt được tất cả các mục tiêu ổn định và
tăng trưởng. Phần lớn NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ
yếu và dài hạn của CSTT, nhưng trong ngắn hạn đôi khi họ phải tạm thời từ bỏ
mục tiêu chủ yếu để khắc phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc ảnh
hưởng của các cú sốc cung đối với sản lượng. NHTW được coi là có quyền lực
làm việc này vì NHTW nắm trong tay các cung cụ điều chỉnh lượng cung tiền
tương ứng.
Có thể nói NHTW theo đuổi một mục tiêu trong dài hạn và đa mục tiêu
trong ngắn hạn. Các mục tiêu có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau không tách

rời nhưng xem xét trong thời gian ngắn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn
với nhau thậm chí triệt tiêu nhau. Vậy để dạt được các mục tiêu trên một cách
hài hòa NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các
chính sách vĩ mô khác.


×