Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

So sánh đối chiếu luật các tổ chức tín dụng năm 1997 với luật các tổ chức tín dụng năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.69 KB, 27 trang )

ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Thực tiễn kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân
hàng, tổ chức tín dụng là một trong những điều kiện cơ bản của sự phát triển kinh tế xã
hội, tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và phát huy vai trò đối với nền kinh tế và đời sống
xã hội, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp trong đó có biện pháp sử
dụng pháp luật. Chính vì điều đó vào ngày 24/5/1990 Chủ tịch hội đồng nhà nước Cộng
Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố lệnh số 38-LCT/HĐNN8 dưới hình thức là
Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính là văn bản pháp lý cao nhất
đầu tiên của Nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam về tổ chức và hoạt động của các tổ chức
tín dụng (gọi tắt là TCTD).
Trong thời kỳ diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ tại các nước trong khu
vực (năm 1997), việc đổ bể hàng loạt các TCTD và phá sản hàng loạt các doanh nghiệp
lớn đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn này, hoạt động
ngân hàng trong nước cũng gặp nhiều khó khăn do nhiều ngân hàng liên quan đến những
vụ án kinh tế lớn như vụ Tamexco, Epco - Minh Phụng... các khuôn khổ pháp lý được
quy định trong Pháp lệnh ngân hàng cũng không còn phù hợp nữa do có sự xung đột pháp
lý giữa Pháp lệnh ngân hàng với các luật pháp có liên quan như Bộ Luật Dân sự, Luật
Công ty… và chính trong Pháp lệnh ngân hàng cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế có nhiều
điều không còn phù hợp và không bảo vệ được lợi ích hợp pháp của các TCTD để thúc
đẩy, tạo điều kiện tốt nhất cho các tổ chức này hoạt động tốt.
Từ thực tiễn và bối cảnh nêu trên, Luật các TCTD đã được xây dựng và được Quốc
hội thông qua ngày 12/12/1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998. Khi Luật các
TCTD ra đời nó đã giải quyết được những yếu kém còn tồn tại trong Pháp lệnh ngân hàng
như nó đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các TCTD, cá nhân khi
tham gia quan hệ xã hội trong lĩnh vực ngân hàng… Tuy nhiên trong khoảng thời gian áp


dụng Luật các TCTD 1997 đến nay thì trước sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam và
những biến động lớn của nền kinh tế thế giới thì Luật các TCTD đã trở nên lạc hậu cần
phải thay đổi, bổ sung để phù hợp hơn vì thế đã dẫn tới sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật các TCTD năm 2004. Tuy nhiên, Luật các TCTD đã bộc lộ
nhiều hạn chế cần điều chỉnh, thay thế cho phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và
đáp ứng yêu cầu phát triển mới của kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Trước tình
hình đó căn cứ Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10, luật các TCTD
năm 2010 (luật số: 47/2010/QH12) đã ra đời và sẽ có hiệu lực vào 01/01/2011. Để chúng
ta có thể nắm và hiểu rõ được những thay đổi trong Luật năm 2010 và vận dụng nó một
cách hiểu quả thì nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “ SO SÁNH ĐỐI CHIẾU LUẬT CÁC

1


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 1997 VỚI LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM
2010”.

1. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT CÁC TCTD NĂM 1997, NHỮNG THÀNH TỰU VÀ
HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
Luật số 02/1997/QH10 được Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
khoá X, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 và được sửa đổi, bổ sung
ngày 15 tháng 06 năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 2004. Để có
cái nhìn khái quát về Luật các TCTD năm 1997 sau đây là những khát quái nội dung của
Luật các TCTD năm 1997.


1.1. Khái quát về Luật các TCTD năm 1997
Chương 1 - Những quy định chung: có 20 điều (từ Điều 1 đến Điều 20) quy định
về: phạm vi điều chỉnh; áp dụng Luật; áp dụng điều ước quốc tế và tập quán quốc tế trong
hoạt động ngân hàng với nước ngoài; chính sách của Nhà nước về xây dựng các loại hình
tổ chức tín dụng; chính sách tín dụng và chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp nhà
nước, nông nghiệp…Ngoài ra, chương 1 còn quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
ngân hàng; các loại hình tổ chức tín dụng; hoạt động ngân hàng của các tổ chức không
phải là tổ chức tín dụng; quyền hoạt động ngân hàng; quyền tự chủ kinh doanh; hợp tác
và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng; bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền; thời gian
giao dịch; trách nhiệm đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp và giải thích từ
ngữ.
Chương 2 – Tổ chức và điều hành các tổ chức tín dụng: có 3 mục gồm
Mục 1: Cấp giấy phép thành lập và hoạt động gồm 10 điều (từ Điều 21 đến Điều
31) quy định về: các vấn đề liên quan đến giấy phép như: thẩm quyền, điều kiện và hồ sơ
cấp giấy phép thành lập và hoạt động; thời hạn, lệ phí, sử dụng giấy phép; đăng kí kinh
doanh; điều kiện hoạt động; thu hồi giấy phép; điều lệ; những thay đổi phải được chấp
thuận.
Mục 2: Cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng có 4 điều (từ Điều 32 đến Điều 35)
quy định về: mở sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện; thành lập công ty, đơn vị sự
nghiệp; điều kiện, hồ sơ, thủ tục mở giao dịch, văn phòng đại diện, thành lập công ty;
chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, mua lại, giải thể; liên kết giữa các tổ chức tín dụng hợp tác.
Mục 3: Quản trị, điều hành và kiểm soát có 5 điều (từ Điều 36 đến Điều 40) với
nội dung về quản trị, điều hành, kiểm soát; hội đồng quản trị; ban kiểm soát; tổng giám
đốc (giám đốc); những người không được là thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
người điều hành.
Mục 4: Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ có 4 điều (từ Điều 41 đến Điều 44)
quy định về: hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ và báo cáo kiểm tra, kiểm toán nội bộ.

2



ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

Chương 3 – Hoạt động của tổ chức tín dụng gồm 5 mục:
Mục 1: Huy động vốn có 4 điều (từ Điều 45 đến Điều 48) quy định về: các nghiệp
vụ huy động vốn như: nhận tiền gửi; phát hành giấy tờ có giá; vay vốn giữa các tổ chức
tín dụng; vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
Mục 2: Hoạt động tín dụng có 16 điều (từ Điều 49 đến Điều 64) quy định về: cấp
tín dụng; loại cho vay; hợp đồng tín dụng; bảo đảm tiền vay; xét duyệt cho vay, kiểm tra
việc sử dụng tiền vay; chấm dứt cho vay, xử lý nợ, điều chỉnh lãi suất; lưu trữ hồ sơ tín
dụng; quyền và nghĩa vụ của khách hàng vay; chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; bảo lãnh ngân hàng; quyền, nghĩa vụ của tổ
chức tín dụng thực hiện bảo lãnh; nghĩa vụ của người được bảo lãnh; cho thuê tài chính;
quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê; quyền và nghĩa vụ của bên thuê; hoạt động tín dụng
của tổ chức tín dụng hợp tác.
Mục 3: Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ có 4 điều (từ Điều 65 đến Điều 68) quy
định về: mở tài khoản; dịch vụ thanh toán; dịch vụ ngân quỹ; tổ chức và tham gia các hệ
thống thanh toán.
Mục 4: Các hoạt động khác có 8 điều (từ Điều 69 đến Điều 76) quy định về: góp
vốn, mua cổ phần; tham gia thị trường tiền tệ; kinh doanh ngoại hối và vàng; nghiệp vụ
ủy thác và đại lý; kinh doanh bất động sản; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm; dịch vụ tư
vấn; các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Mục 5: Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng có 6
điều (từ Điều 77 đến Điều 82) quy định về: những trường hợp không được cho vay; hạn
chế tín dụng; giới hạn cho vay và bảo lãnh; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ lệ bảo đảm
an toàn; dự phòng rủi ro.
Chương 4 – Tài chính, hạch toán, báo cáo có 8 điều (từ Điều 83 đến Điều 90) quy
định về: vốn pháp định, thu và chi tài chính, năm tài chính, hạch toán các quỹ, mua và đầu

tư vào tài sản cố định, báo cáo, công khai báo cáo tài chính.
Chương 5 – Kiểm soát đặc biệt, phá sản, giải thể, thanh lý gồm có 2 mục:
Mục 1: Kiểm soát đặc biệt có 7 điều (từ Điều 91 đến Điều 97) quy định về: báo cáo
khó khăn về khả năng chi trả; áp dụng kiểm soát đặc biệt; quyết định kiểm soát đặc biệt;
nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của ban kiểm soát đặc biệt; trách nhiệm của tổ chức
tín dụng được kiểm soát đặc biệt; khoản vay đặc biệt; kết thúc kiểm soát đặc biệt.
Mục 2: Phá sản, giải thể, thanh lý có 3 điều (từ Điều 98 đến Điều 100) quy định về:
phá sản, giải thể, thanh lý tổ chức tín dụng.
Chương 6 – Thông tin và bảo mật gồm có 4 điều (từ Điều 101 đến Điều 104) quy
định về: thông tin cho chủ tài khoản; trao đổi thông tin cho các tổ chức tín dụng; trao đổi
thông tin giữa Ngân hàng Nhà nước với tổ chức tín dụng, bảo mật thông tin ngân hàng.
Chương 7 – Tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng
nước ngoài tại Việt Nam có 9 điều (từ Điều 105 đến Điều 113) quy định về: hình thức
hoạt động; điều kiện để cấp giấy phép thành lập và hoạt động; thẩm quyền cấp giấy phép;

3


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

hồ sơ xin cấp giấy phép; nội dung hoạt động; vốn và thu, chi tài chính của tổ chức tín
dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; hạch toán và báo cáo; chuyển lợi nhuận, chuyển
tài sản ra nước ngoài và các quy định khác.
Chương 8 – Quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt
động ngân hàng của các tổ chức tín dụng khác có 3 điều (từ Điều 114 đến Điều 116) quy
định về: thống nhất quản lý Nhà nước; nội dung quản lý Nhà nước về hoạt động ngân
hàng; cơ quan quản lý Nhà nước.
Chương 9 – Thanh tra ngân hàng, kiểm toán đối với các tổ chức tín dụng và hoạt

động ngân hàng của các tổ chức khác.
Mục 1: Thanh tra của Ngân hàng Nhà nước có 5 điều (từ Điều 117 đến Điều 121)
quy định về: thanh tra ngân hàng; quyền của tổ chức được thanh tra; nghĩa vụ của tổ chức
được thanh tra; quyền hạn của thanh tra ngân hàng; trách nhiệm của thanh tra ngân hàng.
Mục 2: Kiểm toán có 2 điều (từ Điều 122 đến Điều 123) quy định về kiểm toán và
trách nhiệm của kiểm toán viên.
Chương 10 – Khen thưởng và xử lý vi phạm có 5 điều (từ Điều 124 đến Điều 128)
quy định về: khen thưởng; các hành vi vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng; hình thức xử lý vi phạm; thẩm quyền xử lý vi phạm; khiếu nại, khởi kiện về quyết
định xử lý vi phạm hành chính.
Chương 11 – Điều khoản thi hành có 3 điều (từ Điều 129 đến Điều 131) quy định
về: quy định đối với các tổ chức đang hoạt động ngân hàng; hiệu lực thi hành; hướng dẫn
thi hành luật.

1.2. Đánh giá về tình hình thực hiện Luật các TCTD năm 1997
Cùng với sự phát triển kinh tế quốc gia, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 ra đời
đã mang lại những điểm tích cực về mặt pháp lý tạo điều kiện tổ chức, hoạt động và phát
triển của các TCTD.

1.2.1. Những thành tựu đạt được
Luật các TCTD năm 1997 được ban hành đã tạo ra nền tảng pháp lý cơ bản cho tổ
chức và hoạt động của các TCTD.
Luật các TCTD quy định rõ ràng vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân
hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nâng cao trách nhiệm của mình hơn trong việc
ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cấp và thu hồi giấy
phép, thanh tra và kiểm tra hoạt động của các TCTD.
Việc quy định về kiểm toán trong Luật này đã nâng cao tính minh bạch trong hoạt
động ngân hàng của các TCTD tạo điều kiện thuận tiện cho công tác quản lý Nhà nước
đối với hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng.
Luật Các TCTD đã tạo cơ hội thuận lợi cho các TCTD được quyền tự chủ kinh

doanh, hạn chế được sự can thiệp quá sâu vào hoạt động của TCTD và bước đầu tạo ra
môi trường tương đối bình đẳng cho các TCTD trong cạnh tranh. Luật cho phép các

4


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

TCTD được mở rộng hoạt động dưới các hình thức thành lập các công ty trực thuộc hoạt
động trên một số lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, quản lý nợ và khai thác tài sản ... và đầu tư
góp vốn thành lập các loại hình công ty theo quy định pháp luật. Qua đó, tạo cơ sở cho
phép các TCTD có năng lực tài chính, đặc biệt là loại hình ngân hàng phát triển theo
hướng đa năng, nâng cao khả năng cung ứng các loại hình dịch vụ liên quan hoạt động
ngân hàng, từ đó có thể nâng cao khả năng cạnh tranh.
Trước khi có Luật các TCTD, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm giữa Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành không rõ ràng, còn
chồng chéo, lạm quyền; cụ thể: tại các ngân hàng thương mại nhà nước vai trò của Hội
đồng quản trị gần như không được thể hiện, Ban kiểm soát gần như không hoạt động hoặc
hoạt động không hiệu quả, chịu sự chi phối của Tổng giám đốc. Tổng giám đốc các ngân
hàng thương mại nhà nước là người hầu như chi phối toàn bộ tổ chức và hoạt động của
ngân hàng. Tại các ngân hàng thương mại cổ phần, nhiều ngân hàng có Hội đồng quản trị
làm việc thường xuyên tại ngân hàng và trực tiếp phê duyệt công việc hàng ngày của ngân
hàng nên quyền hạn của Tổng giám đốc gần như không có, trong khi đó tại một số ngân
hàng khác, Hội đồng quản trị gần như không quan tâm đến hoạt động của ngân hàng để
Tổng giám đốc toàn quyền quyết định, thậm chí quyết định những vấn đề vượt thẩm
quyền. Hoạt động của Ban kiểm soát của khá nhiều TCTD hầu như không có hiệu quả.
Sau khi Luật các TCTD và các văn bản dưới Luật được ban hành, vai trò của ban kiểm
soát đã được khẳng định, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc

đã tách bạch rõ ràng hơn nên sự chồng chéo về quản lý đã được hạn chế một phần, tính
minh bạch và công khai thông tin đã ngày càng được thực hiện tốt hơn, các TCTD đã
từng bước quan tâm hơn đến công tác quản trị đối với TCTD.
Năm 1997, Luật Các TCTD được Quốc hội ban hành (Luật các TCTD năm 1997)
và được sửa đổi, bổ sung bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD năm
2003, có hiệu lực từ ngày 1/1/2004 (Luật các TCTD năm 2004). Bên cạnh những thành
tựu mà Luật các TCTD năm 1997 và Luật các TCTD năm 2004 mang lại cho thị trường
ngân hàng, tín dụng Việt Nam trong thời gian qua thì các luật này cũng bộc lộ những hạn
chế, bất cập, gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển kinh tế của đất nước và yêu
cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

1.2.2. Những hạn chế trong quá trình thực hiện
Có nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng trong Luật các
TCTD còn để ngỏ, chưa quy định cụ thể hoặc lại giao cho Chính phủ, Thống Đốc NHNN
quy định. Chính vì vậy, xảy ra vấn đề là tồn tại nhiều văn bản hướng dẫn dưới Luật gây
khó khăn cho việc thực thi Luật.
Tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng có liên quan đến nhiều Luật khác
như: Bộ Luật Dân Sự, Luật Doanh Nghiệp, Luật Chứng Khoán, Luật Đầu Tư, Luật Phá
Sản… mà các Luật này đều đã được thay đổi năm 2005 để phù hợp với những chuẩn mực
và thông lệ quốc tế. Trong khi đó, Luật các TCTD năm 1997 ra đời trong tình hình kinh tế
khác với giai đoạn 2005 (nền kinh tế nước ta đang dần hội nhập thế giới). Chính vì vậy,
Luật các TCTD năm 1997 đã có những sửa đổi bổ sung năm 2004; tuy nhiên còn chưa rõ

5


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH


ràng, đầy đủ và cụ thể. Ví dụ: Luật các TCTD chỉ nêu những vấn đề liên quan đến mô
hình tổ chức nhưng chưa quy định rõ loại mô hình của từng loại hình TCTD nên các
TCTD khó xây dựng được mô hình tổ chức cho mình trong điều kiện bị nhiều luật chi
phối như Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp Tác Xã…
Hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng chưa cao nên dẫn đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các TCTD chưa được đảm bảo. Ví dụ: trường hợp khách hàng
vay mà trả không đúng hạn thì ngân hàng có quyền phạt với lãi suất nợ quá hạn; tuy
nhiên, nếu khách hàng không trả mà ngân hàng kiện ra tòa thì căn cứ pháp lý để áp dụng
lại là lãi suất cơ bản do NHNN công bố mà lãi suất này thấp hơn lãi suất cho vay thông
thường của ngân hàng.
Một số vấn đề về cạnh tranh giữa các TCTD, độc quyền và điều chỉnh hoạt động
của các Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán… chưa có quy định cụ thể.
Luật các TCTD không quy định rõ những nghiệp vụ nào TCTD đương nhiên được
làm, những nghiệp vụ nào phải xin phép và những nghiệp vụ nào phải thành lập công ty
con. Việc góp vốn đầu tư thành lập công ty con, các loại hình khác hoạt động trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán… chưa được quy định rõ, nhất là quan
hệ tín dụng giữa ngân hàng mẹ và công ty con. Ví dụ: ngân hàng mẹ cho vay công ty con
là TCTD mà không bị ràng buộc thì dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa các công
ty và dẫn đến rủi ro.
Luật các TCTD không phân định rõ ràng hoạt động của ngân hàng và hoạt động
của TCTD phi ngân hàng, thiếu định nghĩa một số thuật ngữ cần thiết.
Thiết nghĩ rằng mọi việc đều có tính hai mặt của nó, bên cạnh những bất cập trong
quá trình thực hiện và những thiếu sót của luật để phù hợp với tình hình thực tế thì cũng
không thể phủ nhận những lợi ích mà Luật các TCTD năm 1997 đã mang lại cho lĩnh vực
Tài chính – Ngân hàng nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.

2. NHỮNG NÉT KHÁC BIỆT CỦA LUẬT CÁC TCTD NĂM 2010 SO VỚI LUẬT
HIỆN HÀNH
2.1. Những quy định chung :
Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, áp dụng luật và điều ước quốc tế; giải

thích từ ngữ, sử dụng các thuật ngữ liên quan đến hoạt động ngân hàng, hình thức pháp
lý của TCTD, ngân hàng chính sách, quyền tự chủ của TCTD, hợp tác, cạnh tranh, bảo vệ
quyền lợi của khách hàng, cung cấp và bảo mật thông tin, phòng chống rửa tiền, cơ sở dữ
liệu thông tin dự phòng:
Luật các TCTD năm 2010 đã có những thay đổi đáng kể về phạm vi điều chỉnh của
luật. Theo đó mở rộng hơn phạm vi điều chỉnh về việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm
soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng…, bên cạnh đó loại bỏ sự điều chỉnh
đối với các tổ chức không phải là TCTD và chuyển giao cho Chính phủ để qui định về tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng chính sách nhằm thực hiện những chính sách phát triển
xã hội. Trong đó nội dung về tổ chức quản lý là nội dung có thay đổi nhiều nhất.

6


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

Phần giải thích từ ngữ trong Luật các TCTD năm 2010 được đưa lên quy định tại
điều 4 thay vì qui định ở cuối phần qui định chung trong Luật các TCTD năm 1997( Điều
20) nhằm phù hợp với những thông lệ chung, đảm bảo tính logic và thuận tiện cho người
tìm hiểu luật. Bên cạnh đó Luật các TCTD năm 2010 còn cập nhật thêm những khái niệm
mới, bổ sung và làm rõ hơn cho những khái niệm được quy định ở Luật hiện hành. Cụ
thể:

 Quy định cụ thể về một tổ chức thế nào được xem là một tổ chức tín dụng “tổ chức là
doanh nghiệp thực hiện một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng, bao gồm: ngân hàng,
tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân”
( Khoản 1 Điều 4), chứ không nhập nhằn như trong việc quy định của Luật hiện hành
( Khoản 1 Điều 20 ) gây khó khăn cho việc xác định thế nào là một tổ chức tín dụng hay

là tổ chức khác có hoạt động ngân hàng.
 Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010 thì tiêu chí xác định một tổ
chức là TCTD được xác định dựa trên khái niệm “hoạt động ngân hàng”, bao gồm một
trong ba hoạt động: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán thay cho
việc phải đồng thời thực hiện cả ba hoạt động trên ( Khoản 1 Điều 20 Luật các TCTD
năm 1997).
 Ranh giới phân biệt hoạt động giữa các tổ chức tín dụng là ngân hàng và các tổ chức tín
dụng không phải là ngân hàng (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) được làm rõ hơn, theo đó
các tổ chức tín dụng phi ngân hàng không được phép nhận tiền gửi của dân cư (của các cá
nhân), không được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Quy định
này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và giảm bớt được rủi ro cho hệ
thống ngân hàng.
Các khái niệm mới được bổ sung thêm như khái niệm về công ty cho thuê tài
chính, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, giấy phép, công ty liên kết, công ty con của tổ chức tín dụng, các
hoạt động về cho vay, bao thanh toán, chiết khấu, tái chiết khấu, môi giới tiền tệ….
Về quy định “Bảo vệ quyền lợi của khách hàng”, Luật các TCTD năm 2010 quy
định: tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm tham gia tổ chức
bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật và công bố công khai việc tham
gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh. Việc tham gia bắt
buộc đối với các tổ chức tín dụng về bảo hiểm tiền gửi, công khai giấy chứng nhận bảo
hiểm tiền gửi tại các điểm giao dịch của các tổ chức tín dụng càng khẳng định rõ vai trò
của bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, giúp người gửi tiền yên
tâm hơn khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng.
Một thay đổi đáng lưu ý đó chính là việc Luật các TCTD năm 2010 quy định về
“Quyền hoạt động ngân hàng” tại Điều 8: “cấm các cá nhân, tổ chức không phải là tổ
chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng, trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại
chứng khoán của công ty chứng khoán”. Theo đó thì các tổ chức không phải là các tổ
chức tín dụng được thực hiện các hoạt động ngân hàng như trước đây sẽ phải chấm dứt


7


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

hoạt động hoặc phải chuyển sang loại hình các TCTD từ đó làm hạn chế những rủi ro cho
hệ thống tín dụng ngân hàng.

2.2. Cấp giấy phép
Các quy định về thẩm quyền cấp phép, vốn pháp định, điều kiện cấp phép, thời
hạn, lệ phí cấp phép, đăng ký kinh doanh, công bố Giấy phép, điều kiện khai trương hoạt
động, sử dụng Giấy phép, thu hồi Giấy phép, những thay đổi phải được NHNN chấp
thuận:

2.2.1. Giấy phép
Nhằm mục đích ngày càng nâng cao hơn tính an toàn cho hoạt động tín dụng và cả
hệ thống tín dụng nói chung. Luật các TCTD năm 2010 đã từng bước được cụ thể hóa và
khắt khe hơn trong các quy định về các phương diện này, cụ thể:

 Mức vốn pháp định: Về nội dung điều luật không có gì thay đổi. Tuy nhiên mức vốn pháp
định đã có sự điều chỉnh nhằm nâng cao tính an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín
dụng, nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong nước để ngày càng phù
hợp hơn với mặt bằng chung của quốc tế. Cụ thể: đối với các ngân hàng thương mại là
3000 tỷ đồng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD, ngân hàng chính sách và
phát triển là 5000 tỷ đồng; ngân hàng đầu tư và ngân hàng hợp tác xã và Quỹ tín dụng
nhân dân trung ương là 3000 tỷ đồng; công ty tài chính là 500 tỷ đồng, công ty cho thuê
tài chính là 150 tỷ đồng1 .
 Luật các TCTD năm 2010 đã qui định cụ thể hơn về các điều kiện được cấp giấy phép cụ

thể cho từng đối tượng TCTD tại Điều 20. Bên cạnh đó còn qui định rõ những điều kiện
để các TCTD nước ngoài được cấp phép như:
• TCTD liên doanh, TCTD 100% vốn nước ngoài có hoạt động lành mạnh, đáp ứng
các điều kiện về tổng tài sản có, tỷ lệ bảo đảm an toàn theo qui định của NHNN;
cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ký thỏa thuận với NHNN về thanh tra,
giám sát hoạt động của TCTD xin cấp phép (Điểm d, đ, e Khoản 2 Điều 20 Luật
các TCTD năm 2010).
• Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài xin cấp phép: phải có văn bản bảo đảm
chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh ngân hàng nước ngoài
tại Việt Nam.
 Về đăng ký hoạt động: Luật các TCTD năm 2010 bổ sung thêm một số qui định
khắt khe hơn đối với các TCTD muốn đi vào hoạt động để đảm bảo tính an toàn
của hệ thống, cũng như yêu cầu phải có cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, điều
hành, kiểm toán nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với loại hình hoạt động
và yêu cầu về hệ thống công nghệ thông tin (Điểm e,d Khoản 1 Điều 26 Luật các
TCTD năm 2010).

8


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

 Các qui định về thu hồi giấy phép đã được bổ sung để tăng tính kỷ luật trong các
quyết định của NHNN và các qui định pháp luật về việc vi phạm nghiêm trọng
trong pháp luật về dự trữ bắt buộc, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động và việc
các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không thực hiện đầy đủ quyết định
xử lý của NHNN để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
 Qui định phải thông báo về việc tạm dừng hoạt động kinh doanh quá một ngày làm việc

của các TCTD ( điểm e Khoản1 Điều 29 Luật các TCTD năm 2010). Đây là một điểm
được bổ sung so với Luật các TCTD năm 1997 nằm ổn định tình hình hoạt động của các
ngân hàng và an toàn cho toàn bộ hệ thống tín dụng nói chung.
Một thay đổi đáng lưu ý của Luật các TCTD năm 2010 để đưa các quy định trong
luật phù hợp với thực tế hoạt động của các TCTD đó là việc qui định mức thay đổi vốn
điều lệ phải được sự chấp nhận của NHNN và phải đăng báo ( Điều 31 Luật các TCTD
năm 1997) là không phù hợp với các hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân ( Qũy
TDND); do đặc thù của tổ chức này là các thành viên có quyền gia nhập và rút khỏi Quỹ
TDND nên vốn điều lệ của quỹ sẽ thường xuyên thay đổi thậm chí chỉ với một lượng nhỏ.
Mặt khác qui mô của Quỹ là nhỏ nên việc đặt ra các qui định trên thực tế là không phù
hợp và làm giảm hiệu quả hoạt động của Quỹ. Khi áp dụng qui định này NHNN đã thấy
những bất cập trong thực hiện và đã ấn định một mức thay đổi vượt qui định về vốn điều
lệ làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng hoạt động của Quỹ TDND, hay vi phạm qui định về
tỷ lệ bảo đảm an toàn và dưới mức vốn pháp định thì mới phải được sự chấp nhận của
NHNN và phải đăng thông báo. Tuy nhiên việc thay đổi vấn đề bất cập này trong Luật
các TCTD năm 2010 là điều tất yếu để các qui định được luật hóa.
Luật các TCTD năm 2010 vẫn còn tồn tại những qui định chồng chéo giữa việc
phải báo cáo với NHNN và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về việc tăng vốn bằng cách
phát hành cổ phiếu của các TCTD. Cụ thể, theo Điều 13 Luật Chứng Khoán quy định “Tổ
chức phát hành thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng phải đăng ký với Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước” và “thay đổi mức vốn điều lệ và mức vốn được cấp” tại điểm b
Khoản 1 Điều 29 Luật các TCTD năm 2010 phải thông báo với NHNN làm tăng chi phí
hành chính, khó khăn và chậm trễ cho việc phát hành cổ phiếu để tăng vốn cho các
TCTD.
Về thủ tục hành chính trong qui định cấp giấy phép thành lập và hoạt động có ý
kiến cho rằng: “Với rất nhiều điều kiện về vốn, về người sáng lập và quản trị, về hồ sơ,
thủ tục chặt chẽ (các điều từ 19-21), nhưng mới chỉ giải quyết được một nửa vấn đề là cho
phép thành lập TCTD. Còn để đi vào hoạt động, thì TCTD còn phải đáp ứng được ít nhất
là 10 nhóm điều kiện khác về vốn, kho tiền, trụ sở, tổ chức, bộ máy, quản lý rủi ro, công
nghệ thông tin, quy định quản lý nội bộ... (các điều 24 và 26). Như vậy sau khi được phép

thành lập, TCTD còn phải được NHNN công nhận đã đáp ứng được một loạt các điều
kiện khắt khe, phức tạp, thì mới được phép hoạt động. Đó là loại giấy phép “con” không
thể thiếu và không hề kém phần quan trọng so với giấy phép “chính”. Do đó, thay vì
tuyên bố một giấy phép nhưng thực tế lại là hai, thì cần tách giấy phép thành lập và hoạt
động của TCTD thành hai loại là giấy phép thành lập và giấy phép hoạt động để bảo đảm
sự minh bạch, rõ ràng và thực chất. Giấy phép thành lập chỉ là điều kiện ban đầu, làm cơ
sở triển khai các điều kiện xin giấy phép hoạt động. Với việc cấp hai giấy phép này sẽ làm

9


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

tăng thêm thủ tục hành chính, phức tạp, rắc rối, nhưng như thế mới đúng với bản chất của
vấn đề.” (Trích tại />Ý kiến trên cho rằng nên tách thành hai loại giấy phép là giấy phép thành lập và
giấy phép hoạt động, mặc dù sẽ tăng chi phí về thủ tục hành chính, gây phức tạp, rắc rối
thêm nhưng thế mới đúng với bản chất của vấn đề. Bởi thế Điều 20 Luật các TCTD năm
2010 đã có chút điều chỉnh “Điều kiện cấp giấy phép” chứ không qui định như tại Điều
22 Luật các TCTD năm 1997 trước đây “Điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và
hoạt động”, mặc dù trong phần giải thích từ ngữ thì cũng đã đưa ra khái niệm về giấy
phép bao gồm cả giấy phép thành lập và hoạt động (Khoản 11 Điều 4 Luật các TCTD
năm 2010). Một mặt cũng là để hạn chế sự tranh cãi xung quanh vấn đề này.
Tuy nhiên theo ý kiến chủ quan của nhóm chúng tôi thì việc chỉ cần qui định cấp 1
loại giấy phép duy nhất như thế thì đã là hợp lý, bởi:

 Luật các TCTD năm 2010 đã loại bỏ các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng ra
khỏi các hoạt động ngân hàng ( Khoản 1 Điều 4), mà khái niệm về “ giấy phép
hoạt động” thì thích hợp hơn cho việc cấp giấy phép cho các tổ chức không phải là

các tổ chức tín dụng như qui định tại Khoản 2 Điều 22 Luật các TCTD năm 1997
bởi hoạt động chính của các tổ chức này không phải là hoạt động ngân hàng vì vậy
họ mới cần xin giấy phép hoạt động. Còn đối với các TCTD thì hoạt động chính
vẫn là các hoạt động ngân hàng mà khi họ được cấp giấy phép thành lập thì họ
đương nhiên thực hiện được một số hoạt động ngân hàng đã được qui định trong
luật tại Khoản 12 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010 chỉ có điều là họ phải hoàn tất
những điều kiện đủ để đi vào hoạt động theo sự chấp thuận của NHNN. Vì thế
việc qui định thêm một giấy phép hoạt động đối với các TCTD sẽ dư thừa và
không hợp lý.
 Bên cạnh đó cũng không phủ nhận rằng việc qui định này sẽ làm tăng tính thủ tục
hành chính và kéo dài thời gian để các TCTD có thể đi vào hoạt động nhưng thiết
nghĩ điều này thực sự cần thiết vì ngoài việc được cấp phép với những điều kiện
ban đầu thì các TCTD phải thực hiện đầy đủ những điều kiện đảm bảo cho việc
hoạt động để đảm bảo cho sự an toàn của cả một hệ thống ngân hàng, bởi điều cơ
bản rằng hệ thống ngân hàng phải được hoạt động dựa trên niềm tin của người
dân, nếu vì bất cứ lý do gì làm mất đi lòng tin của người dân về hệ thống ngân
hàng này thì tất yếu sự sụp đổ là điều không thể tránh khỏi.
Về mặt thủ tục hành chính thì Luật các TCTD năm 2010 đã bỏ thủ tục chuẩn y
điều lệ của TCTD ( Khoản 2 Điều 30 Luật các TCTD năm 1997) thay vào đó là các
TCTD chỉ phải đăng ký điều lệ với NHNN sau khi được cơ quan có thẩm quyền của
TCTD thông qua; giảm bớt các thay đổi cần phải có sự chấp thuận trước của NHNN so
với các quy định của Luật các TCTD năm 1997 từ đó giảm bớt được một khối lượng
công việc hành chính đáng kể, góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động của các TCTD.

2.2.2. Cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng
10


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05


GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

Các quy định về cơ cấu mạng lưới của tổ chức tín dụng, điều lệ của TCTD, cơ cấu
tổ chức quản lý, hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, ban kiểm soát, tổng giám đốc
của TCTD và các quy định đặc thù về tổ chức, quản trị, điều hành của từng loại hình tổ
chức tín dụng:
Các bất cập của Luật các TCTD hiện hành không chỉ làm hạn chế hoạt động kinh
doanh và sự phát triển của các tổ chức tín dụng, mà còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản
lý, thanh tra, giám sát an toàn của NHNN đối với hệ thống TCTD. Do đó việc soạn thảo
và ban hành Luật các TCTD năm 2010 nhằm mục đích khắc phục bất cập của Luật hiện
hành, đặc biệt trong các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động và
bảo đảm an toàn, tạo lập khung pháp lý hoàn chỉnh, tăng tính minh bạch cho tổ chức và
hoạt động của các TCTD là yêu cầu cấp thiết của thực tiễn.
Thực tiễn quản lý hoạt động của các TCTD cho thấy, TCTD là những đối tượng
cần được quản lý chặt chẽ, vì đây là những doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển kinh tế đất nước, sự ổn định xã hội và là những tổ chức có được quyền lực rất lớn
trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ,
lạm dụng quyền lực trong nội bộ của một tổ chức tín dụng thường là những nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng, gây mất lòng tin trong dân cư, đe doạ sự ổn định của cả hệ thống
ngành... Do đó, một số các quy định về tổ chức quản lý đối với các TCTD thường được
quy định chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Đây cũng là một
thông lệ chung được thừa nhận rộng rãi trên bình diện quốc tế (nguyên tắc số 3 và 7 của
“25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả” của Uỷ ban Basel2). Thực tiễn ở
các nước trên thế giới, Luật ngân hàng đều có quy định về tổ chức, quản lý và điều hành
của ngân hàng, cụ thể: Luật ngân hàng Canada, Singapore… Tuy nhiên, Luật các TCTD
năm 1997 chưa thể hiện đầy đủ các yêu cầu này nên đã phát sinh xung đột luật giữa các
quy định hướng dẫn của Chính Phủ, Ngân Hàng Nhà Nước (văn bản hướng dẫn thi hành
này có giá trị thấp hơn) với các quy định của Luật doanh nghiệp, Luật Đầu Tư, Luật
Chứng Khoán, Luật Cạnh Tranh, Luật Hợp Tác Xã, Luật Phá Sản... Điều này đã ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý của Ngân Hàng Nhà Nước đối

với các TCTD. Do vậy, việc ban hành Luật các TCTD năm 2010 với các quy định cụ thể
về tổ chức, quản trị điều hành và quy định rõ ràng về nguyên tắc áp dụng luật là yêu cầu
cấp thiết nhằm xử lý xung đột pháp lý và bảo đảm yêu cầu giám sát an toàn đối với công
tác quản trị điều hành của TCTD.
Từ các lý do nêu trên, so với Luật các TCTD năm 1997, Luật các TCTD năm 2010
dành khá nhiều dung lượng cho các quy định liên quan đến quản trị, điều hành của TCTD
(60 điều so với 6 điều trong Luật các TCTD năm 1997). Các quy định này chủ yếu là các
quy định được luật hóa từ các quy định của Nghị định 59/2009/NĐ-CP, Quyết định
24/2007/QĐ-NHNN và các văn bản quy phạm pháp luật khác do NHNN ban hành, bám
sát 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả của ủy ban Basel nhằm đảm bảo
hoạt động của TCTD được an toàn, hiệu quả. Luật các TCTD năm 2010 được xây dựng
theo hướng điều chỉnh cả tổ chức, quản lý và hoạt động của các loại hình TCTD, trong đó

11


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

các quy định chung áp dụng cho tất cả các TCTD và các quy định cụ thể áp dụng cho
từng loại hình TCTD. Các quy định về quản trị, điều hành, kiểm soát được phân loại theo
hình thức pháp lý của TCTD (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã);
trong khi các quy định về hoạt động của Luật được phân loại theo loại hình hoạt động của
TCTD (ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức tài
chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân). Kết cấu Luật TCTD năm 2010 giảm bớt được các
quy định trùng lắp, đồng thời đảm bảo tính chặt chẽ, logic. Những thay đổi đó góp phần
giảm bớt thủ tục hành chính, nâng cao yêu cầu đối với người quản lý, điều hành của
TCTD, khẳng định xu hướng đại chúng hóa các TCTD cổ phần…


 Các qui định về thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp, hiện diện
thương mại: các quy định tại Điều 30 Luật các TCTD năm 2010 là sự kết hợp giữa hai
Điều 32 và 33 Luật các TCTD năm 1997. Theo đó ngân hàng nhà nước qui định cụ thể cả
về điều kiện lẫn hồ sơ và thủ tục thành lập, chấm dứt giải thể, đơn vị qui định tại khoản 1
điều 30 Luật các TCTD năm 2010 tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước quản lý, mặt
khác giúp các đối tượng khác có nhu cầu thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện… có
thể tiếp nhận thông tin đầy đủ hơn do việc tập trung tránh sự trùng lặp qui định giữa hai
nơi. Tuy nhiên cũng cần phải được qui định rõ ràng cụ thể ở đâu, chứ không qui định một
cách chung chung. “NHNN qui định cụ thể đối với từng loại hình tổ chức tín dụng”, gây
khó khăn cho người tìm hiểu luật.
 Luật TCTD năm 2010 đưa ra những qui định về những trường hợp không cùng đảm nhận
chức vụ (Điều 34) nhằm tránh những xung đột lợi ích và sự lạm dụng ảnh hưởng của
mình để đưa ra những quyết định xung đột với lợi ích của TCTD. Mà bài học cho Việt
Nam ta chính là vụ lạm dụng quyền lực quá lớn của chủ tịch hội đồng quản trị kiêm tổng
giám đốc của tập đoàn tàu thủy Vinashin Phạm Thanh Bình đã gây ra món nợ khổng lồ
86000 tỷ VND.
 Nâng cao yêu cầu đối với người quản lý điều hành: Nhân sự của ngân hàng cũng là một
trong những nội dung bị quản lý rất chặt chẽ. Chẳng hạn những người từng bị kết án bất
kể về tội gì đối với các tội thuộc khung hình phạt trên 3 năm tù, dù được xoá án tích (pháp
luật coi như chưa phạm tội) vẫn không bao giờ được làm Kế toán trưởng hay giữ chức
danh từ Giám đốc chi nhánh trở lên (điều 33). Hoặc, nếu Luật Doanh Nghiệp chỉ cấm
Tổng giám đốc của công ty cổ phần không được làm Tổng giám đốc của một doanh
nghiệp khác, thì Luật các TCTD năm 2010 cấm cả Phó tổng giám đốc ngân hàng không
được làm Phó tổng giám đốc của doanh nghiệp khác (điều 34). Và nếu họ vi phạm đương
nhiên bị mất tư cách hoặc sẽ bị Ngân Hàng Nhà Nước đình chỉ việc thực thi quyền hạn
(điều 36 và 37 Luật các TCTD năm 2010). Đồng thời, Tổng giám đốc ngân hàng phải có
ít nhất 5 năm làm Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu ít
nhất 3.000 tỷ đồng trở lên (tại thời điểm Luật bắt đầu có hiệu lực) hoặc có ít nhất 10 năm
làm việc trực tiếp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, kế toán hoặc kiểm toán. Ngoài ra,
Luật mới cũng bổ sung quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người quản lý, điều

hành TCTD, trách nhiệm công khai đối với các lợi ích liên quan (Điều 38, 39 Luật các
TCTD năm 2010).

12


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

Để tăng tính trung lập và minh bạch trong hoạt động của Hội đồng quản trị của
TCTD cổ phần, Luật quy định về thành viên độc lập của hội đồng quản trị. Hội đồng quản
trị của TCTD cổ phần phải có tối thiểu 1 thành viên độc lập với những tiêu chuẩn, điều
kiện rất khắt khe: không phải là người làm việc cho chính ngân hàng trong ít nhất 3 năm
trước đó; không sở hữu từ trên 1% vốn điều lệ,... (điều 50 Luật các TCTD năm 2010).
Theo ý kiến giải trình của Ngân Hàng Nhà Nước thì: “Thành viên độc lập chỉ áp dụng
đối với HĐQT, không áp dụng cho hội đồng thành viên vì thành viên hội đồng là do chủ
sở hữu hoặc thành viên góp vốn bổ nhiệm, miễn nhiệm và là người đại diện quyền chủ sở
hữu của chủ sở hữu, thành viên góp vốn nên không thể có tư cách độc lập với chủ sở hữu
và thành viên góp vốn của TCTD”. Mặt khác, hội đồng quản trị tối thiểu có 1/2 tổng số
thành viên là thành viên độc lập và thành viên không phải là người điều hành TCTD.

 Giảm bớt các thủ tục hành chính: Theo Luật các TCTD năm 1997, thành viên Hội đồng
quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (giám đốc) của TCTD sau khi được
bầu, bổ nhiệm phải được NHNN chuẩn y. Trong quá trình thực hiện quy định này đã có
những vướng mắc như việc can thiệp sâu vào quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông
(hoặc Hội đồng quản trị) của TCTD, hơn nữa trong thời gian các chức danh trên đã được
bầu, bổ nhiệm nhưng vẫn chưa được NHNN chuẩn y thì việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của các chức danh này như thế nào trong Luật các TCTD năm 1997 đã không có quy
định rõ; để giải quyết những vướng mắc trên, Luật các TCTD năm 2010 có quy định:

NHNN chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên
Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc (giám đốc) của TCTD. Những
người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành
viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (giám đốc) của TCTD phải thuộc danh sách đã được
NHNN chấp thuận. Quy định này đã khắc phục được bất cập về khoảng trống pháp lý khi
các chức vụ đã được Đại hội đồng cổ đông bầu nhưng chưa có hiệu luật pháp lý vì chưa
được NHNN chuẩn y. Ngoài ra, Luật các TCTD năm 2010 đã giảm bớt các thay đổi cần
chấp thuận của NHNN so với quy định của Luật các TCTD năm 1997.
 Khẳng định xu hướng đại chúng hóa của TCTD cổ phần: Điểm mới nữa của Luật các
TCTD năm 2010 là quy định các giới hạn về tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông nhằm
tăng cường tính đại chúng của TCTD cổ phần: một cổ đông là tổ chức không được sở hữu
vượt quá 15% (quy định hiện hành là 20%), một cổ đông là cá nhân không được sở hữu
vượt quá 5%; cổ đông và những người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu
vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng để bảo đảm sự minh bạch, hạn chế sự
thâu tóm có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của công chúng gửi tiền, gây mất an toàn hệ
thống. Theo định hướng này, Nhà nước không cho phép thành lập ngân hàng thương mại
tư nhân tại Việt Nam.
 Các quy định đặc thù về quản trị, điều hành được xây dựng theo hình thức pháp lý của
TCTD: Theo đó nguyên tắc áp dụng Luật được xác định theo hướng chỉ quy định cụ thể
các đặc thù trong việc thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của TCTD; khi có các quy
định khác nhau giữa Luật các TCTD và luật khác thì Luật các TCTD sẽ được ưu tiên áp
dụng (ví dụ: khoản 2 điều 3 Luật Doanh Nghiệp quy định “Trường hợp đặc thù liên quan
đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp được quy đinh tại Luật

13


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH


khác thì áp dụng theo quy định của Luật đó”); tùy theo hình thức pháp lý của TCTD, các
nội dung không được quy định trong Luật sẽ được thực hiện theo quy định của Luật
Doanh Nghiệp, Luật Hợp Tác Xã. Về kết cấu, các quy định về quản trị, điều hành của
Luật mới được chia thành các quy định chung áp dụng cho tất cả các TCTD và các quy
định riêng áp dụng cho từng loại hình TCTD.
 Yêu cầu cao hơn đối với hoạt động kiểm toán độc lập: Các quy định về kiểm toán nội bộ,
kiểm soát nội bộ, kiểm toán độc lập cũng được quy định cụ thể tại Luật mới này, trong đó
đáng chú ý là quy định về việc lựa chọn kiểm toán độc lập phải được thực hiện trước khi
năm tài chính được kiểm toán bắt đầu vì theo thông lệ quốc tế và yêu cầu của chuẩn mực
kiểm toán, tổ chức kiểm toán phải tham dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát… để nắm bắt tình hình kinh doanh của TCTD suốt năm tài chính. Ngoài ra, để đảm
bảo đánh giá trung thực, chính xác tình hình hoạt động của TCTD, Luật năm 2010 yêu
cầu báo cáo kiểm toán không được có ý kiến ngoại trừ; trường hợp có ý kiến ngoại trừ,
TCTD phải thực hiện kiểm toán lại để đảm bảo báo cáo kiểm toán không có ý kiến ngoại
trừ.
Tóm lại, tổ chức, quản trị, điều hành TCTD khác với tổ chức, quản trị, điều hành
các doanh nghiệp thông thường, vì hoạt động của TCTD có liên quan đến quyền lợi của
công chúng gửi tiền và liên quan đến sự ổn định, phát triển của nền kinh tế. Nói chung các
quy định về tổ chức, quản trị, điều hành TCTD tại Luật các TCTD năm 2010 được xây
dựng trên cơ sở các quy định của Luật Doanh Nghiệp nhưng trên nguyên tắc là đưa ra các
yêu cầu, điều kiện cao hơn so với tổ chức, quản trị, điều hành các doanh nghiệp thông
thường để phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ.

2.3. Hoạt động của TCTD
Thay đổi so với Luật các TCTD năm 1997 là Luật các TCTD năm 2010 bỏ phần
quy định về "các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng". Bởi vì, hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh có điều kiện. Những điều kiện để được hoạt động ngân hàng đều rất
chặt chẽ, từ tổ chức bộ máy đến quản lý nội bộ, quản trị rủi ro. Những điều kiện này
thông thường các tổ chức khác không phải là TCTD đều không đáp ứng được. Đó là lý do

Chính phủ không thể ban hành được các văn bản hướng dẫn Luật các TCTD năm 1997 về
hoạt động ngân hàng của tổ chức khác (Luật hiện hành có hiệu lực từ ngày 1/10/1998
nhưng đến năm 2000 mới có Nghị định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương
mại, năm 2001 mới có Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính,
năm 2002 mới có Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính...). Điều này có
nghĩa là để được cấp phép hoạt động ngân hàng các tổ chức phải được thành lập như là
một TCTD. Những tổ chức nào có hoạt động ngân hàng đều phải được tổ chức lại dưới
hình thức là một TCTD hoặc phải chấm dứt hoạt động này (trừ việc công ty chứng khoán
thực hiện giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán).
Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 không quy định phân biệt phạm vi hoạt động
của từng loại hình tổ chức tín dụng, luật chỉ nói chung chung là tổ chức tín dụng ngân
hàng hay tổ chức tín dụng phi ngân hàng nhưng không hề cho biết những tổ chức nào là
tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức nào là tổ chức tín dụng phi ngân hàng cũng như là

14


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

những nghiệp vụ cụ thể cho từng loại hình. Ví dụ theo Khoản 2 Điều 45 Luật các TCTD
năm 1997 có ghi: “Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một
năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.”
Do vậy khi triển khai thực hiện đã gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt trong việc xác
định loại nghiệp vụ mà một loại hình tổ chức tín dụng cụ thể được phép thực hiện. Và từ
đó nó ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình tổ chức tín dụng.
Trong khi đó Luật các TCTD năm 2010 ra đời đã quy định cụ thể phạm vi hoạt
động của từng loại hình tổ chức tín dụng, trong đó lấy hoạt động của ngân hàng thương
mại làm căn cứ dẫn chiếu khi quy định phạm vi hoạt động của tổ chức tín dụng khác.

Phạm vi hoạt động được phân theo từng loại hình tổ chức tín dụng bao gồm hoạt động của
ngân hàng thương mại; hoạt động của công ty tài chính; hoạt động của công ty cho thuê
tài chính; hoạt động của ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân; hoạt động của tổ
chức tài chính vi mô và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Luật Các tổ chức tín dụng 2010 cũng quy định rõ những nghiệp vụ tổ chức tín
dụng đương nhiên được kinh doanh như:

 Nhận tiền gửi.

 Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn.
 Vay vốn Ngân hàng Nhà nước, của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính….
Những nghiệp vụ kinh doanh phải được phép của Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam:

 “Ngân hàng thương mại được tham gia hệ thống thanh toán quốc tế sau khi được Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận” (Khoản 2, Điều 102).

 “Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản, ngân hàng thương mại
được kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản
phẩm sau đây:
• Ngoại hối;
• Phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính
khác.” (Khoản 1, Điều 105).
• “Phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán, cho thuê tài chính và các
hình thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước
chấp thuận”. (Điểm g, Khoản 1, Điều 108).
Những nghiệp vụ khi thực hiện phải thành lập hoặc mua lại công ty con, công ty
liên kết:“ Ngân hàng thương mại phải thành lập hoặc mua lại công ty con, công ty liên
kết để thực hiện hoạt động kinh doanh sau đây:

 Bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân phối chứng chỉ

quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và mua, bán cổ phiếu;
 Cho thuê tài chính;
 Bảo hiểm(Khoản 2, Điều 103).
Và những nghiệp vụ tổ chức tín dụng không được thực hiện:

15


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

 “Tổ chức tín dụng không được tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt
động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà
nước cấp cho tổ chức tín dụng”(Khoản 2, Điều 90).
 “Công ty cho thuê tài chính không được góp vốn, mua cổ phần, thành lập công ty con,
công ty liên kết dưới mọi hình thức”(Điều 115)
Theo Luật các TCTD năm 2010 thì các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác với
các ngân hàng là không được nhận tiền gửi của cá nhân và không được cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản.
Luật các TCTD năm 2010 đưa ra các quy định nhằm hạn chế các xung đột lợi ích
thông qua các quan hệ cấp tín dụng (vay vốn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng), góp
vốn, mua cổ phần, mở tài khoản chéo, góp vốn, mua cổ phần ngược giữa tổ chức tín dụng,
công ty con, công ty liên kết, công ty kiểm soát. Quy định này phù hợp hơn với thông lệ
áp dụng tại hầu hết các nước và một mặt giảm bớt được rủi ro cho hệ thống ngân hàng,
mặt khác cho phép các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được mở rộng phạm vi cung ứng
các dịch vụ ngân hàng do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn.
Tóm lại:
1/. Luật các TCTD năm 2010 đã quy định cụ thể phạm vi hoạt động của từng loại
hình tổ chức tín dụng.

2/. Luật Các tổ chức tín dụng 2010 cũng quy định rõ những nghiệp vụ tổ chức tín
dụng đương nhiên được kinh doanh; những nghiệp vụ kinh doanh phải được phép của
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam; những nghiệp vụ khi thực hiện phải thành lập hoặc mua
lại công ty con, công ty liên kết và những nghiệp vụ tổ chức tín dụng không được thực
hiện.

2.4. Tài chính, hạch toán và báo cáo
Về tài chính, hạch toán, báo cáo của Luật các TCTD năm 2010 có 9 điều ( từ Điều
136 đến Điều 144) quy định về chế độ tài chính; năm tài chính; hạch toán kế toán; quỹ dự
trữ; mua, đầu tư vào tài sản cố định; báo cáo; công khai báo cáo tài chính; chuyển lợi
nhuận, chuyển tài sản ra nước ngoài.
Có thể nói Luật các TCTD năm 2010 về tài chính, hạch toán, báo cáo cũng không
có gì thay đổi nhiều so với Luật các TCTD năm 1997, nó đã bổ sung một số khoản cụ thể
và rõ ràng hơn đối với các TCTD, giảm bớt thủ tục mang tính chất hành chính không cần
thiết, phù hợp hơn với tình hình kinh tế đất nước, nâng cao việc giám sát TCTD thông qua
việc báo cáo tài chính như sau:

 Về chế độ tài chính được quy định ở Điều 84 của Luật các TCTD năm 1997 chưa có quy
định gì đối với vấn đề tài chính của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hơn nữa các vấn

16


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

đề thu, chi tài chính rườm rà vì chế độ tài chính còn phải thông qua bộ trưởng Bộ Tài
Chính hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện theo quy định của pháp luật. Để khắc phục
những nhược điểm trên thì ở Điều 136 Luật các TCTD năm 2010 có tiến hành điều chỉnh

như sau: chế độ tài chính của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được
thực hiện theo quy định của Chính Phủ. Ta thấy sự điều chỉnh này phù hợp với tình hình
nước ta hiện nay, giúp rút ngắn, giảm thiểu bớt các thủ tục hành chính không cần thiết.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra tại sao nhà nước không giao quyền này lại cho NHNN, cơ quan
có trách nhiệm giám sát, quản lý, điều hành các TCTD mà quyền này vẫn nằm trong tay
chính phủ. Đây chính là một phần còn hạn chế tính độc lập của NHNN với Chính Phủ.
 Về quỹ dự trữ ở Điểm a Khoản 1 Điều 87 của Luật các TCTD năm 1997 có quy định
“mức tối đa của quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ là do Chính Phủ quy định”, còn với Luật
các TCTD năm 2010 có sửa đổi về “mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức vốn
điều lệ, vốn được cấp của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” ở Điểm a Khoản 1
Điều 139. Việc sửa đổi này quy định cụ thể hơn, không cần phải thông qua Chính Phủ,
hạn chế các thủ tục xin chấp thuận, chuẩn y của Chính Phủ mà các thủ tục này mang tính
hành chính, không cần thiết và làm tăng thêm chi phí cho các TCTD.
Công khai báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán quy định ở Điều 89 và Điều 90
của Luật các TCTD năm 1997 là chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và quá trình hội nhập
kinh tế hiện nay của Việt Nam. Luật các TCTD năm 2010 tích cực điều chỉnh các điều
khoản trên cho phù hợp theo thông lệ quốc tế nhằm đảm bảo tính công khai rõ ràng, minh
bạch của báo cáo. Cụ thể như sau:

 Luật mới đã có các quy định bổ sung về việc báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán đối
với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
 Ở khoản 2 Điều 89 Luật các TCTD năm 1997 thì báo cáo không có kèm theo văn bản
nhưng ở Khoản 2 Điều 141 Luật các TCTD năm 2010 thì yêu cầu báo cáo kịp thời bằng
văn bản, ta thấy ở luật mới này báo cáo được quy định và giám sát chặt chẽ hơn, nó còn
thể hiện tính pháp lý của văn bản trong khi báo cáo với NHNN.
 Ở Điều 141 Luật các TCTD năm 2010 cũng bổ sung thêm các quy định yêu cầu các công
ty con, công ty liên kết của các TCTD phải gửi báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động của
mình khi được NHNN yêu cầu. Điều này giúp cho NHNN có thể giám sát chặt chẽ tình
hình hoạt động của các TCTD....
Ngoài ra Luật các TCTD năm 2010 còn bổ sung thêm một số điều như:


 Điều 142 về báo cáo của công ty kiểm soát. Trong khi Luật các TCTD năm 1997 quy
định : “Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, tổ chức tín dụng phải
gửi Ngân Hàng Nhà Nước các báo cáo hằng năm theo quy định của pháp luật” thì Luật
các TCTD năm 2010 buộc phải có công ty kiểm soát thay cho các TCTD để làm nhiệm vụ
“lập và gửi cho Ngân hàng Nhà nước báo cáo tài chính hợp nhất đã được kiểm toán theo
quy định của pháp luật về kế toán”. Tại Khoản 1 Điều này, và tại Khoản 2 Điều này cũng
quy định “Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, công ty kiểm toán
phải lập và gửi cho Ngân hàng Nhà nước báo cáo tổng hợp về giao dịch mua, bán và giao
dịch khác với công ty con, công ty liên kết của công ty kiểm soát ”. Cần phải có công ty

17


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

kiểm soát vì nếu các tổ chức tín dụng cần quản lý các công ty con thì cần phải thông qua
kiểm soát tài chính. Kiểm soát tài chính là công cụ quan trọng để thực hiện mục tiêu quản
lý của công ty mẹ đối với các công ty con trong mối quan hệ tài chính. Việc bổ sung này
thể hiện tính công khai, rõ ràng, minh bạch và đầy đủ, qua đó cũng thấy được vai trò của
Ngân Hàng Nhà Nước ngày được nâng cao trong việc giám sát hoạt động của các tổ chức
tín dụng thông qua báo cáo của các tổ chức tín dụng.
 Điều 144 quy định về việc chuyển lợi nhuận, chuyển tài sản ra nước ngoài. Nó giúp ta
hoàn thiện hơn hệ thống pháp lý trong việc quản lý hoạt động của loại hình TCTD có vốn
nước ngoài xuất hiện từ khi nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới trong những năm
gần đây.
2.5. Kiểm soát đặc biệt, phá sản, giải thể, thanh lý


2.5.1. Kiểm soát đặc biệt.
Ngân hàng là một loại hình kinh doanh mang lại lợi nhuận cao nhưng đặc thù đây
là ngành kinh doanh rủi ro, rủi ro trong ngành ngân hàng rất nhiều. Rủi ro trong hoạt động
ngân hàng mang tính hệ thống và lan truyền rất nhanh. Chỉ cần một tổ chức tín dụng trong
nền kinh tế bị sụp đổ sẽ có thể kéo theo phản ứng dây truyền làm cả hệ thống tài chính tín
dụng của nền kinh tế đó sụp đổ như là hiệu ứng Domino. Điều này sẽ gây ảnh hưởng rất
xấu tới nền kinh tế. Kinh tế bất ổn sẽ kéo theo sự xáo trộn của chính trị - xã hội. Đây là
một điều cực kỳ nguy hiểm. Yêu cầu được đặt ra là phải có biện pháp thanh tra giám sát
và giúp đỡ như thế nào để các TCTD sẽ không rơi vào tình trạng trên và nền kinh tế sẽ
không bị ảnh hưởng.
Xuất phát từ thực tế khách quan mà việc kiểm soát đặc biệt ra đời và là một công
cụ quản lý của NHNN. Có thể hiểu kiểm soát đặc biệt là biện pháp quản lý nhà nước do
NHNN Việt Nam áp dụng đối với các TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả
năng thanh toán, giúp các TCTD vượt qua khó khăn về tài chính, đảm bảo an toàn cho
TCTD đó cũng như toàn bộ hệ thống ngành.
Theo Khoản 1 Điều 92 Luật các TCTD năm 1997 thì kiểm soát đặc biệt là việc
một TCTD được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của NHNN do có nguy cơ mất khả năng
chi trả, mất khả năng thanh toán.
Luật các TCTD năm 1997 đã có 7 điều nằm ở mục 1 chương V quy định về vấn đề
kiểm soát đặc biệt để chủ động xử lý các TCTD có nguy cơ trên. Mặc dù đã có quy định
về kiểm soát cụ thể nhưng những quy định này vẫn chưa được đầy đủ và rõ ràng lắm,
quyền của NHNN chưa được nâng cao. Nhưng những điều trên đã được Luật các TCTD
năm 2010 khắc phục trên cơ cơ sở kế thừa các quy định của Luật các TCTD năm 1997 và
các quy định hiện hành khác.

2.5.1.1.

Thay đổi nội dung về kiểm soát đặc biệt

Nội dung về kiểm soát đặc biệt đã quy định đầy đủ hơn, chi tiết hơn, các thủ tục

pháp lý được quy định chặt chẽ hơn và có những sửa đổi phù hợp hơn với thông lệ quốc
tế nhằm tăng tính an toàn cho TCTD và cả hệ thống các TCTD. Những điều này được thể
hiện qua sự thay đổi của các điều luật sau:

18


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

 Về điều luật áp dụng kiểm soát đặc biệt, so với Khoản 3 Điều 92 của Luật các TCTD năm
1997 thì tại khoản 3 Điều 146 Luật các TCTD năm 2010 bổ sung thêm hai trường hợp mà
TCTD sẽ bị NHNN xem xét đặt vào kiểm soát đặc biệt. Đó là: (i) TCTD hai năm liên tục
bị xếp loại yếu kém theo quy định của NHNN; (ii) khi TCTD không duy trì được tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu 8% hoặc tỷ lệ cao hơn theo quy định của nhà nước trong từng thời kỳ
trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời
hạn 6 tháng liên tục. Trong trường hợp xác định số lỗ lũy kế của TCTD thì Luật các
TCTD năm 2010 đã có quy định việc xem xét tính toán này sẽ được xác định trên báo cáo
tài chính đã được kiểm toán gần nhất. Điều này giúp cho việc bảo đảm phòng ngừa, ngăn
chặn sớm sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng.
 Về việc công bố thông tin kiểm soát đặc biệt đối với TCTD: ở Luật các TCTD năm 1997
tại Khoản 4 Điều 93 thì quy định rằng thông tin này sẽ không được đưa ra công luận.
Công khai thông tin là một trong những vấn đề quan trọng, thông tin có minh bạch, công
khai thì thị trường mới phát triển lành mạnh, hạn chế rủi ro cho các chủ thể trên thị trường
và công khai thông tin là cần thiết. Nhưng thông tin của các TCTD là cực kỳ quan trọng,
bất cứ một thông tin bất lợi nào không chỉ ảnh hưởng tới một tổ chức riêng biệt mà ảnh
hưởng toàn ngành do đặc thù ngành Ngân hàng mang tính hệ thống. Vấn đề là thông tin
về việc một TCTD bị đặt dưới sự kiểm soát đặc biệt là một thông tin có tác động tiêu cực
đến tâm lý người dân, nhà đầu tư và rất dễ dẫn đến nguy cơ sụp đổ của cả hệ thống tín

dụng. Với tình hình ở nước ta hiện nay, thị trường tài chính mới bắt đầu phát triển, tâm lý
nhà đầu tư rất dễ dao động, việc công bố thông tin là một việc làm khá nguy hiểm, gây
khó khăn cho toàn hệ thống.Vậy có nên đưa thông tin này ra công luận hay không?
Nhưng nếu như không công khai mà để rò rỉ ra bên ngoài với những thông tin không
chính xác, sai lệch so với sự thật thì hậu quả còn nguy hiểm hơn nhiều so với việc NHNN
cho công khai thông tin chính xác. Đứng trước những điều trên, Luật các TCTD năm
2010 đã sửa đổi về điều này, theo đó NHNN quy định cụ thể việc công bố thông tin kiểm
soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng. Đây là một quyết định khá đúng đắn, nó phù hợp
với tình hình kinh tế, tài chính ở nước ta và yêu cầu tất yếu của việc công bố thông tin.
 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát được quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn, nâng cao
trách nhiệm, quyền hạn hơn trước tạo điều kiện cho Ban kiểm soát thực hiện công việc
của mình thuận tiện hơn được thể hiện thông qua Điều 148 Luật các TCTD năm 2010 so
với Điều 94 Luật các TCTD năm 1997. Cụ thể: được phép đình chỉ cả quyền kiểm soát,
điều hành của Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát được phép kiến nghị NHNN về việc
chấm dứt cho vay đặc biệt đối với TCTD, mua cổ phần của TCTD, thanh lý, thu hồi giấy
phép hoạt động của TCTD, tiếp quản, sáp nhập, hợp nhất, mua lại bắt buộc TCTD. Những
điều này không được nêu ra trong Luật các TCTD năm 1997.
 Các quy định về khoản vay đặc biệt cũng được quy định chặt chẽ hơn, rõ ràng hơn, không
còn chung chung như quy định tại Điều 96 của Luật các TCTD năm 1997 nữa. Cụ thể tại
Khoản 1 Điều 151 đã có những quy định cụ thể về trường hợp được vay đặc biệt của
NHNN. Về vấn đề thanh toán khoản vay đặc biệt này cũng được nói cụ thể hơn so với
Luật các TCTD năm 1997, làm rõ khoản vay đặc biệt này được ưu tiên trả trước tất cả
những khoản nợ khác của TCTD là những khoản nào, cụ thể Luật các TCTD năm 2010 đã
chỉ rõ đó là các khoản nợ kể cả các khoản nợ có tài sản đảm bảo của TCTD hoặc được

19


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05


GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

chuyển đổi thành vốn góp, vốn cổ phần tại TCTD liên quan được quy định theo Luật các
TCTD năm 2010. Việc cho vay đặc biệt này sẽ do NHNN quy định cụ thể.
2.5.1.2. Thẩm quyền của Ngân hàng Nhà Nước
So với Luật các TCTD năm 1997 thì Luật các TCTD năm 2010 đã trao cho NHNN
thẩm quyền lớn hơn trong việc kiểm soát đặc biệt đối với các TCTD. Điều này được thể
hiện thông qua việc đã có hẳn một điều luật nói về vấn đề này, đó là Điều 149 Luật các
TCTD năm 2010. Cụ thể, trong điều này đã có quy định NHNN có quyền yêu cầu chủ sở
hữu tăng vốn, bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại; trực tiếp hoặc chỉ định TCTD khác
góp vốn, mua cổ phần của TCTD được kiểm soát đặc biệt trong trường hợp TCTD được
kiểm soát đặc biệt không có khả năng thực hiện yêu cầu tăng vốn của NHNN hoặc khi
NHNN xác định số lỗ lũy kế của TCTD đã vượt quá giá trị vốn điều lệ và các quỹ dự trữ
của TCTD được kiểm soát đặc biệt. Với quy định này sẽ tạo điều kiện giúp NHNN có thể
chủ động can thiệp sớm hơn khi phát hiện thấy những yếu kém cơ bản của một TCTD với mục đích
giảm bớt khả năng rủi ro cho hệ thống do không có sự can thiệp kịp thời của cơ quan quản lý. Bên
cạnh đó thì việc giao quyền lại cho NHNN vẫn chưa hoàn toàn bởi vì việc góp vốn, mua cổ phần
được quy định ở trên phải được thực hiện theo quy định của Thủ Tướng Chính Phủ ( khoản 4 Điều
149 Luật các TCTD năm 2010).

2.5.2. Tổ chức lại, giải thể, phá sản, thanh lý, phong tỏa vốn, tài sản
Vấn đề về tổ chức lại, giải thể, phá sản, thanh lý, phong tỏa vốn, tài sản là những
vấn đề khá nhạy cảm, có ảnh hưởng lớn tới TCTD nói riêng và cả hệ thống tín dụng nói
chung. Vì vậy những vấn đề này cần phải được xử lý càng sớm, càng nhanh càng tốt để
giảm thiểu sự thiệt hại. Tuy nhiên, Luật các TCTD năm 1997 vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu trên và nó đã được khắc phục phần lớn bằng Luật các TCTD năm 2010. Cụ thể như
sau:

 Về vấn đề phá sản TCTD thì Luật các TCTD năm 1997 đã không có quy định rõ ràng mà
chỉ dẫn rất mơ hồ là: “ theo quy định của Luật Phá Sản Doanh Nghiệp”, trong khi đó Luật

Doanh Nghiệp lại quy định “…Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm…thì tòa án chỉ thụ lý khi hội đủ các điều kiện do chính phủ qui định” tức trao lại
quyền quy định cụ thể cho chính phủ, nhưng tại Điều 6 Nghị Định 189/CP tiếp tục chỉ
dẫn : “Sau khi tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản thì thủ tục giải quyết phá sản
đối với các doanh nghiệp đặc biệt (trong đó có các TCTD) được tiến hành theo qui định
của Luật Phá Sản Doanh Nghiệp,…”. Ta thấy rằng, vấn đề giải quyết việc phá sản TCTD
được hướng dẫn khá lòng vòng, phức tạp, nhiều công đoạn rườm rà, không rõ ràng nhất
quán đã gây khó khăn cho Tòa Án kinh tế, các TCTD và các bên liên quan trong việc thực
hiện giải quyết vấn đề trên.
 Còn đối với Luật các TCTD năm 2010:
• Tại Điều 155 có quy định “Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của
pháp luật về phá sản”, trong đó Chính Phủ đã ban hành Nghị Định số 05/2010 ngày 18
tháng 1 năm 2010 quy định việc áp dụng Luật Phá Sản đối với các TCTD cụ thể rõ ràng
hơn. Về đối tượng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng được quy định rõ ràng hơn

20


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

trong Luật các TCTD năm 2010 như tại Điều 155 có qui định “…TCTD phải làm đơn yêu
cầu Tòa Án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản…”, trong khi Luật các TCTD
năm 1997 không hề có quy định nói tới vấn đề này. Đồng thời, tại Điều 8 Nghị định số
05/2010 ngày 18 tháng 1 năm 2010 quy định cụ thể hơn những người có quyền và nghĩa
vụ trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gồm: Chủ nợ không có bảo đảm hoặc
có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần; người lao động làm việc trong TCTD; Chủ sở
hữu của TCTD nhà nước hoặc cổ đông của TCTD cổ phần; đại diện hợp pháp của
TCTD… Qua đó chứng tỏ Luật các TCTD năm 2010 đã phần nào khắc phục được bất

cập, hạn chế được nêu ra ở Luật các TCTD năm 1997, đã có những quy định cụ thể, rõ
ràng hơn, không đi lòng vòng, tránh sự chồng chéo luật trong quá trình áp dụng thực hiện
và tăng cường mức độ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ nợ, nhà đầu tư.
• Những yêu cầu mà được NHNN chấp thuận trong những vấn đề trên đều được Luật các
TCTD năm 2010 quy định rõ là phải được chấp thuận bằng văn bản (ví dụ như về giải thể
TCTD tại Điều 154 Luật các TCTD năm 2010 và Điều 99 Luật các TCTD năm 1997).
• Việc thanh lý tài sản của TCTD mặc dù giống như Luật các TCTD năm 1997 là đều được
thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản. Nhưng ở Luật các TCTD năm 2010 có
thêm quy định đó là: trình tự, thủ tục thanh lý tài sản là do NHNN quy định (Khoản 2
Điều 156 Luật các TCTD năm 2010). Quy định này cho thấy rằng quá trình thanh lý tài
sản vẫn được thực hiện theo luật nhưng mà quá trình thực hiện sẽ được triển khai sao cho
phù hợp với đặc thù của ngành tín dụng, giúp giải quyết vấn đề nhanh hơn, phù hợp hơn..
Bên cạnh đó Luật các TCTD 2010 có thêm điều khoản mới đó là Điều 157: Phong
tỏa vốn, tài sản của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, qua đó đánh dấu Luật các TCTD
ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự hội nhập và phát triển của nền tài chính Việt Nam
so với thế giới, tạo hành lang pháp lý cho sự gia nhập của các tổ chức tài chính quốc tế
vào thị trường Việt nam đồng thời bảo vệ quyền lợi của khách hàng tại các định chế tài
chính này.

2.6. Thông tin và bảo mật thông tin
Nhìn chung về phần này Luật 1997 và 2010 không có những sự khác biệt lớn,
điểm đáng lưu ý luật các TCTD 2010 quy định về nghĩa vụ đảm bảo bí mật thông tin tài
khoản tiền gửi và các giao dịch của khách hàng một cách khá chặt chẽ. Tại Khoản 2 Điều
104 của Luật TCTD năm 1997: “Tổ chức tín dụng được quyền từ chối yêu cầu của tổ
chức, cá nhân về việc cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi, tài sản của khách hàng
và hoạt động của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng.”
Trong khi đó Khoản 3 Điều 14 luật TCTD năm 2010 quy định:“Tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản,
tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách
hàng.”

21


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

Như vậy có thể thấy khi tuân thủ luật hiện hành tổ chức tín dụng vẫn có thể cung
cấp thông tin mà không cần sự cho phép của khách hàng nếu các tổ chức tín dụng muốn,
trong khi đó luật mới lại cấm hoàn toàn việc cung cấp thông tin khi chưa được phép của
khách hàng, điều đó đảm bảo tính bảo mật trong thông tin.
Về đối tượng bảo mật thông tin Luật hiện hành chỉ quy định cho TCTD về bảo mật
thông tin cho khách hàng về “tiền gửi, tài sản gửi” của khách hàng. Luật mới mở rộng
hơn về điều này, các TCTD có thêm nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến “tài
khoản” và các “giao dịch” của khách hàng. Đồng thời trong luật 2010 cũng quy định rõ
nghĩa vụ của chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc đảm bảo thông tin bảo mật mà
luật hiện hành vẫn chưa thấy đề cập.

2.7. TCTD nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt Nam
2.7.1. Về cấp phép
So sánh Luật 2010 và 1997 có thể thấy các tổ chức tín dụng muốn gia nhập vào thị
trường Việt Nam phải đáp ứng những điều kiện khắt khe thông qua việc xin giấy phép
hoạt động. So với Luật 1997, Luật các TCTD năm 2010 bắt buộc các tổ chức tín dụng này
đáp ứng đầy đủ những quy định an toàn về vốn, về tình hình tài chính, nhấn mạnh cam
kết về vốn điều lệ và trao đổi thông tin giám sát an toàn ngân hàng với NHNN. Điều này
làm tăng khả năng kiểm soát của NHNN và nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ đối với

TCTD nước ngoài, hạn chế được việc cấp giấy phép hoạt động, mở chi nhánh và mở văn
phòng đại diện tràn lan không có hiệu quả, không đáp ứng nhu cầu tài chính cũng như đi
sai lệch với các mục tiêu chính sách tiền tệ của NHNN. Điều này thể hiện qua Khoản
1,2,3 Điều 20 Luật TCTD năm 2010. Ngoài ra luật 2010 quy định chặt chẽ hơn về sự
giám sát và hỗ trợ từ phía các tổ chức tín dụng nước ngoài đối với các tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam điều này nhằm tăng thêm tính an
toàn cho hệ thống tín dụng khi các tổ chức này thâm nhập vào Việt Nam đồng thời cũng
giúp các tổ chức tín dụng trong nước tiếp cận gần hơn với các loại hình dịch vụ mà các tổ
chức nước ngoài sử dụng .
Bên cạnh những quy định về việc cấp giấy phép như trên thì luật TCTD năm 2010
quy định rõ về thời hạn, lệ phí cấp giấy phép của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn
phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài (Điều 22-23 Luật TCTD 2010). Tuy
nhiên, trong thời hạn cấp giấy phép Luật TCTD 2010 lại không quy định rõ ràng.

2.7.2. Về hoạt động
Quy định về hoạt động của ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài của luật hiện hành không cụ thể, rõ ràng mà chỉ nói chung chung là hoạt
động theo quy định của luật này và các luật khác gây khó khăn cho việc tìm hiểu và khó
áp dụng (điều 109 Luật các TCTD năm 1997). Trong khi đó Luật các TCTD mới quy
định cụ thể rõ ràng về nội dung hoạt động của từng tổ chức. Theo cách giải thích từ ngữ
trong luật mới:

22


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

 Tổ chức tín dụng nước ngoài được hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức văn

phòng đại diện, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài,
công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài.
 Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài là loại hình ngân hàng thương
mại; công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài là loại hình
công ty tài chính; công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100%
vốn nước ngoài là loại hình công ty cho thuê tài chính theo quy định của Luật này.
Với cách quy định như trên, hoạt động của các loại hình TCTD 100% vốn nước
ngoài được quy định cụ thể rõ ràng trong các mục 2, 3, 4, 5 chương III luật TCTD 2010.
Điều này cho thấy sự bình đẳng về hoạt động của các tổ chức tín dụng trong nước và
100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên theo Khoản 2 Điều 90 Luật TCTD 2010 thì tổ chức tín
dụng không được tiến hành những hoạt động không được ghi trong giấy phép hoạt động.
Theo chúng tôi điều này là bất hợp lí, nếu chiếu theo quy định các tổ chức tín dụng bị
ràng buộc trong 1 phạm vi hoạt động nhất định, trong khi đó thị trường không ngừng thay
đổi, cần có những hoạt động khác phù hợp với từng thời kì, từng giai đoạn nhất định, do
đó khi muốn triển khai một loại hình hoạt động mới lại tất bật đi bổ sung thay đổi giấy
phép hoạt động, việc làm này gây tốn kém chi phí và thời gian cho các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, Điều 90 cũng sẽ kích thích sự hình thành của nhiều tổ chức tín dụng mới khi
thị trường có sự biến đổi.
Về hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Như đã nói ở trên Luật hiện
hành chưa có quy định rõ về hoạt động của hai đối tượng này mà còn sử dụng những văn
bản pháp luật khác. Điều này đã được sửa chửa trong luật mới. Luật các TCTD năm 2010
đã quy định rõ ràng hơn về hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và văn phòng
đại diện nhưng theo chúng tôi nhận thấy có những điểm yếu sau :

 Thứ nhất: theo Điều 123. Nội dung hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện các hoạt động theo quy định tại mục 2
Chương IV của Luật này, trừ các hoạt động sau đây:
1.\ Hoạt động quy định tại Điều 103 của Luật này;
2.\ Hoạt động mà ngân hàng nước ngoài không được phép thực hiện tại

nước nơi ngân hàng nước ngoài đặt trụ sở chính.
Vậy những hoạt động ngân hàng nước ngoài được phép thực hiện tại nơi đặt trụ sở
chính mà trong Điều 103 không có quy định thì pháp luật sẽ xử lí bằng biện pháp gì. Vì
số lượng những nghiệp vụ ngân hàng, những hoạt động mà các ngân hàng tại nơi đặt trụ
sở chính khá là phong phú.

 Thứ hai: cũng theo Điều 123 Ủy ban kinh tế của Quốc Hội nhận xét: “việc hạn chế hoạt
động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài quá chặt chẽ. Nếu quy định này có hiệu lực sẽ
tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán Việt Nam”. Theo chúng tôi điều này vừa
hợp lí vừa bất hợp lí. Hiện tại theo xu thế hội nhập, mở cửa thị trường khá nhiều nhà đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam kèm theo đó là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, họ

23


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

mang một lượng vốn khổng lồ, kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nếu quy
định quá chặt chẽ như vậy thì một phần vốn đi vào Việt Nam sẽ bị đóng băng hạn chế sự
phát triển của thị trường chứng khoán, mà hiện tại những người đầu tư mạnh mẽ vào thị
trường chứng khoán là những nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó quy định này cũng gây
khó cho việc các ngân hàng trong nước học hỏi các hoạt động ngân hàng từ các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài. Đây là những điểm bất hợp lí. Tuy nhiên điều này hợp lí bởi vì chi
nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc nước ngoài, không có tư cách pháp nhân
(Khoản 9 Điều 3 Luật các TCTD năm 2010). Nếu các chi nhánh ngân hàng nước ngoài
với tiềm lực tài chính hùng mạnh của mình mà can thiệp quá sâu vào thị trường tín dụng
Việt Nam có thể gây ra những rủi ro và bất ổn trong hệ thống ngân hàng và cho cả nền
kinh tế. Vì thế cần phải hạn chế tầm ảnh hưởng của các ngân hàng nước ngoài thông qua

việc góp vốn và một số hoạt động kinh doanh để đảm bảo sự an toàn và quyền lợi của hệ
thống các tổ chức tín dụng trong nước.
Có thể nhận thấy điều này trong thực tế về ảnh hưởng của các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài đối với thị trường Việt Nam: Tính đến cuối năm 2006 vốn điều lệ của ngân
hàng Techcombank chỉ là 1500 tỷ đồng, với các nghiệp vụ ngân hàng đơn giản tín dụng,
kinh doanh thẻ và chưa có công nghệ hiện đại. Nhưng đến năm 2007 và 2008 khi HSBC
tăng tỉ lệ sở hữu lên 20%, với sự giúp đỡ của HSBC bộ mặt ngân hàng liền thay đổi, vốn
điều lệ tăng lên 3165 tỷ đồng, nâng cấp hàng loạt hệ thống phần mềm về quản lí thẻ, ngân
hàng lõi, trở thành thành viên của hai hệ thống Banknet và Smartlink. Có thể thấy sự hỗ
trợ của ngân hàng HSBC đã mang lại một nguồn vốn lớn, công nghệ hiện đại và kinh
nghiệm của một ngân hàng lịch sử lâu đời vào Việt Nam. Nhưng nếu HSBC rút vốn, hay
xảy ra sự cố nghiêm trọng thì sự ảnh hưởng này đầu tiên sẽ tác động đến các đối tác của
HSBC sau đó là cả hệ thống ngân hàng ở Việt Nam .
Hoạt động của văn phòng đại diện: Trong khi luật TCTD năm 1997 chỉ quy định tổ
chức tín dụng nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam mà không chỉ rõ giới
hạn được đặt. Thì Luật các TCTD năm 2010 quy định tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân
hàng chỉ được phép thành lập một văn phòng đại diện (Điều 124 Luật TCTD năm 2010).
Đồng thời nội dung hoạt động của văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài
cũng được quy định rõ hơn, như được thực hiện các hoạt động :

 Làm chức năng văn phòng liên lạc
 Nghiên cứu thị trường
 Xúc tiến các dự án đầu tư của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có
hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
 Thúc đẩy và theo dõi việc thực hiện các hợp đồng, thỏa thuận ký giữa tổ chức tín dụng
nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng với tổ chức tín dụng, doanh
nghiệp Việt Nam, dự án do tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt
động ngân hàng tài trợ tại Việt Nam.
2.8. Quản lý Nhà Nước đối với hoạt động của các TCTD và hoạt động ngân hàng

của các TCTD khác

24


ĐỀ TÀI NHÓM 3_LỚP T05

GVHD: VƯƠNG TUYẾT LINH

Nhìn chung, quy định về vấn đề này trong Luật các TCTD năm 2010 không có gì
thay đổi so với luật hiện hành ngoại trừ: việc chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
việc quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng phân tán ra cho toàn thể NHNN thay vì tập
trung vào thống đốc như luật hiện hành (Khoản 2 Điều 158 Luật TCTD năm 2010 và
Điều 116 Luật TCTD năm 1997). Điều này giúp cho nâng cao trách nhiệm của các thành
viên của NHNN để thực hiện tốt trong quá trình quản lý các TCTD và thi hành chính sách
tiền tệ ổn định kinh tế vĩ mô cũng như hạn chế tình trạng chủ quan duy ý chí trong hoạt
động của mình. Đồng thời giảm bớt áp lực cho thống đốc.

2.9. Thanh tra ngân hàng, kiểm toán đối với các TCTD và hoạt động ngân hàng
của các tổ chức khác
So với Luật 1997 thì Luật 2010 không có gì thay đổi ở chức năng thanh tra, kiểm
soát. Tuy không có sự thay đổi nhưng đây cũng là một vấn đề hết sức quan trọng vì hoạt
động của các tổ chức tín dụng có những tác động lớn đến sự ổn định xã hội, phát triển
kinh tế đất nước, vì với vai trò trung gian tài chính, tổ chức tín dụng là những doanh
nghiệp có khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn rất lớn trong xã hội. Việc quản lý,
thanh tra và kiểm soát không chặt chẽ có thể dẫn đến đổ vỡ tổ chức tín dụng, gây ra hiệu
ứng dây chuyển, đe dọa sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như của cả nền
kinh tế và làm mất lòng tin trong nhân dân. Do vậy, Luật các TCTD năm 2010 đã có
nhiều sự thay đổi để nâng cao mức độ an toàn trong hoạt động tín dụng trên cơ sở quán
triệt quan điểm: tổ chức tín dụng là các doanh nghiệp đặc biệt, cần được quản lý, thanh tra

và kiểm soát một cách đặc biệt.
Trong điều kiện có nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập tại Việt
Nam đã làm cho sức ép cạnh tranh tăng cao. Vì mục tiêu của các tổ chức tín dụng là huy
động vốn nhiều và tối đa hóa lợi nhuận sẽ dẫn đến xuất hiện các bảng báo cáo tài chính
đẹp nhưng không đúng với tình hình hiện tại của tổ chức để hấp dẫn các nhà đầu tư.
Chính vì thế, kiểm toán độc lập không kém phần quan trọng trong việc làm sạch hệ thống
ngân hàng, đánh giá đúng thực lực của tổ chức tín dụng.

3. KẾT LUẬN
Tại Việt Nam, sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của hệ thống tài chính nói
riêng đã đặt ra yêu cầu có quy định cụ thể hơn về trách nhiệm, hoạt động của các tổ chức
tín dụng. Bên cạnh đó để đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế, nhiều văn bản mới
được ban hành trong thời gian qua đã tạo cơ sở pháp lý thể chế hoá các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy việc cải cách, đổi mới về tổ
chức hoạt động của NHNN và các TCTD.
Từ khi Luật các TCTD năm 1997 ra đời và thực thi đến nay tuy đã đạt được những
thành tựu quan trọng nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập không chỉ làm hạn chế sự phát
triển và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, mà còn ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả quản lý, thanh tra, giám sát an toàn của Ngân Hàng Nhà Nước đối với hệ thống
TCTD. Sự ra đời Luật các TCTD năm 2010 đã gắn với việc khắc phục bất cập của Luật
hiện hành, đặc biệt là các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động

25


×