Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Trợ giúp pháp lý ở việt nam tổ chức và hoạt động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.28 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ THANH

TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM – TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Trịnh Thị Thanh



MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Từ viết tắt
Trang
MỞ ĐẦU

.......................................................................................................................... 1

Chương 1: VỊ TRÍ, VAI TRÒ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................. 9

1.1. Vị trí, vai trò TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay .....................9
1.1.1. Vị trí, vai trò TGPL trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa10
1.1.2. Vị trí, vai trò TGPL trong bảo đảm quyền con người .....................................13
1.1.3. Vị trí, vai trò TGPL trong triển khai Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về quyền bào chữa, nguyên tắc tranh tụng và công cuộc cải cách tư
pháp, cải cách hành chính .........................................................................................14
1.1.4. Vị trí, vai trò TGPL trong công tác xóa đói giảm nghèo và chính sách an sinh
xã hội .........................................................................................................................16
1.1.5. Vị trí, vai trò TGPL trong thị trường dịch vụ pháp lý.....................................16
1.1.6. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và khắc
phục hệ quả của mặt trái nền kinh tế thị trường ........................................................18
1.1.7. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hội nhập thế giới một cách toàn diện….19
1.2. Khái niệm và đặc điểm TGPL ........................................................................21
1.2.1. Khái niệm TGPL .............................................................................................21
1.2.2. Đặc điểm TGPL ..............................................................................................25
1.3. Các loại hình TGPL .........................................................................................27
1.3.1. Loại hình TGPL chia theo người thực hiện ....................................................27

1.3.2. Loại hình TGPL chia theo hình thức hoạt động ..............................................29
1.3.3. Chia loại hình TGPL theo lĩnh vực hoạt động ................................................31


1.4. Tổ chức và hoạt động TGPL một số nước trên thế giới ...............................32
1.4.1. Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL .............................................................32
1.4.2. Quản lý nhà nước hoạt động TGPL ................................................................35
1.4.3. Người thực hiện TGPL....................................................................................37
1.4.4. Người được TGPL ..........................................................................................38
1.4.5. Lĩnh vực TGPL ...............................................................................................39
1.4.6. Hình thức TGPL ..............................................................................................40
1.4.7. Về chất lượng TGPL .......................................................................................41
1.4.8. Về kinh phí dành cho TGPL ...........................................................................42
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở
VIỆT NAM .................................................................................................... 45

2.1. Khái quát tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam giai đoạn trước khi ban
hành Luật TGPL .....................................................................................................45
2.1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam giai đoạn trước năm
1997 ...........................................................................................................................45
2.1.2. Khái quát tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1997 đến
năm 2006 ...................................................................................................................48
2.2. Tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam từ khi ban hành Luật TGPL năm
2006 cho đến nay .....................................................................................................54
2.2.1. Thực trạng 08 năm triển khai Luật TGPL .......................................................55
2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL ............................70
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM.............................................................................. 87

3.1. Yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam ...........................87

3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL để phù hợp với xu hướng phát triển
TGPL trên thế giới ....................................................................................................87
3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL để phù hợp với các chính sách của
Đảng, Nhà nước. .......................................................................................................88


3.1.3. Công tác TGPL đang đặt trong bối cảnh có sự thay đổi về thể chế liên quan
đến hoạt động TGPL .................................................................................................93
3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
TGPL của người dân .................................................................................................95
3.1.5. Đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL để khắc phục những tồn tại, hạn chế
thực tiễn triển khai công tác TGPL……………………………………………..….97
3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam .................97
3.2.1. Nhóm giải pháp xây dựng, hoàn thiện thể chế ...........................................98
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức TGPL .............................................................107
3.2.3. Nhóm giải pháp về hoạt động TGPL .........................................................112
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 115

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................117


TỪ VIẾT TẮT:
Trợ giúp pháp lý: TGPL.
Trợ giúp viên pháp lý: TGVPL.
Cộng tác viên: CTV.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Ra đời vào những năm cuối thế kỷ XX, TGPL ở Việt Nam được biết

đến như là một trong những chính sách xã hội rộng lớn thể hiện bản chất tốt
đẹp của nền tư pháp nhân dân. TGPL không chỉ giúp cho người nghèo, đối
tượng chính sách và những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt được tiếp cận
pháp luật, hỗ trợ họ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp mà còn góp phần
xây dựng và hình thành lối sống và làm việc theo pháp luật. Đây cũng là một
trong những hoạt động thể hiện đậm nét truyền thống, đạo lý tương thân,
tương ái, đền ơn đáp nghĩa của dân tộc và phù hợp với yêu cầu xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh và xu thế phát triển của cộng đồng quốc tế.
Trong những năm qua, có thể khẳng định rằng, hoạt động TGPL đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng, có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội. Trên thực
tế đã hình thành hệ thống TGPL miễn phí với đội ngũ TGVPL, CTV đông
đảo làm TGPL và sự hưởng ứng, tham gia của các cấp chính quyền, cơ quan,
ban, ngành, tổ chức và nhân dân ở các địa phương. Một bộ phận đáng kể
người nghèo, đối tượng chính sách đã có thêm địa chỉ tin cậy giúp đỡ để tiếp
cận đến với công lý, qua đó có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Điều này nói lên tính đúng đắn, kịp thời của việc triển khai thực hiện
chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa
và tăng cường trợ giúp về mặt pháp luật cho nhân dân nhằm hỗ trợ các đối
tượng được hưởng bình đẳng trong việc tiếp cận pháp luật. Nhất là từ sau khi
Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 9 thông qua Luật TGPL (có hiệu lực kể từ
ngày 01/01/2007) đã tạo cơ sở pháp lý bền vững thúc đẩy công tác này phát
triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu giúp đỡ pháp luật cho người dân.

1


Sau 08 năm triển khai thi hành, đến nay, Luật TGPL và các văn bản
pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động TGPL cũng đã bộc lộ những hạn
chế, bất cập dẫn đến hiệu quả công tác này chưa cao. Hơn nữa, với tư cách là
một nhiệm vụ mới của ngành Tư pháp, công tác TGPL trên thực tế còn nhiều

khó khăn, thách thức tồn tại. Hơn nữa, trước sự thay đổi của những yếu tố liên
quan đến công tác này cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu về tổ chức và hoạt
động TGPL cho phù hợp với tình hình mới.
Do đó đặt ra vấn đề trong giai đoạn tới là cần đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả hoạt động TGPL bảo đảm tính bền vững trên cơ sở hoàn thiện thể
chế về TGPL; đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TGPL. Từ yêu cầu
trên, tác giả lựa chọn việc nghiên cứu phương diện lý luận lẫn phương diện
thực tiễn về “TGPL ở Việt Nam – tổ chức và hoạt động” trước những điều
kiện và tình hình mới nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về
đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới hệ thống chính trị, cải cách tư pháp, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và tìm ra
những giải pháp thiết thực thúc đẩy sự phát triển của nhiệm vụ mang tính
nhân văn cao cả này.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói, trong các lĩnh vực pháp luật đang tồn tại hiện nay ở nước
ta, TGPL là một lĩnh vực có bề dày hình thành và phát triển chưa lâu đời (năm
1997). Cho đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài khoa
học cấp Bộ và bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu về TGPL, cụ thể:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL,
phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay” do Viện Khoa học pháp lý
– Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, mục
đích, ý nghĩa của hoạt động TGPL; thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL, từ

2


đó đề xuất các phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động này trong thời
gian tới.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng
Pháp lệnh TGPL” do Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện,

tập trung nghiên cứ cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng Pháp lệnh TGPL
thông qua việc phân tích, đánh giá, so sánh các vấn đề có liên quan đến việc
thực hiện về pháp luât TGPL trong thời gian qua.
- Luận án Tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong
điều kiện đổi mới” của tác giả Tạ Thị Minh Lý, tập trung nghiên cứu cơ sở lý
luận, cơ sở pháp lý điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về TGPL;
thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL và phương hướng hoàn thiện việc
điều chỉnh pháp luật về TGPL về TGPL trong điều kiện đổi mới.
- Luận văn Thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở
Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng Tuyến, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ
sở pháp lý và thực tiễn về người thực hiện TGPL, từ đó có các giải pháp xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL.
- Luận văn Thạc sĩ “Bảo đảm quyền được TGPL” của tác giả Phan Thị
Thu Hà, tập trung nghiên cứu việc thực hiện quyền TGPL của công dân do hệ
thống TGPL của Nhà nước thực hiện và đề xuất một số giải pháp bảo đảm
quyền này của công dân.
- Luận văn Thạc sĩ “Phát triển TGPL ở cơ sở” của tác giả Đặng Thị
Loan, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về TGPL tại cơ
sở và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, tăng cường hiệu quả phát
huy tích cực của các phương thức này.
- Luận văn Thạc sĩ “Hoạt động TGPL trong các chương trình giảm
nghèo” của tác giả Lê Thị Thúy, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về hoạt động TGPL trong các hoạt động giảm nghèo và đề xuất

3


một số giải pháp nhằm thực hiện chính sách này có hiệu quả trong thời gian
tới.
- Luận văn Thạc sĩ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động

TGPL” của tác giả Nguyễn Bích Ngọc, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, pháp lý, thực tiễn về hoạt động TGPL, hiệu quả hoạt động TGPL ở Việt
Nam và đề xuất các định hướng, nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL trong
thời gian tới.
- Luận văn Tiến sĩ “Thực hiện pháp luật về TGPL trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huỳnh Huyện,
tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận thực hiện về TGPL trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, từ đó đưa ra các quan điểm và giải
pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về TGPL trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Luận văn Thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về TGPL ở Việt Nam” của
tác giả Cù Thu Anh, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tiễn về pháp luật TGPL ở Việt Nam và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp
luật TGPL trong thời gian tới.
- Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng hoạt động TGPL ở Việt Nam” của tác
giả Phạm Quang Đại, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chất lượng hoạt động TGPL, đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động TGPL ở
Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về TGPL, cơ
chế quản lý chất lượng dịch vụ pháp lý miễn phí.
- Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thị Mận, tập trung nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiễn,
thực trạng pháp luật điều chỉnh về Quỹ TGPL Việt Nam và tìm ra giải pháp,
định hướng hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian tới.

4


Ngoài ra, còn rất nhiều Luận án thạc sĩ, tiến sĩ Luật học và các bài tạp
chí đã nghiên cứu về tổ chức và hoạt động TGPL như Luận án tiến sĩ “Quản
lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay”

của tác giả Nguyễn Văn Tùng; Luận văn thạc sĩ “Thực hiện pháp luật về
TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Huỳnh Huyện; Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng TGPL của Trung tâm
TGPL tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Đức Trực; Luận văn thạc sĩ “Thực
hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh
Quảng Ninh” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy; Luận văn Thạc sĩ “Thực
hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo ở Việt Nam” của tác giả Vũ Thị
Hoàng Hà.v.v.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu về vị trí, vai trò TGPL trong đời
sống xã hội Việt Nam hiện nay và thực tiễn tổ chức và hoạt động TGPL ở
Việt Nam từ khi hình thành đến nay, đặc biệt là từ khi triển khai Luật TGPL
2006. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa vị
trí, vai trò của chính sách có ý nghĩa nhân văn này trong thời gian tới, góp
phần tạo điều kiện thuận lợi cho người được TGPL trong việc tiếp cận dịch vụ
TGPL miễn phí và giúp cho việc quản lý nhà nước đối với hoạt động TGPL
hiệu quả hơn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu, Đề tài cần thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Làm rõ vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay. Cụ thể, đề tài cần nghiên cứu về sự cần thiết của TGPL trong đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay thông qua việc phân tích vị trí, vai trò của TGPL trong

5


các khía cạnh lý luận và thực tiễn, đồng thời nghiên cứu khái niệm, đặc điểm
của TGPL và các loại hình TGPL.
- Nghiên cứu và tổng hợp theo vấn đề về tổ chức và hoạt động TGPL

của một số nước trên thế giới có giá trị tham khảo và vận dụng trong quá trình
đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt
Nam trước khi ban hành Luật TGPL và sau khi ban hành Luật TGPL. Mỗi
giai đoạn làm rõ những mặt làm được, những hạn chế, khó khăn, vướng mắc,
bất cập và nguyên nhân. Đặc biệt, cần làm rõ những vấn đề cơ bản của tổ
chức và hoạt động TGPL trong giai đoạn hiện nay làm cơ sở đề xuất những
giải pháp ở phần sau.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới nhằm tăng cường hiệu quả tổ chức và
hoạt động TGPL ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Phạm vi nghiên cứu
Việc xác định phạm vi nghiên cứu là một phần quan trọng, mang tính
chất định hướng để thực hiện Đề tài. Nhận thức được điều đó, ngay từ đầu, Đề
tài lựa chọn xác định phạm vi nghiên cứu là một số vấn đề mang tính chất lý
luận về TGPL trong và ngoài nước và thực tiễn về tổ chức và hoạt động
TGPL ở Việt Nam qua 02 giai đoạn: Trước khi ban hành Luật TGPL (gồm hai
thời điểm: trước năm 1997 và từ năm 1997 đến năm 2005) và đặc biệt là từ
khi ban hành Luật TGPL năm 2006 đến nay, trong đó tập trung phân tích hạn
chế, bất cập để đề ra những giải pháp về tổ chức và hoạt động TGPL nhằm
đổi mới công tác này theo hướng phát triển ổn định, bền vững.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động TGPL

6


nói riêng. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Luật TGPL và các văn bản
hướng dẫn thi hành.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp luận của triết
học Mác - Lê nin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử
dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Đồng
thời, đề tài còn vận dụng một số kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học có liên quan đến TGPL; những tài liệu về TGPL trong các giai đoạn trước
và tư liệu thực tiễn đã được đúc kết để làm sâu sắc hơn những nội dung đưa
ra.
7. Những đóng góp của đề tài
Các công trình nghiên cứu về TGPL đã phân tích rất nhiều khía cạnh
khác nhau của tổ chức và hoạt động TGPL như hiệu quả hoạt động TGPL;
quản lý nhà nước về hoạt động TGPL; chất lượng hoạt động TGPL, TGPL tại
cơ sở.... Tuy nhiên, qua gần 18 năm thành lập và phát triển, từ thực trạng tổ
chức và hoạt động của hệ thống TGPL hiện nay đã đặt ra yêu cầu phải nghiên
cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, đồng thời tham khảo một số mô hình TGPL
trên thế giới để từ đó đưa ra một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động
TGPL trong thời gian tới. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “TGPL ở Việt Nam
– tổ chức và hoạt động” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình.
Những đóng góp của đề tài:
- Làm sâu sắc hơn vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt
Nam, giải quyết vấn đề vì sao cần tồn tại chế định TGPL ở Việt Nam; nghiên
cứu khái niệm và đặc điểm TGPL, các loại hình TGPL, đồng thời cung cấp
các thông tin mang giá trị tham khảo tổng hợp theo các vấn đề về tổ chức và
hoạt động TGPL của một số nước trên thế giới.
- Đi sâu phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL hiện nay ở
Việt Nam; đánh giá những kết quả của công tác này trong mối tương quan với

7


các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; tình hình kinh tế - xã hội của đất

nước và đặc biệt là nhu cầu của các đối tượng thuộc diện được TGPL.
- Đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm đổi mới công tác
TGPL bảo đảm tổ chức và hoạt động TGPL hiệu quả, phát triển bền vững.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được kết cấu thành 03 chương sau đây:
Chương 1: Vị trí, vai trò TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt
Nam.

8


Chương 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. 1. Vị trí, vai trò TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
TGPL ở nước ta ra đời khá muộn so với lịch sử nền tư pháp Việt Nam.
Hoạt động này được nghiên cứu từ năm 1995 và ra đời vào những năm cuối
của thế kỷ XX (1997) trên nền tảng những thành tựu phát triển của những
năm đầu đổi mới, sự kiểm nghiệm thành công của những định hướng đúng
đắn được vạch ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển của dịch vụ pháp lý. Cùng với việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân; nhu cầu giúp đỡ pháp luật của nhân
dân ngày một tăng đã trở thành động lực quan trọng mang tính quyết định
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hoạt động TGPL.
Cho đến nay, sau gần 18 năm hình thành và phát triển, công tác TGPL

đã đạt được nhiều kết quả, khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong
giúp đỡ về mặt pháp luật cho đông đảo người nghèo, người có công với cách
mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khác, góp phần phát huy vai
trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Có thể khẳng định vai trò và ý nghĩa của TGPL trong đời sống xã hội
Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết và quan trọng. TGPL thể hiện được
bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tạo lập cơ
chế bảo đảm công bằng xã hội, mọi công dân dù giàu hay nghèo đều bình
đẳng trước pháp luật, đều được tiếp cận dịch vụ pháp lý như nhau trong điều

9


kiện phát triển nền kinh tế thị trường. TGPL là một trong những hình thức
đưa chủ trương chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và bảo đảm
công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống nhằm tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hoàn thiện
pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ, đồng thời TGPL góp phần thiết
thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; nâng cao ý thức pháp
luật và trình độ dân trí để người dân biết cách tự ứng xử phù hợp với các quy
định pháp luật, góp phần lành mạnh hóa quan hệ xã hội, một phần củng cố
lòng tin của người dân vào Nhà nước, pháp luật, góp phần ổn định chính trị,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay được
thể hiện qua các khía cạnh lý luận và thực tiễn sau:
1.1.1. Vị trí, vai trò TGPL trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
Trong Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, Nhà nước có trách nhiệm là xây dựng, hoàn

thiện hệ thống pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật, phải quan tâm đến
người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã
hội bằng các chính sách pháp luật và các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ cụ thể để
đưa pháp luật đến với người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng
yếu thế khác trong xã hội và đưa họ vào đời sống nhà nước và pháp luật để
pháp luật thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp
nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lại càng phải quan tâm, chú
trọng hơn nhằm tăng cường các biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích của nhóm
dân cư này, hạn chế phân hóa giàu nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, thực thi
trên thực tế nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thể hiện
tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.

10


Ngày nay nội dung “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”
[33, Điều 2] có yêu cầu mới là Nhân dân không chỉ chủ yếu thực hiện quyền
lực nhà nước thông qua dân chủ đại diện, mà còn từng bước thực hiện các
hình thức dân chủ trực tiếp, đó sẽ là cơ sở, là tiêu chí để Nhân dân kiểm soát,
đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Vì vậy, chính Nhà nước phải là
chủ thể chịu trách nhiệm chính trong bảo đảm cho người nghèo, những đối
tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội có được chính sách
pháp luật bình đẳng, tạo điều kiện cho họ được hỗ trợ, giúp đỡ để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp. Từ đó, đặt ra yêu cầu TGPL phải giúp người nghèo,
những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội nâng cao
năng lực, tự mình tham gia quyết định các công việc chung; kiểm tra, giám
sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước và hiệu quả điều chỉnh của
pháp luật, bảo đảm để cho “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”
không những được ghi nhận trong Cương lĩnh, Hiến pháp và được thể chế
trong các đạo luật mà còn phải được bảo đảm thực hiện trên thực tế, đến với

mọi người, đặc biệt là người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn
thương để cho quyền lực nhà nước thật sự là của Nhân dân, được Nhân dân
ủy quyền cho Nhà nước mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền.
Vì vậy, TGPL cần phải tiếp tục được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa để
đưa pháp luật đến với người nghèo, những người thuộc nhóm yếu thế để họ
được thụ hưởng giá trị tiến bộ mà pháp luật mang lại. Chính vì vậy, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi TGPL phải tồn tại và hướng đến mục
tiêu nâng cao nhận thức pháp luật của người nghèo và các nhóm người thuộc
nhóm yếu thế trong xã hội, giúp họ biết sử dụng pháp luật để bảo vệ và thực
thi các quyền và thực hiện các nghĩa vụ trách nhiệm của công dân.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, TGPL gắn với
quá trình giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ xã hội đã

11


giúp nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghèo, người thuộc nhóm yếu
thế, dễ bị tổn thương trong xã hội. Đây là một quá trình giáo dục ý thức pháp
luật đối với xã hội thông qua sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, xác
định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với Nhà nước và xã hội và
các trước chủ thể khác, để từ đó họ nhận thấy được những hành vi được phép
làm và những hành vi không được phép làm. Đặc biệt, thông qua những vụ
việc cụ thể, TGPL đã giúp những nhóm người này nắm bắt được nội dung
pháp luật và cách thức áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ thể trong cuộc
sống để các chủ thể này nắm được nội dung các văn bản pháp luật, hiểu và
vận dụng, sử dụng pháp luật một cách chính xác, tích cực để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan hệ xã hội.
TGPL trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn giúp làm sáng
tỏ nguyên tắc Hiến pháp “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật” [33, Điều
8], “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” [33, Điều 16]. Thông qua

hoạt động của mình, TGPL giúp người nghèo, những đối tượng chính sách,
đối tượng yếu thế khác trong xã hội nhận thức được vị trí, vai trò của mình
trước pháp luật; vị trí, vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội; các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ.
TGPL trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc dần dần hình thành thói quen tuân thủ và chấp
hành pháp luật, nghĩa là trong thói quen xử sự đó pháp luật đã thực sự trở
thành kim chỉ nam cho mọi hành động của con người. Thói quen đó chỉ có thể
đạt được do kết quả nhận thức sâu sắc của cá nhân về việc thống nhất giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội khi tuân thủ pháp luật.
Tóm lại, TGPL giúp người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ tổn
thương trong xã hội thấy được pháp luật vừa là công cụ quản lý nhà nước vừa
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Nó vừa là biện pháp tăng

12


cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa góp phần thực thi dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Có thể nói, TGPL là một trong những khâu làm hoàn chỉnh hơn vai trò
của ngành Tư pháp từ việc xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật để
đưa pháp luật vào đời sống xã hội có hiệu quả.
1.1.2. Vị trí, vai trò TGPL trong bảo đảm quyền con người
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã ghi nhận “Quyền được coi
là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật và quyền
được bào chữa” [23, Điều 11); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị ghi nhận “Mọi người đều bình đẳng trước các toà án, cơ quan tài
phán và có quyền được hưởng một cách đầy đủ, bình đẳng quyền được bào
chữa, ngay cả khi họ không có điều kiện chi trả” (24, Điều 14). Bên cạnh đó,
các quyền con người, quyền công dân trong từng lĩnh vực được tiếp tục khẳng
định trong nhiều công ước của Liên Hợp quốc như Công ước của Liên Hợp

quốc về chống tham nhũng, Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển và
Công ước UNECE về tiếp cận thông tin môi trường... Ngày càng có nhiều
điều ước, hiệp ước quốc tế, kế hoạch hành động, các tuyên bố quốc tế yêu cầu
hoặc khuyến khích các quốc gia ban hành các đạo luật để bảo đảm quyền con
người, quyền công dân... Việc Việt Nam là thành viên của nhiều Công ước
quốc tế về quyền con người, đặt ra yêu cầu Nhà nước cần có trách nhiệm bảo
đảm thực thi trên thực tế các quyền đó, hạn chế giàu nghèo, kiểm soát được
các tiêu cực mới phát sinh. Nhà nước phải thể hiện vai trò của mình trong bảo
đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người, quyền công dân cho người
nghèo và nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội để họ có điều kiện bình
đẳng với các chủ thể khác trong tham gia đời sống xã hội và pháp luật. Nhà
nước phải có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhóm
người này, đồng thời kiểm soát được chất lượng các dịch vụ này bảo đảm
công bằng, bình đẳng với các đối tượng khác trong xã hội.

13


Do đó, TGPL hình thành và phát triển nhằm góp phần thi hành dân chủ,
giải phóng con người mọi áp bức, bất công, tôn trọng nhân quyền. Giải phóng
con người khỏi mọi áp bức bất công, khơi dậy và phát huy tiềm năng con
người, coi con người là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đây là một
chính sách góp phần bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của người nghèo,
nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương không chỉ thực hiện trên thực tế quyền con
người mà còn giúp họ thực hiện đầy đủ trên thực tế quyền và nghĩa vụ, giúp
họ có điều kiện sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Bởi vì
họ là nhóm đối tượng yếu thế, không có đủ năng lực, điều kiện nắm bắt, sử
dụng pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, vì thế, hơn ai hết,
người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã
hội phải được quan tâm, giúp đỡ. Có như vậy, mới phản ánh đúng đắn và đầy

đủ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, mới bảo
đảm để tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tạo lập công bằng, bình
đẳng trên thực tế giữa các chủ thể.
1.1.3. Vị trí, vai trò TGPL trong triển khai Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền bào chữa, nguyên tắc tranh tụng và
công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự
bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” [33, Điều 31];“nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [33, Điều 103] tức là phán quyết của
Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng, như vậy vai trò của người bào chữa
trong phiên tòa ngày càng quan trọng, nếu không có người bào chữa tham gia
thì không thể bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và khó có phiên tòa công bằng.
Như vậy, đội ngũ người bào chữa nói chung cần được tăng cường hơn nữa

14


nhằm đáp ứng nguyên tắc tranh tụng tại Tòa án và quyền bào chữa theo tinh
thần Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hơn nữa, một trong những cách thức để tổ chức thi hành những quy
định mới về quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tư
pháp là sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và huy
động tối đa nguồn lực xã hội để đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu TGPL cho người
nghèo, người có công với cách mạng, đối tượng yếu thế, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số,
qua đó nâng cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý đất nước, quản lý
xã hội và bảo vệ quyền công dân, góp phần xây dựng nền tư pháp công bằng,
dân chủ.
Đồng thời, qua quá trình thực hiện nghiệp vụ, hoạt động TGPL cũng sẽ

góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
giảm thiểu các lượng án oan sai trong các phiên tòa hình sự. Hơn nữa, góp
phần hướng dẫn giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện vượt
cấp, kéo dài trong thời gian dài do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
giảm lòng tin của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính
sách đối với pháp luật của Nhà nước; góp phần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp. Đồng thời, công cuộc cải
cách hành chính, cải cách tư pháp cũng đòi hỏi phải đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động TGPL góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp
công trong lĩnh vực TGPL, phát huy tính chủ động, nâng cao ý thức thực hiện
trách nhiệm xã hội của các tổ chức xã hội, nhất là của đội ngũ luật sư và các
tổ chức hành nghề luật sư trong việc TGPL cho người nghèo và các đối tượng
chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội.

15


1.1.4. Vị trí, vai trò TGPL công tác xóa đói giảm nghèo và chính sách
an sinh xã hội
Trong những năm qua một trong những nhiệm vụ được Đảng và Nhà
nước hết sức quan tâm là công tác xóa đói, giảm nghèo, coi đây là một quyết
sách lớn để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác này đã được
triển khai khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, giáo dục, y tế, giáo
dục... Với mục tiêu xóa đói giảm nghèo toàn diện, bền vững và bảo đảm các
chính sách an sinh xã hội trên thực tế, đặt ra yêu cầu TGPL phải trở thành một
nội dung quan trọng trong tổng thể chương trình xóa đói giảm nghèo và an
sinh xã hội. Có ý nghĩa giảm nghèo về mặt pháp luật, TGPL đóng vai trò là
cầu nối để người dân nhận thức và thực hiện các chính sách ưu đãi mà Nhà
nước dành cho họ hiệu quả, đồng thời giúp chính sách giảm nghèo của Đảng

và Nhà nước càng trở nên toàn diện hơn.
Do đó, TGPL là một bộ phận cấu thành trong tổng thể giải pháp xóa đói,
giảm nghèo, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, là một chính
sách lớn trong tổng thể các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Việc thành lập tổ chức TGPL miễn phí cho người nghèo, người có công với cách
mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác ở Việt Nam xuất phát từ chủ
trương xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội của
Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy đòi hỏi công tác này cần phải lấy người nghèo,
người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác làm
trung tâm cho mọi chính sách và hoạt động của mình.
1.1.5. Vị trí, vai trò TGPL trong thị trường dịch vụ pháp lý
Trong thị trường dịch vụ pháp lý nói chung, luật sư và các tổ chức hành
nghề luật sư là một bộ phận giữ vai trò lớn bên cạnh các thiết chế của Nhà
nước và xã hội khác là Trung tâm TGPL nhà nước, Trung tâm tư vấn pháp
luật của các tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp, chính trị - xã hội; luật gia,

16


chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, tư pháp... Tính đến hết năm 2014, cả
nước có 3.417 tổ chức hành nghề luật sư với 9.375 luật sư, tuy nhiên số lượng
luật sư này so với tổng dân số trên cả nước còn rất thấp và có sự phát triển
mất cân đối giữa khu vực thành thị và khu vực miền núi, trung du. Tính trên
tổng dân số 90,5 triệu thì trung bình gần 10.000 dân mới có 01 luật sư. Tỷ lệ
này là quá nhỏ so với nhu cầu tiếp cận và sử dụng pháp lý của người dân, đặc
biệt là người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng yếu thế
khác trong xã hội. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái lan là 1/1.526, Singgapore là
1/1.000, Nhật Bản là 1/4.546, Pháp là 1/1.000, Mỹ là 1/250.
Có thể thấy số lượng luật sư ở nước ta hiện nay chưa đủ để đáp ứng nhu
cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng tăng của cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả

hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, chỉ khoảng trên
20% vụ án hình sự trong cả nước có sự tham gia của luật sư. Ở nhiều địa
phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng luật sư
chưa đủ để bào chữa trong các vụ án bắt buộc có sự tham gia của luật sư mà
phải mời các luật sư ở địa phương khác, do đó nhiều vụ án phải tạm hoãn, gây
khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Sự thiếu vắng luật sư trong nhiều vụ
án hình sự (khoảng 80%) đã không bảo đảm được nguyên tắc tranh tụng,
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến chất
lượng giải quyết vụ án.
Khi mà đội ngũ luật sư còn quá ít, chưa đủ số lượng để đáp ứng được
nhu cầu pháp lý trong dân số, hơn nữa việc cung cấp dịch vụ pháp lý của luật
sư là hoạt động có thu phí thì người nghèo, người có công với cách mạng,
người yếu thế khác trong xã hội… khó có thể tiếp cận được dịch vụ của luật
sư. Họ thường không có điều kiện về kinh tế để tiếp cận với các loại dịch vụ
pháp lý có thu phí nên trong nhiều trường hợp không được tư vấn pháp luật
hoặc không có luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm hại. Xuất

17


phát từ yêu cầu trên, tổ chức TGPL của nhà nước ra đời và phát triển đã tạo
cơ chế cần thiết để người nghèo và người có công với cách mạng, người yếu
thế khác trong xã hội được tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình để tham gia vào các quan hệ xã hội, củng
cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào pháp luật và góp phần thực hiện
công bằng xã hội.
1.1.6. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật và khắc phục hệ quả của mặt trái nền kinh tế thị trường
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và việc hội nhập với nền kinh tế thế giới, mặt tích cực là thúc

đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển nhưng đi kèm với nó là một số biểu hiện
tiêu cực như gia tăng sự phân hóa giàu nghèo, đồng thời đưa đến những hệ
lụy khác trong xã hội. Những vấn đề đó, nhất là sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng rõ rệt, khoảng cách về kinh tế ngày càng cách xa thì tất yếu sẽ dẫn đến
sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận các điều kiện y tế, giáo dục, văn hóa…,
trong đó có việc tiếp cận các dịch vụ pháp lý. Hơn nữa, từ các vấn đề của nền
kinh tế đã dẫn đến phát sinh những mối quan hệ trong xã hội đòi hỏi sự điều
chỉnh của pháp luật.
Mặt khác, trong điều kiện hệ thống pháp luật nước ta đang trong quá
trình phát triển và hoàn thiện, số lượng văn bản pháp luật ngày càng nhiều và
thường xuyên được sửa đổi, bổ sung thì việc người dân tiếp cận với pháp luật
để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, xử sự phù hợp trong các quan hệ xã
hội không phải dễ dàng, do đó TGPL của Nhà nước cho người nghèo, đồng
bào dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng và các nhóm người yếu
thế khác là yêu cầu khách quan và cần thiết. Hơn nữa, thông qua hoạt động
TGPL cũng có thể phát hiện ra các quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng
chéo để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Đồng thời, các vụ việc kiến

18


nghị công vụ cũng góp phần tăng thêm vai trò, trách nhiệm cho cơ quan nhà
nước khi thực thi công vụ.
1.1.7. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hội nhập thế giới một cách
toàn diện
Cách đây 500 năm, trên thế giới hoạt động TGPL đã ra đời. Trong
những thập kỷ gần đây, khi xây dựng và phát triển đất nước trong hoà bình,
các nhà nước trên thế giới có điều kiện chăm lo hơn các vấn đề xã hội và bảo
đảm công bằng xã hội thì hoạt động TGPL phát triển mạnh mẽ hơn. Đây được
coi là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội, là công cụ để nhà nước thực

hiện nghĩa vụ đối với công dân. Như vậy, nếu thừa nhận trật tự xã hội trong
nhà nước pháp quyền là một mục tiêu cần hướng tới thì cần coi hoạt động
TGPL là một trong những phương tiện để đạt được mục tiêu đó. TGPL cần
thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng nhà nước pháp quyền
và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi
công lý và cũng cần thiết như một bộ phận không thể thiếu trong quá trình xét
xử.
Hiện nay, có một nhận thức mang tính quốc tế, đó là tiếp cận công lý là
một quyền cơ bản của con người liên quan đến pháp luật hình sự. Con người
không thể bị cản trở tiếp cận với công lý, đặc biệt khi quyền tự do hoặc cuộc
sống của họ bị đe dọa do thiếu nguồn lực để thuê luật sư bảo vệ. Nhiều nước
trên thế giới coi TGPL là một trong các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền,
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Hiến pháp nhiều nước quy định
quyền được TGPL trong tư pháp hình sự là một trong các quyền cơ bản của
công dân, bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho những người không có khả
năng thuê luật sư, đặc biệt trong vụ án hình sự. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật. Xuất phát từ việc hội nhập thế giới mang tính toàn

19


×