Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Hoàn thiện pháp luật về đầu tư nước ngoài tại CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.91 KB, 75 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, với sự hướng
dẫn của Tiến sỹ Võ Đình Toàn - Phó Viện trưởng Viện khoa học pháp lý - Bộ
Tư pháp.Các nội dung và kết quả nghiên cứu trong đề tài là nghiêm túc và
trung thực, chưa từng được công bố trước đây.Các thông tin về số liệu, dẫn
chứng phân tích và một số ý kiến đánh giá đều được trích dẫn từ những nguồn
tư liệu đáng tin cậy thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu có bất kỳ sự gian lận, thiếu trung thực nào trong quá trình nghiên
cứu, tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng, cũng như chịu trách nhiệm về
kết quả luận văn của mình.

Hà nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Tác giả

Syvanh Leemaiteeng


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Thầy giáo – Tiến
sĩ VÕ ĐÌNH TOÀN, Phó Viện trưởng Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư
pháp đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để tác giả có thể hoàn thành luận văn nàỵ
Tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo
Khoa Sau Đại học – Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình giảng dạy trong
thời gian tác giả học trong trường, đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả
hoàn thành khóa học và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin cảm ơn sự đóng góp ý kiến, sự giúp đỡ tận tình của
các bạn học viên lớp Cao học khóa 19, Trường đại học Luật Hà Nội, các bạn
sinh viên Lào tại Việt Nam.
Tác giả

Syvanh Leemaiteeng




DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CHDCND: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
CHXHCN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
IMF: Quỹ tiền tệ thế giới
Lào: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
NDCM: Nhân dân cách mạng
GDP: Sản phẩm quốc nội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................................2


1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay với xu thế toàn cầu hoá, việc hình thành các
liên minh kinh tế, đầu tư nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng trong việc đẩy
nhanh quá trình hội nhập của các nước. Đầu tư nước ngoài diễn ra với quy mô
ngày càng lớn, đa dạng và trong nhiều lĩnh vực vì nó mang lại nguồn lợi rất lớn
cho cả nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Do đó, các nước đầu tư tích cực tìm
kiếm thị trường mới, hấp dẫn để đầu tư thu lợi nhuận, còn nước nhận đầu tư

cũng tạo mọi điều kiện để thu hút, khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Trong bối cảnh đó, giống như Việt nam, Lào cũng đang tích cực tham
gia vào nền kinh tế thế giới với những nỗ lực trong tất cả các mặt. Trong đó
thu hút, khuyến khích đầu tư nước ngoài là giải pháp quan trọng giúp Lào có
những bước “chuyển mình” nhanh hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Tình hình
thực tiễn tại Lào cho thấy, Lào rất cần công nghệ tiên tiến và nguồn vốn đầu tư
từ các nước công nghiệp phát triển để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế -xã
hội, hoàn thành thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.Thu hút đầu tư nước ngoài sẽ giúp Lào giải quyết các khó khăn về vốn,
tạo việc làm cho người lao động, chuyển giao công nghệ và cải tiến cơ cấu kinh
tế, đưa nền kinh tế tham gia phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ.
Trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Lào chú trọng phát
triển và giữ vững mối quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam quốc gia có mối quan hệ lịch sử gắn bó lâu đời, nước láng giềng có sự tương
đồng về nhiều mặt như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá...Hoàn thiện pháp luật
nói chung và hoàn thiện các qui định Pháp luật về Đầu tư tại Lào phải đặt
trong sự so sánh và kinh nghiệm thực tiễn từ Việt Nam .Vì vậy tôi quyết định
chọn đề tài “Các qui định pháp luật về Đầu tư nước ngoài của Việt Nam và
Lào: Nhìn từ góc độ so sánh” làm đề tài luận văn Thạc sỹ luật học.


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tại Việt Nam đã có các công trình nghiên cứu, luận văn tốt nghiệp,
sách và tạp chí…đề cập về pháp luật đầu tư nói chung và luật đầu tư nước
ngoài nói riêng như :
“Thực trạng và giải pháp thúc đẩu tư nước ngoài vào Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hóa”, Khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Đình Cẩn, năm 2003,
Đại học Ngoại thương;
“ Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt
bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt

Nam”, Luận văn tốt nghiệp, Vũ Huyền Bảo, năm 2003.
“ Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam ”, Luận văn tốt nghiệp, Hồng Minh Phương (Kinh tế
25 D) Trương Đại học Luật Hà Nội 2004.
“ Pháp luật về bảo đảm đầu tư Việt Nam - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn ”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Phạm Nhật Tân, Đại học Luật Hà Nội
2006…
Tại Lào,đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, các luận văn tốt
nghiệp, cách sách và tạp chí… đề cập liên quan đến vấn đề đầu tư nói chung
và đầu tư nước ngoài nói riêng đến như:
Một số công trình nghiên cứu về đầu tư đăng trên tạp chí TARGET
(viết về hoạt động đầu tư của Lào).
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế CHDCND
Lào”, Luận án Tiến sỹ của Bua phăm Thíp Pha Vông, năm 2001
“Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Công Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào”; Luận văn thạc sỹ luật học của
Souliya Pouangpadith
Tìm hiểu Luật đầu tư Việt Nam và Lào, Luận văn tốt nghiệp của Poumy
Sinlatanathamatheva


3
“Pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào - thực
trạng và phương hướng hoàn thiện”, Luận văn Cao học của

NorKeo

Kommadam ..
Mỗi tác phẩm đề cập đến vấn đề đầu tư ở một góc độ khác nhau.
Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về

vấn đề so sánh các qui định về pháp luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam và
Lào, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện các qui định về
pháp luật đầu tư của Lào.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung vào phân tích quá trình ra đời, nội dung chủ yếu của
các qui định của pháp luật về đầu tư nước ngoài trong các văn bản pháp luật
của Việt Nam và Lào được ban hành trong thời gần đây.Chủ yếu tập trung
nghiên cứu và so sánh các qui định của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Lào
( Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài năm 2004 và các văn bản hướng dẫn )
và Việt Nam( Luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn năm 2005).
Mới đây nhất, Lào đã ban hành Luật Khuyến khích đầu tư năm 2010
(có hiệu lực thi hành từ năm 2011) điều chỉnh cả hoạt động đầu tư trong
nước và nước ngoài .Tuy nhiên, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài năm
2004 của Lào vẫn có giá trị thực hiện, nhà nước chỉ khuyến khích các áp
dụng Luật khuyến khích đầu tư 2010 đối với hoạt động đầu tư nước ngoài từ
năm 2011 đến nay và văn bản hướng dẫn thực hiện vì Luật Khuyến khích
đầu tư chung hiện nay vẫn chưa đầy đủ.Vậy nên, trong khuôn khổ Luận văn
này chỉ đề cập, so sánh các qui định pháp luật đầu tư nước ngoài của Lào
theo Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài năm 2004.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy phạm pháp luật của
Việt Nam và Lào điều chỉnh các quan hệ đầu tư mà nhà đầu tư là bên nước


4
ngoài; đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, Lào về đầu tư
nước ngoài vào mỗi nước; các quan điểm, tư liệu về thực tế đầu tư vào Việt
nam và Lào.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện theo phép duy vật biện chứng Chủ nghĩa Mác

- Lênin về Nhà nước và Pháp luật; những tư tưởng cơ bản thể hiện trong
đường lối của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh, logic…và nhiều phương pháp khoa
học khác nhằm làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của đề tài trên phương
diện lý luận và thực tiễn trong đó phương pháp chủ yếu là so sánh, phân tích,
tổng hợp.
6. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu quá trình phát
triển các qui định của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Lào trong sự so sánh
với Việt nam. Đặc biệt luận văn chú trọng tìm ra phýõng hýớng và bài học
kinh nghiệm và giải pháp để hoàn thiện và hệ thống hoá các qui định về pháp
luật đầu tư nước ngoài ở Lào, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi thu
hút các dự án đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
-

Nghiên cứu làm rõ căn cứ lý luận để so sánh pháp luật đầu tư nước
ngoài của Việt Nam và Lào

-

Phân tích, đánh giá các qui định pháp luật về đầu tư nói chung và
đầu tư nước ngoài nói riêng ở Lào và Việt nam từ góc độ so sánh.

-

Đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật về đầu tư nước ngoài tại Lào dựa trên cơ sở kết quả so sánh và

kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam.


5
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời cảm ơn, phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Những căn cứ lý luận để so sánh các qui định về pháp luật
đầu tư nước ngoài của Việt Nam và Lào.
Chương 2: So sánh các qui định pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt
Nam và Lào.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư
nước ngoài ở Lào hiện nay


6
Chương 1.
NHỮNG CĂN CỨ LÝ LUẬN ĐỂ SO SÁNH CÁC QUI ĐỊNH VỀ PHÁP
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM VÀ LÀO
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật đầu tư nước ngoài
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của pháp luật đầu tư nước ngoài
Ngày nay, thuật ngữ “đầu tư” được sử dụng rộng rãi và có nhiều cách
hiểu khác nhau.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt Việt Nam thì “ đầu tư là bỏ vốn vào sản
xuất kinh doanh để được hưởng phần lời lãi”.[27.Trang 9]
Dưới góc độ khoa học, đầu tư (Theo tiếng Anh là Invesment) là việc sử
dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn
hơn.Nói cách khác, đầu tư là việc đưa vốn vào một hoạt động kinh doanh nào
đó nhằm mục đích thu lợi nhuận.Vốn đầu tư bao gồm tiền và các tải sản có
giá trị khác.[27.Trang 9]

Dưới góc độ kinh tế, đầu tư được hiểu là khâu đầu tiên trong quá trình
sản xuất kinh doanh của chủ thể đầu tư. Đầu tư cũng được hiểu là toàn bộ các
chi phí được bỏ ra trước khi thu lợi nhuận . Đầu tư có thể được coi là quá
trình lâu dài bao gồm nhiều khâu nhiều, bước.
Dù cách diễn đạt các khái niệm như đã nêu trên có khác nhau song
không có sự khác biệt lớn, theo đó, để xác định một hoạt động được coi là đầu
tư căn cứ vào mấy đặc điểm sau:
- Đầu tư là một hoạt động tài chính (bỏ vốn thu lợi nhuận) vốn đầu tư
có thể là tiền hoặc các loại tài sản có giá trị có thể tính thành tiền, đất đai hoặc
các tài nguyên khác.
- Đầu tư là hoạt động diễn ra trong một thời gian tương đối dài.


7
- Hoạt động đầu tư có tính sinh lời nhưng cũng có tính rủi ro và độ rủi
ro càng cao khi nhà đầu tư đưa vốn ra nước ngoài để hoạt động đầu tư ở nước
ngoài.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về đầu tư là việc
nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền hoặc các tài sản có giá trị khác để thực hiện
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận.
Xét trên góc độ quốc gia, hoạt động đầu tư cũng được phân chia thành
hai hình thức cơ bản là : Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Về khái niệm đầu tư nước ngoài hiện nay có rất nhiều quan điểm như:
Theo Hội đồng tương trợ kinh tế đã đưa ra khái niệm: “ đầu tư nước
ngoài được hiểu là tất cả những loại giá trị vật chất mà nhà đầu tư đưa từ
nước ký kết này sang nước ký kết hữu quan theo pháp luật của nước sử dụng
đầu tư”.[27.Trang 6]
Theo “Đại từ điển Tiếng Việt” thì “Đầu tư nước ngoài là việc xuất
khẩu tư bản của nước mình đem đầu tư ở nước ngoài để thu lợi bằng cách
xây dựng xí nghiệp mới, mở rộng xí nghiệp cũ ở nước ngoài hay mua bán

chứng khoán của các công ty ở nước ngoài.”[27.Trang 8]
Trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, khái niệm đầu
tư nước ngoài được hiểu là “ mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một
bên do các công dân hoặc công ty của bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực
tiếp hay gián tiếp, bao gồm các hình thức : một công ty hoặc m ột doanh
nghiệp; cổ phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phi ếu, gi ấy
ghi nợ và các quyền lợi đối với các khoản nợ dưới các hình thức khác
trong công ty; các quyền theo hợp đồng như hợp đồng chìa khóa trao tay,
hợp đồng xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc
hợp đồng phân chia doanh thu, tô nhượng hoặc các hợp đồng tương t ự
khác..”[27.trang 10]


8
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987,
khái niệm đầu tư nước ngoài được hiểu như sau: “ Đầu tư nước ngoài là
việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Vi ệt Nam v ốn
bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam
chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành l ập xí
nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100 % vốn nước ngoài theo qui định của
luật này.” (Khoản 3, điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987)
Theo khoản 12, điều 3 Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam giải thích
như sau: “ Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động
đầu tư.”
Tại Lào, thuật ngữ “ đầu tư nước ngoài” được hiểu là các nhà đầu tư
nước ngoài đưa vốn, bao gồm các tài sản, công nghệ và sự lành nghề vào
nước Lào để thực hiện hoạt động kinh doanh.(Điều 2 Luật khuyến khích đầu
tư nước ngoài năm 2004)
Từ những khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài

chung nhất như sau: đầu tư nước ngoài là việc nhà đâu tư của nước này đưa
vốn bằng tiền hoặc tài sản khác vào nước khác để thực hiện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lại lợi nhuận và những mục tiêu kinh
tế - xã hội nhất định.Về bản chất đây là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình
thức phát triển cao của các quan hệ kinh tế quốc tế. Nếu xét ở góc độ nước
nhận đầu tư thì đầu tư của nhà đầu tư nước khác (Kể cả vùng lãnh thổ) vào
nước đó thì gọi là đầu tư nước ngoài.
Như vậy, đầu tư nước ngoài là một tất yếu khách quan đối với cả phía đầu
tư và phía tiếp nhận đầu tư.Phía đầu tư chủ yếu là các công ty đa quốc gia
thuộc các nước phát triển hoặc các nền kinh tế mới nổi.Do yêu cầu mở rộng
kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh, do sự chi phối của qui luật lợi


9
nhuận và tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nhằm tận dụng lợi thế vốn có của mình
các công ty đa quốc gia phải vươn tầm hoạt động ra khắp thế giới chủ yếu đầu
tư vào các nước đang phát triển.Về phía các nước đang phát triển, kinh tế
đang trên đà phát triển nên thu nhập bình quân trên đầu người thấp, khả năng
tiêu dùng cũng như mức tích lũy còn ở mức thấp, phần lớn thu nhập được
dùng để đảm bảo cho tiêu dùng ở mức tối thiểu cần thiết, do đó phần tiết kiệm
vốn là rất nhỏ.
Nói cách khác, các nước phát triển cần một số vốn tương đối lớn để
phát triển kinh tế.Mặt khác, ở các nước đang phát triển do ngành công nghiệp
chưa phát triển nên hàng hóa xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, nguyên liệu sơ
chế hoặc những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, trong khi đó hàng nhập
khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị có giá trị gia tăng cao.Vì vậy cán cân
thương mại mất cân bằng, tình trạng nhập siêu vẫn còn lớn đồng thời ngoại tế
cũng bị thiếu hụt trầm trọng.Chính vì vậy việc thu hút đầu tư từ nước ngoài là
điều cần thiết.
Pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà

nước.Nhà nước quản lý mọi hoạt động của đời sống kinh tế - chính trị - xã
hội, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng các qui định pháp
luật về đầu tư nước ngoài.
Pháp luật về đầu tư nước ngoài được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả
ba bộ phận là luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hưởng dẫn trực tiếp thi
hành; các chế định liên quan đến đầu tư nước ngoài được qui định trong các
văn bản pháp luật khác; các qui phạm pháp luật có liên quan đến đầu tư
nước ngoài được qui định trong các điều ước quốc tế mà nước đó ký kết hoặc
tham gia.
Pháp luật về đầu tư nước ngoài hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các
luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn trực tiếp thi hành.


10
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về pháp luật về
đầu tư nước ngoài là hệ thống những qui phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành điều chính các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước
ngoài tại nước đó.
Pháp luật về đầu tư nước ngoài có những đặc điểm sau:
Một là các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật
đầu tư nước ngoài phải mang yếu tố nước ngoài.
Dấu hiệu đặc trưng có tính chất bắt buộc của các quan hệ xă hội thuộc
đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là yếu tố nước ngoài.
Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của các bộ pháp luật khác như
pháp luật Dân sự, pháp luật Kinh tế -Thương mại, ...áp dụng chung cho mọi
chủ thể kinh doanh không được xem là pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài như:
- Quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với Nhà nước nhận đầu tư mà đại
diện là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Quan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với Nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài
với nhà đầu tư trong nước.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các tổ chức,
cá nhân nước ngoài trong góp vốn đầu tư khi đã hình thành doanh nghiệp.
Hai là pháp luật về đầu tư nước ngoài có phương pháp điều chỉnh đặc
thù
Pháp luật về đầu tư nước ngoài có ba phương pháp điều chỉnh: phương
pháp thỏa thuận (hay còn gọi là phương pháp tự nguyện), phương pháp mệnh


11
lệnh (hay còn gọi là phương pháp bắt buộc), và phương pháp khuyến
khích.Ba phương pháp này có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau
và được sử dụng trong sự kết hợp với nhau.Tuy ở mỗi quốc gia trên thế giới
cách thức kết hợp ba phương pháp này là khác nhau những hầu hết đều sử
dụng ba phương pháp điều chỉnh này.
Ba là pháp luật về đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu thành là một số
lượng lớn các điều ước quốc tế có liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài
mà quốc gia đó ký kết hoặc gia nhập
Các ngành luật khác cũng có thể là bộ phận cấu thành các điều ước
quốc tế nhưng không nhiều hoặc phong phú như pháp luật về đầu tư nước
ngoài.Bởi trong pháp luật đầu tư nước ngoài, các quy phạm trong các điều
ước quốc tế tham gia điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của chủ thể các quan hệ
pháp luật đầu tư nước ngoài tại quốc gia đó.Các nhà đầu tư nước ngoài coi
các điều ước quốc tế là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền
và nghĩa vụ của họ.Ví dụ như Việt nam pháp luật về đầu tư nước ngoài có bộ

phận cấu thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế như Hiệp định khung
về khu vực đầu tư ASEAN, 41 Hiệp định song phương và khuyến khích và
bảo hộ đầu tư, 34 Hiệp định tránh đánh thuế lần 2, Hiệp định thương mại Việt
Nam và Hoa Kỳ.Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hai bên hay
nhiều bên được tiến hành theo các qui định của pháp luật Việt Nam về ký kết
và thực hiện các điều ước quốc tế.
1.1.2 Vai trò của pháp luật đầu tư nước ngoài
Pháp luật về đầu tư nước ngoài là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói chung cũng như tới tất cả các yếu tố
thuộc thượng tầng kiến trúc nói riêng.Do đó, pháp luật về đầu tư nước ngoài
có một số vai trò chủ yếu sau đây:


12
Thứ nhất, pháp luật về đầu tư nước ngoài thể hiện quan điểm,đường lối
chính sách của Đảng cầm quyền và Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước
ngoài
Đối với mỗi quốc gia, pháp luật là phương tiện thể chế hóa đường lối,
chính sách của Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền được thực
hiện có hiệu quả.Pháp luật còn là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt
đời sống xã hội cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Bản thân hoạt động đầu tư ngoài với những lợi ích to lớn mang lại cho
nền kinh tế, nó còn mang nhiều nguy cơ đối với nước tiếp nhận đầu tư như là
kéo dài xu hướng thay thế nhập khẩu và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, dễ
làm tăng nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán thậm chí do sự độc quyền của
các nhà đầu tư nước ngoài sẽ làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, làm lệch sự phân bổ các nguồn lực tài chính, tăng nguy cơ phá
sản của các cơ sở kinh tế và ngành nghề truyền thông và một số tác động phi
kinh tế..Bởi vậy đòi hỏi Nhà nước và Đảng cầm quyền phải có những chính
sách, hoạch định cũng như định hướng phát triển lâu dài đối với hoạt động

đầu tư nước ngoài thông qua các qui định của pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, pháp luật đầu tư về nước ngoài là cơ sở pháp lý để bảo vệ lợi
ích, khuyến khích,ưu đãi và đảm bảo đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Với các qui định pháp luật về đầu tư nước ngoài hoàn thiện sẽ khẳng
định quyền được tôn trọng, bảo vệ, khuyến khích, ưu đãi và đảm các nhà đâu
tư nước ngoài ,cho phép nhà nhà đầu tư khai thác được những lợi thế của
nước tiếp nhận đầu tư để tối đa hóa lợi nhuận trong sản xuất, kinh doanh, tối
thiểu hóa chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lại lợi
nhuận cao nhất nhờ các ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài .Đồng thời,
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia điều hành quá trình sản xuất


13
kinh doanh ở đơn vị mà họ bỏ vốn đầu tư.Nhờ vậy, các nhà đầu tư có thể đưa
ra những quyết định kịp thời, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn bỏ ra.
Tạo ra một hành lang pháp lý an toàn để các nhà đầu tư nước ngoài dễ
chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như khai thác nguyên liệu chủ
yếu ở nước tiếp nhận đầu tư.Đó cũng là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài
mở rộng thị trường, tăng cường sức mạnh kinh tế và thiết lập mang lưới trên
toàn thế giới đặc biệt là đối với các công ty đa quốc gia.
Thứ ba, pháp luật về đầu tư nước ngoài là cơ sở pháp lý để xây dựng và
hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư
Nhà nước không thể tham gia vào hoạt động đầu tư cụ thể mà chỉ thực
hiện chức năng quản lý đầu tư thông qua bộ máy quản lý nhà nước về đầu
tư.Tuy nhiên,hoạt động quản lý của Nhà nước không thể thực hiện được nếu
không dựa vào cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của
pháp về đầu tư nước ngoài. Bởi vì để bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả,
phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cơ quan và
xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan nhằm thiết lập ra một cơ chế đồng bộ.
Bản thân chức năng tổ chức và quản lý đầu tư nước ngoài có phạm vi

rộng và phức tạp bao gồm nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề mà nhà nước cần
xác lập, điều tiết và giải quyết như: hoạch định chính sách đầu tư, quy định về
chế độ tài chính, tiền tệ..Tất cả những điều đó đều đòi hỏi sự điều chỉnh phù
hợp với nhà nước để hoàn thiện bộ máy quản lý phù hợp theo xu thế chung,
phù hợp với những đặc thù của nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, pháp luật về đầu tư nước ngoài góp phần nâng cao hiệu quả đầu
tư,phát triển kinh tế - xã hội
Pháp luật về đầu tư nước ngoài ra đời để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh
các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực đầu tư nước ngoài.Pháp luật về đầu tư nước
ngoài cũng tác động trở lại làm cho các quan hệ đầu tư phát triển nhằm thu
hút vốn đầu tư.


14
Bởi nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn quan trọng
để bù đắp sự thiếu hụt về vốn và ngoại tệ, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế
về vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.Đầu tư
nước ngoài thường mang tính khả thi cao, tạo điều kiện cho nước tiếp nhận
đầu tư tiếp nhận vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại mà không để lại gánh nặng
nợ nần cho nền kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng
xuất khẩu.
Tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài còn giúp nền kinh tế trở nên năng
động , có hiệu quả, tạo đà cần thiết để giải quyết một phần nạn thất nghiệp,
kiềm chế lạm phát, tăng thu ngân sách, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật,
thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo môi trường cạnh tranh thúc đẩy kinh tế trong
nước phát triển. Đối với các nước đang phát triển tiếp nhận vốn đầu tư nước
ngoài sẽ tạo đà cần thiết để vượt qua đói nghèo vì vốn là cơ sở để tạo ra công
ăn việc làm trong nước, tiếp nhận những tiến bộ của công nghệ, trình độ khoa
học kỹ thuật hiện đại, học hỏi những kinh nghiệm chuyên môn, kiến thức kinh
doanh và kỹ năng quản lý từ các nước tiên tiến..

Thứ năm, pháp luật về đầu tư nước ngoài thúc đẩy và phát triển quan hệ
hợp tác kinh tế - chính trị giữa các quốc gia
Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa như ngày nay, phạm vi các mối
quan hệ về kinh tế - chính trị giữa các quốc gia ngày càng mở rộng và tính
chất ngày càng đa dạng.Pháp luật về đầu tư nước ngoài tạo ra hành lang pháp
lý an toàn cho các tổ chức, cá nhân ðầu tý vào nýớc tiếp nhận ðầu tý ðồng
thời tạo ðiều kiện cho các doanh nghiệp trong nýớc tiếp nhận ðầu tý tham gia
vào thị trýờng quốc tế.Ðồng thời, còn là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm
tin, là cơ sở để phát triển mối quan hệ hữu nghị đối với các quốc gia.Nói cách
khác, sự phát triển của pháp luật về đầu tư nước ngoài còn gắn liền với sự
phát triển về chính sách đối ngoại, thu hút đầu tư của các quốc gia.


15
1.2 Căn cứ để so sánh pháp luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam và Lào
1.2.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt Nam và của Lào
1.2.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt Nam
Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á và lớn thứ 57 trên thế
giới xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2011và đứng
thứ 128 xét theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người.
Tổng Thu nhập nội địa GDP năm 2011 là 124 tỷ USD. Đây là nền kinh tế
hỗn hợp, phụ thuộc cao vào xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương
mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng
Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương, ASEAN. Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do đa
phương với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Việt
Nam cũng đã ký với Nhật Bản một hiệp định đối tác kinh tế song phương.
Cũng giống như Lào, Việt Nam là nước đa dạng về văn hóa và dân tộc
với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm

khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh)
chiếm gần 86%, tập trung ở những miền châu thổ và đồng bằng ven biển.
Những dân tộc thiểu số, trừ người Hoa, người Chăm và người Khmer phần
lớn đều tập trung ở các vùng miền núi và cao nguyên. Việt Nam là một nước
đông dân, tuy diện tích đứng hạng 65 nhưng lại xếp thứ 13 trên thế giới về
dân số. Việt Nam phát triển từ nền kinh tế nông nghiệp với 29,6% sống ở khu
vực thành thị và khoảng 60,4 triệu người cư trú ở khu vực nông thôn.
1.2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội của Lào
Lào là một nước vào loại kém phát triển ở Đông Nam Á.Tuy có nguồn
tài nguyên phong phú về lâm nghiệp, nông nghiệp, khoáng sản và thuỷ điện.
Nhìn chung kinh tế Lào tuy phát triển song chưa có cơ sở bảo đảm ổn


16
định.Theo bảng xếp hạng của Liên hiệp quốc về trình độ phát triển, Lào đứng
hàng thứ 138 trong tổng số 187 quốc gia. Sản phẩm nông nghiệp chiếm
khoảng một nửa tổng sản phẩm quốc nội và sử dụng 80% lực lượng lao động.
Nền kinh tế vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của IMF và các nguồn quốc tế
khác cũng như từ đầu tư nước ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp
và khai khoáng.
Trong những năm gần đây nền kinh tế của Lào có nhiều tiến bộ. Các
mục tiêu kinh tế-xã hội do các kỳ đại hội của Đảng nhân dân cách mạng Lào
và các chương trình kế hoạch 5 năm được triển khai thực hiện có hiệu quả.
Lào đang nắm bắt thời cơ, đang tạo nên những bước đột phá và đang có
những tiền đề cho một thời kỳ tăng tốc.
Lào là một nước đa dạng về dân tộc, có 68 dân tộc có tiếng nói và
phong tục tập quán khác nhau; trong đó có 3 dân tộc lớn như: Lào Lùm (vùng
thấp) chiếm khoảng 50% dân số cả nước (chiếm đa số lớn nhất ), Lào Thông
(vùng trung du) với khoảng 30% dân số, Lào Xủng (vùng cao) chiếm 15% dân
số. Nông dân chiếm hơn 90% dân số và sản phẩm nông nghiệp chiếm 60%

GDP, về mặt trình độ văn hóa kỹ thuật, tay nghề còn rất hạn chế. Tất cả
những điều đó là một trong những nguyên nhân chính cản trở việc thu hút đầu
tư nước ngoài để mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, tiếp
thu khoa học công nghệ hiện đại.
1.2.2 Sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của Nhà nước
1.2.2.1 Sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của Nhà nước tại Việt Nam
Việt Nam hiện nay là một trong số ít các nước theo chế độ xã hội chủ
nghĩa. Mặc dù trước những biến động và tổn thất của cách mạng thế giới, tại
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII tháng 6 năm 1991 vẫn khẳng
định kiên trì lãnh đạo đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa và tiến hành
công cuộc đổi mới xây dựng đất.


17
Hệ thống chính trị được thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng
chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, với tôn chỉ là: Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực
là Quốc hội Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo
trên chính trường Việt Nam theo quy định trong điều 4 của Hiến pháp 1992.
Do chỉ một đảng lãnh đạo đất nước, sự thăng trầm của nền kinh tế Việt
Nam phụ thuộc rất nhiều vào vai trò lãnh đạo và các chính sách của Đảng
Cộng sản và Nhà nước đưa ra.
1.2.2.2 Sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của Nhà nước tại Lào
Cũng giống như Việt Nam, Lào là một trong số ít các nước cộng
sản còn lại sau sự sụp đổ của Liên xô và các nước XHCN Đông Âu.Với thể
chế Cộng hòa Nhân dân, một viện (từ năm 1975). Hiến pháp được thông qua
ngày 14 tháng 8 năm 1991, có 16 tỉnh và duy nhất một thành phố.Dân chủ
nhân dân Lào theo định hướng xã hội chủ nghĩa do một chính đảng duy nhất
là Đảng NDCM Lào lãnh đạo, được thành lập ngày 22/3/1955.Tại Lào không
có đảng đối lập.

Tại Đại hội đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VIII tháng 3 năm
2006 đề ra mục tiêu đến năm 2020: xây dựng vững chắc hệ thống chính
trị dân chủ nhân dân, trong đó Đảng là hạt nhân lãnh đạo, giữ vững ổn
định chính trị, an ninh trật tự an toàn xã hội; đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng kém phát triển; kinh tế phát triển dựa trên sự phát triển nông
nghiệp vững chắc và lấy phát triển công nghiệp làm cơ sở, tạo tiền đề
cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo chuyển biến cơ bản về
chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; phát triển nhịp nhàng các
thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể
được củng cố và phát triển vững mạnh.


18
1.2.3 Hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.3.1 Hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam
Đối với Việt Nam, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, sự ổn định chính
trị luôn được đảm bảo, cùng với sự ổn định chính trị là chính sách ngoại giao
mềm dẻo, đảm bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, đa dạng hóa, đa
phương hóa trong quan hệ với khẩu hiệu "Việt Nam muốn là bạn với tất cả
các nước trên thế giới vì hòa bình, hợp tác và phát triển".
Sự ổn định chính trị - xã hội gắn với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, kiên trì con đường
đổi mới có nguyên tắc là nguyên nhân của mọi thành công, trong đó có việc
thu hút đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, Việt Nam đang là thành viên quan trọng trong khối ASEAN,
tích cực thực hiện các cam kết khu vực mậu dịch tự do ASEAN . Đồng thời,
là thành viên tích cực của APEC, ASEM và nhiều tổ chức kinh tế quốc tế
khác, tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản... Việt Nam cũng đã ký kết Hiệp
định đối tác kinh tế với Nhật Bản, đang đàm phán Hiệp định đối tác xuyên

Thái Bình Dương và chuẩn bị khởi động vòng đàm phán FTA với EU. Năm
2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, có quan hệ thương mại với trên
150 quốc gia và vùng lãnh thổ, đánh dấu sự hội nhập toàn diện và đầy đủ của
Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
1.2.3.2 Hội nhập kinh tế quốc tế tại Lào
Đường lối, chính sách đổi mới được Đại hội IV khởi xướng và các nghị
quyết của Trung ương Đảng sau đó cụ thể hóa và phát triển cùng với thực tiễn
hoạt động ngoại giao thời kỳ 1986-1991 đã thể hiện rõ nét đổi mới tư duy đối
ngoại của Đảng NDCM Lào. Nó mở ra một trang mới cho nền ngoại giao Lào
hiện đại và đặt cơ sở vững chắc cho bước đột phá trong đường lối đối ngoại


19
độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của quan hệ quốc tế của Đảng và
Nhà nước Lào từ Đại hội V đến nay.
Với tư cách là thành viên của cộng đồng quốc tế, nhiều năm qua, Lào
thực hiện chính sách hội nhập quốc tế sâu rộng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng
lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho việc
phát triển của mỗi nước. Thực tế cho thấy,Lào đã triển khai chính sách đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế linh hoạt và có hiệu quả vì sự tiến bộ và
phồn vinh của đất nước.Sự kiện Lào chính thức gia nhập WTO cũng là bước
ngoặt lịch sử của đất nước Triệu Voi trên đường hội nhập và phát triển.
Đến năm 2007, Lào có quan hệ thương mại với 60 nước, ký Hiệp định
thương mại với 19 nước, 39 nước cho Lào hưởng quy chế GSP.
1.2.4 Mục tiêu điều chỉnh của pháp luật về đầu tư nước ngoài
1.2.4.1 Mục tiêu điều chỉnh của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam
Việt Nam đã ký kết và triển khai nhiều hiệp định song phương và đa
phương liên quan đến hoạt động đầu tư, trong đó đòi hỏi Việt Nam phải từng
bước mở cửa thị trường, xoá bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan hoặc các

trợ cấp không phù hợp với các cam kết quốc tế.
Do đó, mục tiêu điều chỉnh của pháp luật về đầu tư nước ngoài phải
đảm bảo chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp với nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng đơn giản, minh bạch, nhất quán, xoá
bỏ sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; xây dựng
trình tự, thủ tục đơn giản thuận lợi không chỉ cho các nhà đầu tư mà cho cả cơ
quan Nhà nước nhằm bảo đảm chính sách đến được các nhà đầu tư, tạo lòng
tin cho nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế hăng hái, tự tin sử dụng mọi
nguồn lực cho đầu tư, kinh doanh.


20
1.2.4.2 Mục tiêu điều chỉnh của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Lào
Mục tiêu điều chỉnh của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Lào nhằm
mở rộng các ngành kinh doanh thu hút vốn và ngoại tệ vào lưu thông trong
nước, khuyến khích xuất khẩu và tìm kiếm thị trường nước ngoài để từ đó
tiếp thu và học hỏi trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, phát
triển và nâng cao trình độ cho người lao động trong nước, tạo ra nhiều công
ăn việc làm cho người dân lao động, từ đó góp phần cải thiện và nâng cao
đời sống xã hội.
Vì mục tiêu nêu trên mà nội dung cơ bản pháp luật về đầu tư nước
ngoài của Lào quy định những nguyên tắc trong hoạt động đầu tư, các loại
hình và ngành nghề đầu tư, các biện pháp khuyến khích, bảo hộ và quản lý
việc đầu tư trong nước và nước ngoài. Và quan trọng nhất đó là việc quy
định quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
1.2.5 Những điểm tương đồng và khác biệt là cơ sở để hoàn thiện pháp
luật phù hợp với điều kiện của Việt Nam và Lào
1.2.5.1 Nhưng điểm tương đồng là cơ sở để hoàn thiện pháp luật phù hợp
với điều kiện của Việt Nam và Lào
Một là tương đồng về điều kiện kinh tế - xã hội:

Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng gần gũi, cùng nằm trên bán
đảo Đông Dương, có chung 2000km đường biên giới. Hai dân tộc đã có hàng
ngàn năm lịch sử giúp đỡ lẫn nhau. Do vậy, giữa Việt Nam và Lào có nhiều
điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội.
Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo Ấn-Trung, thuộc vùng
Đông Nam Á lục địa. Trong phạm vi của bán đảo Đông Dương, Việt Nam
nằm ở phía đông dãy Trường Sơn, như một bao lơn nhìn ra biển; Lào nằm ở
sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào vùng đất liền của bán đảo. Việt Nam và
Lào là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, đa dạng, điều
kiện tự nhiên thuận lợi. Do vậy khi các nước phát triển đầu tư vào Lào và Việt


21
Nam thì lĩnh vực đầu tư chủ yếu nông nghiệp, chế biến, khai thác khoáng
sản.Bởi có thể tìm thấy rất nhiều cõ hội ðầu tý phát triển và khai thác các
vùng nguyên liệu khá rẻ tại ðây.
Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện
tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của hai nước, hoặc nhiều
nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở khu vực Đông Nam Á
nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng.
Việt Nam và Lào là hai quốc gia có nền kinh tế kém phát triển. Việt Nam
phấn đấu đến năm 2020 phải trở thành nước công nghiệp hoá, trong khi đó
Lào cũng phải thoát khỏi tình trạng kém phát triển và có nhân tố cơ bản để
tiến vào công nghiệp hoá hiện đại hoá. Như vậy, cả hai nước đều là những
nền kinh tế đang chuyển đổi, từng bước xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần. Cuộc khủng hoảng tài chính – tài tệ (1997 – 1998) là bài học về sức ép
của toàn cầu hoá đối với các nền kinh tế mở ở Đông Nam Á. Việt Nam và
Lào mới gia nhập nền kinh tế thị trường nên phải đối mặt với nhiều thách
thức trong quá trình tự co hoá đầu tư và thương mại cũng như sự cạnh tranh
khốc liệt từ các nước phát triển.

Hiện nay, cả Lào và Việt Nam đều đã xây dựng qui hoạch phát triển
tổng thể về kinh tế - xã hội đến năm 2020, là cơ sở để hai nước có thể thu hút,
khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Hai là tương đồng về chính trị:
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII tháng 6 năm 1991 và
Hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ 7 (khóa IV)
tháng 12 năm 1989 vẫn khẳng định kiên trì lãnh đạo đất nước theo con đường
chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Hiện nay, cả hai nước đều duy trì chế độ xã hội chủ nghĩa với một
Đảng cầm quyền và lãnh đạo. Do vậy, nhiều quan điểm trong xây dựng và


×