TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
TIỂU LUẬN QUẢN TRỊ TÁC NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: Nghiên cứu mô hình quản trị chuỗi cung ứng (SCM) va
ứng dụng mô hình SCM vao doanh nghiệp
Sinh viên thực hiện:
Trịnh Thị Khuyên
Bùi Thị Lan
Đặng Thị Lan
Mai Thị Lan
Hoang Thị Linh
Giảng viên hướng dẫn:
Th.s: Đao Minh Anh
Quảng Ninh 09/2015
1
MỤC LỤC
2
LỜI MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tai
Sự xuất hiện của quản trị chuỗi cung ứng ban đầu chỉ là việc liên kết sự vận
chuyển và logistics với sự thu mua hàng hóa, tất cả được gọi chung là quá trình thu
mua hàng hóa. Quá trình hợp nhất ban đầu này sớm mở rộng ra lĩnh vực phân phối và
logistics cho khách hàng tiêu dùng cuối cùng. Các công ty sản xuất bắt đầu tích hợp
chức năng quản lý nguyên liệu vào những quy trình này.Từ đó, chuỗi cung ứng ngày
càng chiếm vai trò quan trọng trong các doanh nghiệp. Quản lý chuỗi cung ứng gắn
liến với hầu như tất cả các hoạt động của doanh nghiệp: từ việc hoạch định và quản lý
quá trình tìm nguồn hàng, thu mua, sản xuất thành phẩm từ nguyên liệu thô, quản lý
hậu cần… đến việc phối hợp với các đối tác, nhà cung cấp, các kênh trung gian, nhà
cung cấp dịch vụ và khách hàng.Hiện nay các công ty sản xuất bắt đầu tích hợp chức
năng quản lý nguyên liệu vào những quy trình này. Từ đó, chuỗi cung ứng ngày càng
chiếm vai trò quan trọng trong các doanh nghiệp. Quản lý chuỗi cung ứng gắn liến với
hầu như tất cả các hoạt động của doanh nghiệp: từ việc hoạch định và quản lý quá
trình tìm nguồn hàng, thu mua, sản xuất thành phẩm từ nguyên liệu thô, quản lý hậu
cần… đến việc phối hợp với các đối tác, nhà cung cấp, các kênh trung gian, nhà cung
cấp dịch vụ và khách hàng.Đã có rất nhiều bài báo trong những số trước đây của tạp
chí Supply Chain Management Review mô tả cách mà một tổ chức đang phát triển đã
cố gắng tạo ra những lợi thế bền vững bằng cách thực thi hàng loạt các chiến lược và
tiếp cận về chuỗi cung ứng. Nhưng thay vì chỉ bó hẹp ở những việc này thì các nhà
quản lý không trực tiếp có thể thấy có ích nếu như họ đứng ra ngoài và cân nhắc đến
mục tiêu rộng hơn về những gì có thể đạt được từ những sáng kiến trong chuỗi cung
ứng.Những mục tiêu này bao gồm việc quản lý hiệu quả rủi ro, các mối quan hệ và
các thỏa thuận. Một khi đã hiểu được những mục tiêu rộng lớn này, các nhà quản lý
3
không trực tiếp bắt đầu nhận thức việc tại sao các công ty của họ lại đang theo đuổi
những chiến lược chuỗi cung ứng như vậy. Họ cũng sẽ bắt đầu hiểu rõ hơn công việc
của các chuyên viên về chuỗi cung ứng có bao gồm cả việc quản lý rủi ro, quản lý
mối quan hệ và các thỏa thuận. Để nghiên cứu kĩ hơn về chuỗi cung ứng SCM chúng
em chọn đề tài “Nghiên cứu mô hình quản trị chuỗi cung ứng (SCM) va ứng dụng
mô hình SCM vao doanh nghiệp” nhằm phân tích, đánh giá và rút ra các kinh
nghiệm và giải pháp cho các doanh nghiệp ở Việt Nam.
1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm tổng kết kinh nghiệm cho các doanh nghiệp ở Việt Nam từ việc
nghiên cứu, phân tích về mô hình quản trị chuỗi cung ứng SCM.
2. Đối tượng nghiên cứu
Mô hình quản trị chuỗi cung ứng SCM
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Nghiên cứu cơ sở lí thuyết của đề tài
3.2 Tìm hiểu thực trạng của vấn đề
3.3 Tổng kết cho các doanh nghiệp ở Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu qua sách báo, tạp
chí.
4.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thực tế hoạt động của chuỗi
cung ứng SCM
5. Giới hạn đề tai :
▪ Giới hạn về mặt không gian: Tập trung nghiên cứu chuỗi cung ứng SCM trong
thời gian
▪ Giới hạn về mặt thời gian: Trong vòng 10 năm trở lại đây.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1:Cơ sở lý luận về quản trị chuỗi cung ứng trong doanh nghiệp
Chương 2 :trình bày các mô hình chuỗi cung ứng và vai trò, chức năng, nhiệm vụ tỏng
doanh nghiệp
4
Chương 3 :Ứng dụng mô hình chuỗi cung ứng của DELL
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG
ỨNG TRONG DOANH NGHIỆP
I. Chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
1. Khái niệm về chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng
Khái niệm ―Quản trị chuỗi cung ứng (Supply Chain Management) xuất hiện đầu những
năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước và trở nên phổ biến vào những năm 1990.Các học
giả chuyên môn đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Tuy nhiên, trước
khi tìm hiểu về khái niệm quản trị chuỗi cung ứng ta cần tìm hiểu khái niệm chuỗi cung
ứng.
- “Chuỗi cung ứng là mạng lưới các nhà xưởng và cơ sở phân phối thực hiện chức năng
thu mua nguyên vật liệu, sử dụng những vật liệu này để sản xuất ra bán thành phẩm và
thành phẩm, đồng thời, phân phối những thành phẩm này đến khách hàng.”– ( Ganeshan
và Harrison,1995)
Từ các định nghĩa về chuỗi cung ứng ở trên ta định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng là:
-“Quản trị chuỗi cung ứng là sự thống nhất các quá trình kinh doanh then chốt từ người
tiêu dùng cuối cùng với nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ và thông tin để tạo ra giá trị gia
tăng tới khách hàng và các người hưởng lợi khác” - (Douglas M.Lambert, 2004)
- “Quản trị chuỗi cung ứng là sự kết hợp mang tính chiến lược, có hệ thống các chức
năng kinh doanh truyền thống đồng thời đề ra sách lược phối hợp các chức năng này
trong một công ty cụ thể cũng như liên kết các doanh nghiệp trong một chuỗi cung ứng
nhằm mục đích nâng cao năng lực của từng công ty và toàn bộ chuỗi cung ứng trong dài
hạn”
6
2. Nguồn gốc của SCM
Cuối thế kỷ 20, Logistics được ghi nhận như là một chức năng kinh doanh chủ yếu, mang
lại thành công cho các công ty cả trong khu vực sản xuất lẫn trong khu vực dịch vụ. Uỷ
ban kinh tế và xã hội châu Á Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for
Asia and the Pacific – ESCAP)ghi nhận Logistics đã phát triển qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phân phối (Distribution)
Đó là quản lý một cách có hệ thống các hoạt động liên quan với nhau nhằm đảm bảo
cung cấp sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng một cách hiệu quả nhất. Giai đoạn này bao
gồm các hoạt động nghiệp vụ sau:
-Vận tải
-Phân phối
-Bảo quản hàng bãi
- Bao bì, nhãn mác, đóng gói.
Giai đoạn 2: Hệ thống Logistics
Giai đoạn này có sự phối kết hợp công tác quản lý của cả hai mặt trên vào cùng một hệ
thống có tên là Cung ứng vật tư và Phân phối sản phẩm.
Giai đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng (SCM)
Theo ESCAP thì đây là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi quan hệ từ nhà
cung cấp nguyên liệu – đơn vị sản xuất – đến người tiêu dùng. Khái niệm SCM chú trọng
việc phát triển các mối quan hệ với đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất với nhà
cung cấp, người tiêu dùng và các bên liên quan như các công ty vận tải, kho bãi, giao
nhận và các công ty công nghệ thông tin.
7
3. Cấu trúc của SCM
Một dây chuyền cung ứng sản xuất bao gồm tối thiểu ba yếu tố: nhà cung cấp, bản thân
đơn vị sản xuất và khách hàng.
- Nhà cung cấp: là các công ty bán sản phẩm, dịch vụ là nguyên liệu đầu vào cần
thiết cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Các công ty cung cấp dịch vụ cho sản xuất,
kinh doanh được gọi là nhà cung cấp dịch vụ.
- Đơn vị sản xuất: là nơi sử dụng nguyên liệu, dịch vụ đầu vào và áp dụng các quá
trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Các nghiệp vụ về quản lý sản xuất
được sử dụng tối đa tại đây nhằm tăng hiệu quả, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo
nên sự thông suốt của dây chuyền cung ứng.
- Khách hàng: là người sử dụng sản phẩm của đơn vị sản xuất.
4. Các cấp trong quản trị chuỗi cung ứng
Theo ông David Simchi-Levi trong cuốn ―Designing and Managing the Supply
Chain: Concept, Strategies and Case Studies” Nhà xuất bản McGraw- Hill Companies,
(2008), việc quản trị chuỗi cung ứng có thể chia làm ba cấp:
+ Cấp chiến lược (strategic level): giải quyết các quyết định có tác động lâu dài đến
doanh nghiệp.
+ Cấp chiến thuật (tactical level): bao gồm các quyết định tiểu biểu được cập nhật bất cứ
nơi nào theo từng quý hoặc một năm một lần
+ Cấp tác nghiệp (operational level): liên quan đến các quyết định hàng ngày nhờ việc lên
lịch trình, thời gian sản xuất, lộ trình và chất hàng.
5. Những thành phần trong chuỗi cung ứng
Các doanh nghiệp tham gia trong một chuỗi cung ứng bất kì đều phải đưa ra quyết định
với tư cách cá nhân và tập thể liên quan đến hoạt động của mình trong các linh vực sau:
8
Sản xuất: thị trường muốn tiêu thụ sản phẩm gì? Nên sản xuất với số lượng bao nhiêu và
vào thời điểm nào? Hoạt động này bao gồm việc tạo ra chu trình sản xuất linh hoạt có
tính đến năng suất của nhà máy, cân bằng khối lượng công việc,kiểm soát chất lượng và
bảo trì trang thiết bị.
Lưu kho: nên dự trữ loại hàng hóa nào trong từng giai đoạn của chuỗi cung ứng? Nên dự
trữ bao nhiêu nguyên liệu thô, bán thành phẩm và thành phẩm.Mục đích cơ bản của việc
lưu trữ hàng tồn trong kho là nhằm đề phòng những biến động bất thường có thể xảy ra
trong chuỗi cung ứng.Tuy nhiên chi phí cho việc lưu kho hàng hóa lại khá tốn kém, vì thế
phải xác định được mức độ trữ và đặt hàng tối ưu và thời điểm đặt hàng mới.
Địa điểm: Các nhà máy sản xuất và kho lưu trữ hàng tồn cần được đặt ở đâu? Đâu là vị trí
hiệu quả nhất về chi phí cho sản xuất và lưu trữ hàng tồn? Có nên sử dụng các nhà máy
có sẵn hay xây mới. Một khi các vấn đề này được giải quyết sẽ định đoạt các kênh lưu
thông để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Vận tải: Làm thế nào để vận chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa ttrong chuỗi cung ứng?
Phân phối bằng hàng không và xe tải nói chung là nhanh chóng và đáng tin nhưng chúng
thường chi phí cao. Vận chuyển bằng đường biển và xe lửa có chi phí vận chuyển thấp
hơn nhưng thường mất thời gian trung chuyển và độ an toàn không cao. Tính chất không
an toàn này phải được khắc phục bằng cách nâng tỷ lệ hàng dự trữ. Mỗi phương thức vận
tải phù hợp với những trường hợp nào?
Thông tin: Nên thu thập bao nhiêu dữ liệu và chia sẻ bao nhiêu thông tin là đủ? Sự nắm
bắt thông tin được thông tin đúng lúc và chính xác sẽ củng cố mối quan hệ hợp tác đồng
thời giúp doanh nghiệp đưa ra quyết định sáng suốt về chủng loại, số lượng sản phẩm,
mức độ dự trữ hàng, địa điểm đặt kho hàng và cách thức vận chuyển tối ưu.
Nhà cung cấp: Sử dụng các nhà cung cấp nào để đảm bảo việc giao hàng đúng hẹn? Phân
bổ vị trí các nhà cung cấp ra sao để giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu?Thiết lập và
duy trì mối quan hệ với nhà cung cấp như thế nào?
9
Đại lý: phân bổ hàng hóa đến đại lý như thế nào cho hợp lý? Trợ giúp các đại lý theo
hình thức nào để đại lý hoạt động tốt để thu thập các thông tin phản hồi từ đại lý và từ
khách hàng lẻ.
II. Các nghiệp vụ của quản trị chuỗi cung ứng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mô hình nhận diện hoạt động chuỗi cung ứng đơn giản gồm có 4 quy trình
•
•
•
•
Hoạch định
Thu mua
Sản xuất
Phân phối
hình 1.2
1. Hoạch định
Trong quy trình hoạch định này, người viết nghiên cứu chi tiết 2 công đoạn: dự báo
lượng cầu và quản trị hàng
1.1 Dự báo lượng cầu
10
Dự báo là dự tính và báo trước các sự việc sẽ diễn ra trong tương lai một cách có cơ
sở.Đối tượng nghiên cứu của dự báo là sự phát triển của các yếu tố, hiện tượng trong
tương lai.Dự báo nhu cầu sản phẩm là dự kiến, đánh giá nhu cầu trong tương lai của
các sản phẩm, giúp doanh nghiệp xác định được chủng loại và số lượng sản phẩm
(hàng hóa và dịch vụ) cần có trong tương lai.Tất cả các dự báo với 4 biến số chính
phối hợp với nhau quết định diễn biến của điều kiện thị trường.Những biến số đó là:
nguồn cung, lượng cầu, đặc điểm sản phẩm, và môi trường cạnh tranh.
Nguồn cung được quyết định bởi số lượng nhà sản xuất và khoảng thời gian
để sản xuất ra sản phẩm đó
Lượng cầu là thuật ngữ ám chỉ toàn bộ nhu cầu thị trường với một nhóm
sản phẩm hay dịch vụ liên quan
Đặc điểm sản phẩm bao gồm các tính năng của một sản phẩm tác động đến
nhu cầu khác hàng
Môi trường cạnh tranh nhằm chỉ các hoạt động của một công ty và đối thủ
của nó.
1.2 Quản trị hàng dự trữ
Việc quản trị hàng dự trữ bao gồm những kĩ thuật được sử dụng nhằm mục đích quản
trị mức độ lưu kho hàng hóa và xác định điểm đặt hàng trong phạm vi các công ty
khác nhau của chuỗi cung ứng. Mục tiêu là giảm chi phí lưu kho đến mức tối đa trong
khi vẫn duy trì mức độ cung cấp hàng hóa và dịch vụ mà khách hàng yêu cầu.
2. Thu mua
2.1 Tuyển chọn nhà cung cấp
Trong quản trị chuỗi cung ứng, việc tuyển chọn và thiết lập mối quan hệ với nhà cung
cấp là một khâu rất quan trọng. Đây là một quy trình nhằm xác định các nhà cung cấp
chiến lược để doanh nghiệp có thể thực hiện tốt việc thu mua nguyên vật liệu cần thiết
để hỗ trợ kế hoạch kinh doanh và mô hình vận hành.
2.2 Đàm phán hợp đồng
11
Hiện nay, các công ty có xu hướng đi thuê ngoài các nhà cung cấp sản xuất các bộ
phận của sản phẩm,vì thế hợp đồng cung cấp được soạn thảo tỉ mỉ và hợp lý sẽ mang
lại hiệu quả lớn cho các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, khi tham gia đàm phán
kí kết hợp đồng mua nguyên vật liệu trực tiếp ta phải lưu ý đến yêu cầu chính xác về
chất lượng, hỗ trợ kĩ thuật tốt và dịch vụ tốt. Công tác đàm phán hợp đồng cần chú
trọng đến thời hạn và địa điểm giao hàng, thời hạn thanh toán để tối thiểu hóa chi phí.
Để đạt hiệu quả mua hàng tối ưu, các nhà cung cấp cần có khả năng thiết lập hệ thống
liên kết điện tử nhằm mục đích nhận đơn hàng, gửi thông báo giao hàng, gửi hóa đơn,
nhận thanh toán…một cách nhanh chóng và tiết kiệm thời gian.
2.3 Mua hàng
Mua hàng là những hoạt động thông thường liên quan đến việc phát những đơn hàng
đặt mua nguyên vật liệu trực tiếp hoặc mang tính chiến lược để sản xuất ra sản phẩm
và các sản phẩm gián tiếp ( bảo hành, sửa chữa, vận hành) được công ty sử dụng hàng
ngày. Người mua đưa ra những quyết định mua hàng, liên hệ với người bán rồi tiến
hành đặt hang. Trong quá trình này, hai bên trao đổi với nhau rất nhiều thông tin về
mặt hàng, số lượng, giá cả, ngày giao hàng, thanh toán…
3. Sản xuất
3.1 Thiết kế sản phẩm
Thiết kế sản phẩm là quá trình bao gồm nhiều hoạt động liên kết chặt chẽ với nhau từ
khâu nghiên cứu xác định nhu cầu của thị trường, hình thành ý tưởng về sản phẩm,lập
kế hoạch khảo sát, đến tiến hành thiết kế sản phẩm, lập kế hoạch sản xuất, tổ chức sản
xuất thử, đưa sản phẩm vào tiêu dùng thử, đánh giá kiểm định và đưa vào sản xuất đại
trà. Khi xem xét bản thiết kế sản phẩm trong toàn cảnh mô hình chuỗi cung ứng, mục
tiêu ở đây là phải thiết kế ra các sản phẩm có cơ cấu đơn giản và được tạo thành từ
những bộ phận lắp ráp giống nhau được phân phối bởi một nhóm nhà cung cấp
chuyên trách.
3.2. Lựa chọn vị trí sản xuất
12
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, việc lựa chọn vị trí sản xuất đóng vai trò
quan trọng nhằm đảm bảo mục tiêu chiến lược và để vận hành tốt chuỗi cung ứng.
Mục tiêu lựa chọn vị trí sản xuất đặt trong chuỗi cung ứng là vị trí cho thuê có giá hợp
lý, thuận tiện về giao thông để đảm bảo cho hoạt động logistics vận hành tốt, thuận
tiện cho việc phân phối sản phẩm đến thị trường với chi phí thấp, gần nguồn nguyên
vật liệu, cơ sở hạ tầng tốt…
3.3. Lập lịch trình sản xuất
Lập lịch trình sản xuất là việc phân bổ nguồn lực sẵn có ( trang thiết bị, nhân
công, nhà xưởng) để tiến hành sản xuất. Mục đích của việc này là để sử dụng năng lực
sẵn có một cách hiệu quả và tối đa hóa lợi nhuận. Công đoạn lập lịch trình sản xuất là
quá trình tìm kiếm sự cân bằng giữa các mục tiêu như: tần suất hoạt động cao, mức
lưu kho thấp và chất lượng dịch vụ khách hàng cao.
4. Phân phối
Quy trình phân phối là một khâu rất quan trọng trong quản trị chuỗi cung ứng, nó
quyết định đến sự thành công hay thất bại của chuỗi cung ứng đó. Các vấn đề cần
quan tâm ở trong quá trình này là:
Quản trị đơn đặt hàng như thế nào??
Lập lịch trình gia hàng ra sao??
Cách phân phối và vận chuyển hàng như thế nào??
13
CHƯƠNG II: TRÌNH BÀY CÁC MÔ HÌNH CHUỖI CUNG ỨNG
VÀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ TRONG DOANH
NGHIỆP
I.
Trình bày mô hình quản trị chuỗi cung ứng trong doanh nghiệp
Các mô hình dây chuyền cung ứng được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp.Một công ty
sản xuất sẽ nằm trong “mô hình đơn giản”, khi họ chỉ mua nguyên vật liệu từ một nhà
cung cấp, sau đó tự làm ra sản phẩm của mình rồi bán hàng trực tiếp cho người sử dụng.
Trong mô hình phức tạp, doanh nghiệp sẽ mua nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp
(đây cũng chính là thành phẩm của đơn vị này), từ các nhà phân phối và từ các nhà máy
“chị em” (có điểm tương đồng với nhà sản xuất). Ngoài việc tự sản xuất ra sản phẩm,
doanh nghiệp còn đón nhận nhiều nguồn cung cấp bổ trợ cho quá trình sản xuất từ các
nhà thầu phụ và đối tác sản xuất theo hợp đồng. Trong mô hình phức tạp này, hệ thống
SCM phải xử lý việc mua sản phẩm trực tiếp hoặc mua qua trung gian, làm ra sản phẩm
và đưa sản phẩm đến các nhà máy “chị em” để tiếp tục sản xuất ra sản phẩm hoàn thiện.
14
Những bước đi cơ bản khi triển khai SCM
Bạn cần tuân thủ 5 bước đi cơ bản sau đây:
Bước 1:Kế hoạch – Đây là bộ phận chiến lược của SCM. Bạn sẽ cần đến một
chiến lược chung để quản lý tất cả các nguồn lực nhằm giúp sản phẩm phẩm, dịch
vụ của bạn đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hang.
Bước 2 : Nguồn cung cấp – Hãy lựa chọn những nhà cung cấp thích hợp để đáp
ứng các chủng loại hàng hoá, dịch vụ đầu vào mà bạn cần để làm ra sản phẩm,
dịch vụ của bạn.
Bước 3 :Sản xuất – Đây là bước đi tiếp theo, sau khi bạn đã có nguồn hàng. Hãy
lên lịch trình cụ thể về các hoạt động sản xuất, kiểm tra, đóng gói và chuẩn bị giao
nhận.
Bước 4 :Giao nhận – Đây là yếu tố mà nhiều người hay gọi là “hậu cần”. Hãy
xem xét từng khía cạnh cụ thể bao gồm các đơn đặt hàng, xây dựng mạng lưới cửa
15
hàng phân phối, lựa chọn đơn vị vận tải để đưa sản phẩm của bạn tới khách hàng,
đồng thời thiết lập một hệ thống hoá đơn thanh toán hợp lý.
Bước 5:Hoàn lại – Đây là công việc chỉ xuất hiện trong trường hợp dây chuyền
cung ứng có vấn đề.
II.
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chuỗi cung ứng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh và nền kinh tế
Chuỗi cung ứng đóng vai trò to lớn đối với doanh nghiệp sản xuất cũng như đối
với nền kinh tế:
+ Đối với doanh nghiệp sản xuất
Với các công ty, chuỗi cung ứng có vai trò rất to lớn, bởi nó giải quyết cả đầu ra lẫn
đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nhờ có thể thay đổi các nguồn nguyên
vật liệu đầu vào hoặc tối ưu hoá quá trình luân chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá,
dịch vụ mà chuỗi cung ứng có thể giúp tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh
cho doanh nghiệp. Ngoài ra, quản trị chuỗi cung ứng còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt
động tiếp thị, đặc biệt là marketing hỗn hợp.Chính chuỗi cung ứng đóng vai trò then
chốt trong việc đưa sản phẩm đến đúng nơi cần đến và vào đúng thời điểm thích hợp.
+ Đối với nền kinh tế
Khi nói đến chuỗi cung ứng, hầu hết chúng ta đều nghĩ đến nó trong khuôn khổ doanh
nghiệp, nhưng thực tế là chúng ta đang sống trong một chuỗi cung ứng khổng
lồ.Những gì chúng ta ta tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày đều nằm trong một chuỗi cung
ứng nhất định, chẳng hạn như thực phẩm, xăng dầu hay mặt hàng nhựa đều có chuỗi
cung ứng riêng.Các chuỗi cung ứng khác nhau này lại có mối tác động qua lại lần
nhau, ví dụ như chuỗi cung ứng xăng dầu có biến động sẽ dẫn đến nguồn cung xăng
dầu bị ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến giao thông vận tải và các hoạt động có sử
dụng đến xăng dầu.Qua đó, biến động này gián tiếp gây nên ảnh hưởng tới các hoạt
động kinh tế khác. Vì thế vai trò của chuỗi cung ứng trong nền kinh tế là rất quan
16
trọng, nó giúp các nhà quản lý kinh tế vĩ mô điều tiết các hoạt động kinh tế một cách
nhanh chóng, hiệu quả cao và giảm chi phí.
Chuỗi cung ứng có các chức năng cần thiết để quản trị các hoạt động trong doanh
nghiệp sản xuất và nền kinh tế:
+ Đối với doanh nghiệp sản xuất
Chức năng của quản trị chuỗi cung ứng là củng cố niềm tin và tăng cường sự hợp tác
giữa các đối tác trong chuỗi cung ứng, qua đó cải thiện hàng tồn kho hữu hình và tốc
độ di chuyển hàng tồn kho.
+ Đối với nền kinh tế
Chuỗi cung ứng trong nền kinh tế là một mạng lưới bao gồm các hoạt động thu
mua, sản xuất, phân phối, bán hàng và tiêu thụ một hoặc nhiều sản phẩm, được thực
hiện bởi các nhóm chủ thể kinh tế hoạt động chung với nhau trong một liên minh.
Mạng lưới chuỗi cung ứng nền kinh tế chính là mạng lưới các chuỗi cung ứng có liên
quan với nhau.
Bên cạnh vai trò và chức năng, chuỗi cung ứng có nhiệm vụ hết sức quan trọng
trong việc điều tiết các hoạt động của doanh nghiệp sản xuất cũng như nền kinh
tế:
+ Đối với doanh nghiệp sản xuất
Nhiệm vụ lớn nhất của chuỗi cung ứng là cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho khách
hàng với tổng chi phí nhỏ nhất, đồng thời làm giảm chi phí cho doanh nghiệp qua đó
giúp doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường
+ Đối với nền kinh tế
17
Nhiệm vụ của chuỗi cung ứng đối với nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay là điều tiết
các hoạt động giữa các chủ thể kinh tế để tăng hiệu quả hoạt động, duy trì dòng chảy
vật chất, tài chính ổn định, đảm bảo cho công tác logistics trong toàn nền kinh tế quốc
dân được vận hành một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, chuỗi cung ứng để bắt kịp với xu
thế hội nhập, cần phải gia nhập thích nghi với chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu để
tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia trong môi trường kinh tế toàn cầu.
CHƯƠNG III: ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CHUỖI CUNG ỨNG CỦA
DELL
I, Mô hình chuỗi cung ứng của Dell
1.
Mô hình chuỗi cung ứng của Dell:
Mô hình chuỗi cung ứng của Dell là bán hàng trực tiếp cho khách hàng CTO
(Configuration to Order- khách hàng được yêu cầu cấu hình máy) hay MTO (Make to
Order- sản xuất theo đơn đặt hàng). Đây là mô hình tạo nên sự thành công cho Dell. Với
mô hình này, Dell bỏ qua các nhà phân phối và các nhà bán lẻ, do đó chuỗi cung ứng của
Dell chỉ có 3 thành phần, đó là: nhà cung cấp linh kiện, nhà lắp ráp và khách hàng.
18
Năm 2007 Dell cũng áp dụng mô hình truyền thống mà các đối thủ cạnh tranh đang theo
đuổi: Make to Stock – xây dựng hệ thống nhà phân phối, sử dụng nhà sản xuất theo hợp
đồng tại các nước chi phí thấp, và hợp tác với các nhà bán lẻ để phân phối sản phẩm của
mình. Lúc này, Dell sử dụng dịch vụ của FedEx và UPS .Dell cũng sử dụng dịch vụ của
các công ty logistics để nhận, lưu kho và vận chuyển linh kiện, thiết bị từ các nhà cung
cấp khác nhau. Dell sử dụng lợi thế của công nghệ thông tin và web để chia sẻ thông tin
giữa các đối tác nhằm giảm thiểu hàng hóa lưu kho.
2.
Thành phần trong chuỗi cung ứng của Dell và vai trò của họ trong chuỗi.
Mỗi thành phần trong chuỗi cung ứng đều có những vai trò của họ.Việc tổ chức và quản
lý tốt các thành phần này sẽ đem lại những giá trị to lớn cho doanh nghiệp và Dell là một
ví dụ điển hình cho sự thành công đó.
a.
Nhà cung cấp:
Dell đã xây dựng được mối quan hệ rất tốt và bền vững với các nhà cung cấp của mình.
Việc thiết lập mối quan hệ gần gũi với đối tác cung cấp này cho phép Dell đạt lợi nhuận
tối đa mà không cần phải đáp ứng đầu tư hàng tỷ đồng để tự mình thực hiện các hoạt
động sản xuất.
Dell thay vì chỉ sản xuất khi Dell đặt hàng thì phải dự báo trước nhu cầu để sản xuất linh
kiện sẵn sàng cho lắp ráp và giúp Dell quản lý tốt hơn lượng hàng tồn trữ. Các nhà cung
cấp là người lên ý tưởng để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đồng thời cũng là
người thực hiện các ý tưởng đó, giúp Dell thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng.
b.
Nhà lắp ráp:
Nhà lắp ráp có vai trò đặc biệt quan trọng trong chuỗi cung ứng của Dell.Vì họ đóng vai
trò là người lắp ráp các linh kiện để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh để Dell cung cấp cho thị
trường, đồng thời nếu có hỏng hóc xảy ra thì nhà lắp ráp sẽ sửa chữa.
19
Bên cạnh các nhà máy của mình đặt tại nhiều nước trên toàn thế giới như Ai len, Ấn độ,
Trung quốc, Brazil, Malaysia và Phần Lan… Dell còn có sự hợp tác vs Foxconn- một
trong những nhà máy lắp ráp lớn nhất thế giới.
c.
Khách hàng
Marketing trực tiếp là hoạt động thương mại điện tử chính của Dell, các nhóm khách
hàng chính của Dell gồm có:
- Cá nhân sử dụng cho gia đình và văn phòng
- Các doanh nghiệp nhỏ, dưới 200 nhân viên
- Các doanh nghiệp vừa và lớn, trên 200 nhân viên
- Các tổ chức chính phủ, giáo dục, y tế
Ngày nay, khách hàng có lựa chọn kỹ hơn, thích những dòng sản phẩm có tính di động,
tiện lợi cao, đòi hỏi chất lượng, kiểu dáng thời trang nhưng giá thành không quá đắt. Do
đó, Dell đã và đang mở rộng danh mục sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của khách hàng. Dell đã liên tục đổi mới và lắng nghe những nhu cầu thực tế của
khách hàng, vì vậy việc bắt kịp xu hướng của khách hàng là yếu tố then chốt để giúp Dell
thành công.Tại các thị trường mới, để tiếp cận một cách nhanh nhất, Michael Dell đã
thiết lập hàng loạt các đối tác phân phối sản phẩm. Vẫn trung thành với phương pháp
giao hàng trực tiếp tới tay người tiêu dùng, cộng thêm vào đó là mở rộng mạng lưới dịch
vụ chăm sóc khách hàng và đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm được phân phối. Cứ ở
đâu có sự xuất hiện của sản phẩm máy tính Dell đều có những trung tâm bảo hành và tư
vấn sử dụng cho khách hàng.Thậm chí, nếu khách hàng không thể tới tận nới thì chuyên
gia của Dell Computer Corporation sẽ thông qua điện thoại tư vấn cho khách hàng. Bằng
cách này, Michael Dell đã bảo đảm giảm được 75% những sự cố của các sản phẩm và tạo
được uy tín rất lớn với khách hàng. Hàng loạt các trung tâm dịch vụ chăm sóc khách hàng
được tổ chức chặt chẽ được đặt ở nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực như trung tâm
chăm sóc khách hàng tại Philippines, Malaysia, Trung Quốc, Ấn Độ…
20
Theo kết quả kinh doanh của Dell trong quý 4 năm ngoái: ở khu vực doanh nghiệp lớn và
doanh nghiệp vừa và nhỏ, lợi nhuận của Dell đạt 15,7 tỷ USD, tăng liên tiếp 2% phần lớn
nhờ vào kinh doanh dịch vụ và giải pháp doanh nghiệp.
Riêng ở thị trường Việt Nam, công ty nghiên cứu thị trường IDC đã xếp Dell ở vị trí cao
nhất cho cả thị trường máy tính tiêu dùng và máy tính thương mại quý thứ 3 liên tiếp.Kết
quả này cũng khẳng định chiến lược kinh doanh của Dell đã đi đúng hướng.
II, Đánh giá chuỗi cung ứng của Dell:
1. Thành công
Có thể nói, Dell đã thực sự xuất sắc trong việc xây dựng mô hình chuỗi cung ứng phải
nói là vô cùng hoàn hảo – đó chính là mô hình CTO (Configuration to Order- khách hàng
được yêu cầu cấu hình máy) hay MTO (Make to Order- sản xuất theo đơn đặt hàng).
Chuỗi cung ứng Dell – sản xuất PC (Personal Computer – máy tính cá nhân) là chuỗi
thành công nhất trong việc liên kết chặt chẽ giữa quy hoạch mạng lưới và quản lý tốt các
dòng thông tin, dòng hàng và dòng tiền với sự điều hành thông minh nhằm thực hiện
chiến lược cạnh tranh của hãng. Dell đã thể hiện một phần đáng kể thành công của mình
trong việc quản lý tốt các dòng trong chuỗi.
Trao đổi thông tin một cách khôn ngoan:
Thành công của chuỗi phân phối Dell là nhờ việc trao đổi thông tin một cách khôn
ngoan. Dell cung cấp số liệu thực cho nhà cung cấp về tình trạng nhu cầu hiện tại. Do
vậy nhà cung cấp có thể biết được mức độ hàng tồn trữ của các linh kiện ở tại các nhà
máy cùng với yêu cầu sản xuất hàng ngày. Dell đã tạo ra trang web tương thích để các
nhà cung cấp chủ chốt có thể biết được dự báo nhu cầu và các thông tin nhạy cảm khác
của khách hàng. Do vậy đã giúp các nhà cung cấp có được ý tưởng tốt hơn về những nhu
cầu của khách và làm cho tiến trình sản xuất của họ phù hợp hơn với kế hoạch của Dell.
Không sử dụng kênh trung gian:
21
Ngay từ đầu, Dell đã kinh doanh trực tiếp và là 1 trong những nhà cung cấp đầu tiên sử
dụng hệ thống đặt hàng qua mail, sau này tận dụng sức mạnh của Internet để phát triển
nền tảng bán hàng trực tuyến. Từ trước khi việc sử dụng Internet trở nên phổ biến, Dell
đã bắt đầu tích hợp các cập nhật trạng thái trực tuyến và hỗ trợ kỹ thuật nhằm đem lại
dịch vụ khách hàng tốt hơn.Năm 1997, doanh số internet của Dell đã đạt ngưỡng trung
bình 4 triệu USD/ngày.
Giảm thiểu tối đa hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn trữ là thước đo hiệu quả chủ yếu mà Dell đã rất chú ý. Dell chỉ
lưu trữ một lượng hàng tồn không quá 1 ngày, trái lại nếu bán hàng qua hệ thống bán lẻ
thì lượng hàng tồn có khi lên đến 80 hay 100 ngày. Để có thể cạnh tranh thành công với
các đối thủ có chi phí thấp, Dell phải có một chuỗi cung ứng đủ khả năng đưa máy tính
đến với khách hàng chỉ trong thời gian vài ngày..Trong một vài trường hợp Dell chỉ lưu
trữ linh kiện trong vài giờ ở tại các nhà máy lắp ráp của mình.Mức độ hàng tồn trữ thấp
của Dell cũng giúp cho việc đảm bảo sản phẩm tạo ra ít có hư hỏng với số lượng lớn.
Đổi mới trong quy trình lắp ráp:
Năm 1997, Dell đã tái tổ chức các quy trình lắp ráp.Thay vì bố trí một dây chuyền dài
lắp ráp với công nhân thực hiện liên tục 1 công việc nhàm chán, Dell tạo ra các “nhóm
sản xuất”.Các “nhóm” này tập hợp công nhân lại quanh khu vực nơi họ sẽ lắp ráp hoàn
chỉnh PC dựa trên các yêu cầu của khách hàng. Các nhóm sản xuất đã làm tăng gấp đôi
sản lượng sản xuất, giảm tới 75% thời gian lắp ráp.
Dell cũng yêu cầu các nhà cung cấp chính thiết lập hệ thống hàng hoá gần các cơ sở
lắp đặt của hãng.
Dell đã kết hợp các sự đổi mới trong hoạt động và quy trình cùng với mô hình
phân phối mang tính cách mạng để giảm giá tối đa và đem lại cho khách hàng giá trị lớn
chưa từng thấy trong thị trường PC.
22
2.
Hạn chế
Vài năm qua, trong khi các đối thủ cạnh tranh của Del như HP, IBM đang làm ăn phát
đạt thì Dell lại thật sự chật vật. Mặc dù có nhiều tai tiếng về chất lượng pin của máy Dell
nhưng nguyên nhân thực sự vẫn là mô hình cốt lõi CTO đã trở nên lỗi thời. Mọi mô hình
đều đòi hỏi sự đánh đổi, với yêu cầu linh hoạt của MTO model đã làm chuỗi cung ững
của Dell trở nên phức tạp hơn hẳn đối thủ. Trong môi trường kinh doanh thay đổi đến
chóng mặt, nhu cầu liên tục chuyển từ hình thái này sang hình thái khác, đối thủ cạnh
tranh ngày càng sang tạo hơn thì liệu một mô hình gần như hoàn hảo của Dell dường như
không còn đúng mãi. Mô hình chuỗi cung ứng như Dell sản xuất hay đặt hàng sản xuất
mọi linh kiện của chiếc máy tính trên khắp thế giới ở nơi nào rẻ nhất rồi lắp ráp giao hàng
cho khách khi có đơn hàng dường như không phải lúc nào cũng có lợi về chi phí như
nhiều công ty từng lầm tưởng. Các chuỗi cung ứng đầu rủ ro, dễ bị khủng hoảng, khó
quản lý và khó đạt được lợi nhuận trên vốn kỳ vọng.Với 500 ngàn cấu hình khác nhau để
đáp ứng nhu cầu khách hàng, Dell đã trở lên quá tốn kém, vì, một điều cốt lõi những
khách hàng high-end chỉ chiếm một phần nhỏ trong khi nhóm khách hàng low-end
(chiếm số lượng rất lớn) lại ít có nhu cầu về cấu hình phức tạp. Điều đó có nghĩa là Dell
không thể cùng một lúc đạt được “tổng chi phí thấp nhất” (Lowest total landed cost) và
đảm bảo tốc độ/sự linh hoạt. Ngoài ra, trong bối cảnh tốc độ (speed) đưa sản phẩm đến
tay người tiêu dùng ngày càng cần nhanh hơn thì với CTO của Dell thì phải mất đến vài
tuần. Điều này chẳng bao giờ làm khách hàng cảm thấy dễ chịu, đối với những món đồ
mà họ muốn sài ngay. Hơn nữa, hơn bao giờ hết, chi phí linh kiện và máy móc trở nên rẻ
và rõ ràng chi phí tồn kho cho nó cũng vì thế mà rẻ hẳn đi, điều này sẽ làm đối thủ không
khác nhiều so với Dell về tồn kho.
3. Bài học kinh nghiệm cho một số công ty điện tử ở Việt Nam.
Việt Nam là một nước non trẻ giàu tiềm năm nhất là các công ty điện tử có cơ hội phát
triển .,Song các công ty cũng cần chú trọng vào việc nâng cao giá trị khách hàng. Khai
thác các thông số bán hàng và dữ liệu khách hàng từ doanh số trực tuyến sẽ cho phép các
công ty đón đầu nhu cầu trong thị trường PC liên tục phát triển. Tương tự, doanh số và
dữ liệu phản hồi tương đối hữu ích trong việc nâng cao giá trị khách hàng trong mỗi
23
mảng khách hàng riêng biệt. Dù công ty của anh lớn hay nhỏ, việc liên tục kiểm tra, xem
xét sẽ cho thấy các xu hướng đang thịnh hành, sự thay đổi trong thái độ và các cơ hội hấp
dẫn của công ty. Hơn thế nữa, các công ty cũng cần duy trì một mối quan hệ tốt với các
nhà cung cấp và khách hàng.
Các công ty nên có chiến lược khuyến mãi và chăm sóc khách hàng ,và các dịch vụ bảo
hành …Điển hình như dịch vụ bảo hành tận nơi,. khách hàng có thể được hỗ trợ sửa chữa
và vận chuyển linh kiện thay thế đến địa điểm khách hàng lựa chọn hoặc được hỗ trợ
chẩn đoán từ xa và giải quyết các vấn đề thường gặp thông qua internet.
Điều đặc biệt là các công ty điện tử Vn cần chú trọng hơn trong việc đổi mới các chiến
lựơc của chuôi cung ứng cho hớp lý, nâng cao hiệu quả cũng như chất lưỡng sản
phẩm.Rút ra từ những hạn chế của Dell thì công ty điện tử Vn nên tính toán chi phí một
cách hợp lý để tránh bị hao hụt. Tính toán cho phần lưu giữ hàng tồn kho để tránh các
trường hợp lưu kho quá nhiều hoặc quá ít….
Vậy từ đó rút ra cho các công ty Vn là nên xem xét và lên kế hoạch kỹ lưỡng cho
một mô hình chuỗi cung ứng hoàn hảo, hoàn thiện, sáng tạo…
24
Kết luận
1. Bài tiểu luận của chúng tôi đã thực hiện ở trên cơ bản đã mô tả được các hoạt động
của chuỗi cung ứng SCM.
2. Dựa trên việc phân tích chuỗi cung ứng SCM chúng tôi nhận thấy vai trò và tầm
quan trọng của việc quản trị chuỗi cung ứng đối với các doanh nghiệp Việt Nam
nói riêng và các doanh nghiệp trên thế giới nói chung. Nếu các doanh nghiệp làm
tốt khâu quản trị này thì sẽ có được những nguồn lợi vô cùng to lớn khi giảm được
chi phí, ổn định sản xuất, đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng.
3. Kinh tế ngày càng phát triển và đang trên đà hội nhập. Nhiều cơ hội cũng như
thách thức đặt ra trước mắt các nhà quản lí doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh
nghiệp nên tham khảo những bài học kinh nghiệm quản trị chuỗi cung ứng đã
được áp dụng thành công tại các hãng sản xuất lớn để đưa ra một hướng đi đúng
đắn cho doanh nghiệp nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
4. Việc áp dụng bài học về quản trị chuỗi cung ứng có thể được các doanh nghiệp
thực hiện 1 phần nào đó, không nhất thiết là phải dập khuôn một cách máy móc,
mà phải biết lựa chọn những gì phù hợp nhất với tình hình doanh nghiệp và phù
hợp với điều kiện ở Việt Nam
5. Nhà nước cần có thêm nhiều chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp ở Việt Nam.
6. Với những kết quả nghiên cứu trên, chúng em hi vọng bài tiểu luận của mình có
những đóng góp nhất định cho việc áp dụng các kinh nghiệm quản trị chuỗi cung
ứng cho các danh nghiệp ở Việt Nam góp phần phát triển kinh tế nước nhà.
25