Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.24 KB, 7 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng nguy hiểm, tác động tiêu cực
đến các mặt của đời sống xã hội, làm mất ổn định xã hội. Một vi
phạm pháp luật được nhận diện, đánh giá và là cơ sở để truy cứu
trách nhiệm pháp lý là nhờ có cấu thành cơ bản xác định.Nó bao
gồm các yếu tố: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách
thể của vi phạm pháp luật. Thiếu một trong những yếu tố này thì
sẽ không tồn tại một vi phạm pháp luật trong thực tế. Việc xác định
từng bộ phận này là cơ sở quan trọng để truy cứu trách nhiệm pháp
lý,nhờ đó mà tìm ra được mối quan hệ giữa chúng với nhau, xác
định được các biện pháp trách nhiệm pháp lý tương ứng, tìm ra
nguyên nhân của vi phạm pháp luật, và còn đánh giá được mức độ
nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy mà ta có thể thấy việc
phân tích các yếu tố làm cơ sở để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi vi phạm pháp luật là rất quan trọng.
B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
I.Khái niệm: ”Vi phạm pháp luật”
Vi phạm pháp luật hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ .
II. Cấu thành của vi phạm pháp luật.
Cấu thành của vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của một
vi phạm pháp luật cụ thể. Mỗi vi phạm pháp luật sẽ có cấu thành riêng , song
trong cấu thành của mọi vi phạm pháp luật đều có bốn yếu tố là mặt khách
quan, mặt chủ quan,chủ thể và khách thể.
1.Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những dấu hiệu biểu hiện ra
bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm các
yếu tố: hành vi trái pháp luật , hậu quả nguy hiểm cho xã hội,mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa
điểm, phương tiện vi phạm.


 Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là các
hành vi trái với các yêu cầu của pháp luật , nó gây ra hoặc đe dọa gây ra
những hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
 Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc
những thiệt hại phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là
giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa
đựng mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả
nên nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết
quả tất yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên nhân
khác.
Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp
luật.
Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật.
Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện
hành vi trái pháp luật.
Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì hành vi trái pháp luật
luôn luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm
pháp luật, vì không có hành vi trái pháp luật thì không có vi phạm pháp
luật ,còn các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay không là tùy từng
trường hợp vi phạm.có trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội là yếu tố bắt
buộc phải xác định, có trường hợp địa điểm vi phạm cũng là yếu tố bắt buộc
phải xác định, thời gian vi phạm là yếu tố bắt buộc phải xác định khi xem xét
thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý.
2.Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
a.Lối
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật được đặc trưng bởi yếu tố lỗi, có
liên quan đến lỗi là động cơ, mục đích của chủ thể thực hiện vi phạm pháp
luật.Hành vi trái pháp luật mà không có lỗi thì không phải là vi phạm pháp

luật, tức là chủ thể của hành vi đó không bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Đó
là nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa.Một con người bình thường
,khỏe mạnh về mặt tâm lý có lý trí và tự do lý trí, hoàn toàn có thể lựa chọn
cho mình một phương án hành vi phù hợp với lợi ích của xã hội, của cộng
đồng và cầ phải thấy trước hậu quả hành vi của mình.Nếu coi thường lợi ích
xã hội và lợi ích của cá nhân khác, có thể nhận thấy được hậu quả thiệt hại
cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng mong muốn hoặc để mặc hay
do sơ xuất để nó xảy ra thì đố là hành vi có lỗi.Hành vi trái pháp luật , gây
thiệt hại cho xã hội và có lỗi là căn cứ để áp dụng trách nhiệm pháp lý.
Như vậy,Lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi của
mình và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội .
Lỗi được thể hiện dưới hai hình thức : lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.Lỗi vô ý có thể là vô ý do
quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.Trong đa số các trường hợp vi phạm pháp
luật ,để lựa chọn biện pháp trách nhiệm pháp lý công minh và chính xác thì
việc xác định hình thức lỗi là rất quan trọng.
 Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp
luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả
của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp
luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của
hành vi đó, tuy không mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó
xảy ra.
Lỗi vô ý vì quá cẩu thả là lỗi của một chủ thể đã gây ra một hậu quả nguy
hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả đó ,mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả
này.
Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả
đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể

gây ra gậu quả nguy hiểm cho xã hội.
b.Động cơ vi phạm pháp luật.
Động cơ vi phạm pháp luật là động lực tâm lý bên trong thúc đẩy chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
c.Mục đích vi phạm pháp luật
Mục đích vi phạm pháp luật là cái đích trong tâm lý hay kết quả cuối cùng
mà chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Trong nhiều trường hợp việc xác định động cơ , mục đích có ý nghĩa quan
trọng để tìm hiểu nguyên nhân,điều kiện vi phạm pháp luật, nhân thân của
chủ thể vi phạm,từ đó áp dụng biện pháp trách nhiệm thích hợp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo người vi phạm pháp luật.
3.Chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luât đó là cá nhân hoặc tổ chức thực hiện vi phạm
pháp luật .Hành vi trái pháp luật, có lỗi mới là vi phạm pháp luật, vì vậy chủ
thể của vi phạm pháp luật phải là ngưới có năng lực hành vi (tổ chức thì bao
giờ cũng có năng lực hành vi). Năng lực hành vi,trách nhiệm pháp lý của
con người phụ thuộc vào độ tuổi ,tình trạng sức khỏe (có bị bệnh làm mất
hoặc hạn chế khả năng nhận thức về hành vi của mình hay không) và tùy
theo từng loại trách nhiệm pháp lý năng lực hành vi đó được pháp luật quy
định cụ thể.
4.Khách thể của vi phạm pháp luật
Mọi hành vi trái pháp luật đều xâm hại tới những quan hệ xã hội được pháp
luật điều chỉnh và bảo vệ. Vì vậy, những quan hệ xã hội ấy là khách thể của
vi phạm pháp luật. Tính chất của khách thể có ý nghĩa quan trọng xác định
mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật
Tóm lại sự hiện diện của bốn yếu tố cấu thành và các dấu hiệu nói trên của vi
phạm pháp luật là căn cứ thực tế để truy cứu trách nhiệm pháp lý. Tuy vậy,
trong nhiều trường hợp,người ta chỉ cần xác định ba dấu hiệu: hành vi, tính
chất trái pháp luật và có lỗi là đủ để khẳng định có vi phạm pháp luật xảy ra,
nghĩa là đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý.

C.PHÂN TÍCH CẤU THÀNH CỦA VI PHẠM PHÁP LUẬT QUA VÍ
DỤ CỤ THỂ.
1.Ví dụ.
Ngày 13 tháng 9 năm 2008,Cục cảnh sát môi trường - Bộ công an Việt Nam
phối hợp với Bộ Tài nguyên và môi trường Việt Nam đã phát hiện ra vụ việc
sai phạm của công ty bột Ngọt Vedan (Công ty TNHH Vedan Việt Nam)
.Theo đó,hàng ngày công ty Vedan xả nước thải chưa qua xử lý theo quy
định và có chứa rất nhiều chất độc hại gây ảnh hưởng nhiêm trọng đến môi
trường sống bên ngoài đặc biệt là dòng sông Thị Vải (Đồng Nai) trong suốt
mười bốn năm qua kể từ ngày hoạt động (năm 1994) khoảng 4000m
3
/ ngày.
Hành động này gây ô nhiễm nặng nề cho dòng sông Thị Vải,Tại đây nước bị
ô nhiễm hữu cơ trầm trọng, có màu nâu đen và bốc mùi hôi thối cả ngày lẫn
đêm,cả khi thủy triều.các loài sinh vật không còn khả năng sinh sống,ảnh
hưởng đến sức khỏe người dân,đặc biệt gây tổn thất nặng nề với ngư dân địa
phương.
2.Phân tích cấu thành của vi phạm pháp luật
a.Mặt khách quan.
Hành vi trái pháp luật: Ở ví dụ trên,hành động xả nước thải ( 4000m
3
/
ngày) chưa qua xử lý theo quy định xuống dòng sông Thị Vải của công ty
Vêdan là hành vi trái pháp luật (vi phạm hành chính).
Hậu quả: dòng sông bị ô nhiễm nặng,phá hủy môi trường sống và làm thủy
sản chết hàng loạt,gây thiệt hại cho các hộ nuôi thủy sản và ảnh hưởng trầm
trọng đến sức khỏe người dân sống ven sông. Những thiệt hại đó do hành vi
vi phạm pháp luật của công ty Vedan gây ra trực tiếp và gián tiếp.
Thời gian: 14 năm (từ năm 1994- 2008).
Địa điểm: Sông Thị Vải (thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu,

TP.Hồ Chí Minh)
Phương tiện: sử dụng hệ thống ống xả ngầm.
b.Mặt chủ quan
 Lỗi: Là lỗi cố ý gián tiếp. Vì, Công ty vedan khi thực hiện hành vi này thì
nhận thấy trước hậu quả, tuy không mong muốn nhưng vẫn để hậu quả xảy
ra.
Mục đích:Nhằm giảm bớt chi phí xử lí nước thải. Theo quy định thì công ty
Vedan phải đầu tư 1 chục triệu để xử lý 1m
3
dịch

thải đậm đặc. Đáng ra phải
chi từ 15%- 20% vốn đầu tư cho việc xử lý nước thải thì công ty Vedan chỉ
dành 1,5% vốn cho việc đó.
c. Mặt chủ thể
Công ty Vedan (Thuộc Công ty TNHH vedan Việt Nam) là một công ty thực
phẩm với 100% vốn đầu tư Đài Loan.
Được xây dựng từ năm 1991.
Có giấy phép hoạt động từ năm 1994.
 là một tổ chức có đầy đủ trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi trái
pháp luật này
d. Mặt khách thể
Việc làm của Vedan đã vi phạm đến nguyên tắc quản lý nhà nước: Vi phạm
trật tự quản lý nhà nước, làm tổn hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ.
D. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Quả thực, qua việc xác định, và phân tích những yếu tố làm cơ sở
đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm pháp luật
giúp cho chúng ta định hướng phần nào để giảm mức độ nguy hiểm
của cho xã hội. Đồng thời, qua việc phân tích này giúp cho sinh

viên chúng ta có những nhận thức đúng đắn và cần thiết.

×