Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Công việc cải tạo môi trường sông Tô Lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.3 KB, 82 trang )

1

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Đặt vấn đề

Mơi trường nói chung và ơ nhiễm mơi trường nói riêng hiện đang là vấn
đề được quan tâm trên toàn thế giới. Việc khắc phục suy thối mơi trường, cải
tạo mơi trường đang ô nhiễm thường đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn và thường
được đầu tư bởi Ngân sách Nhà nước hoặc nguồn vốn vay nước ngồi.
Việc cải thiện mơi trường một khu vực ô nhiễm được xem xét theo
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, những chủ thể gây ơ nhiễm khu
vực phải có trách nhiệm chi phí cho thiệt hại môi trường do họ gây ra. Hiện nay
đã có rất nhiều các nhà máy thường xuyên phải đóng phí về nước thải, rác thải...
Tuy nhiên người ta thường khơng xét tới khía cạnh khi khu vực ơ nhiễm được
cải tạo sẽ có khá nhiều người được hưởng lợi và họ sẵn sàng trả một khoản tiền
nhất định để đóng góp cho việc cải tạo. Vì vậy việc tính tới thu mức phí đóng
góp cải thiện mơi trường của những người được hưởng lợi trực tiếp từ việc cải
thiện môi trường là cần thiết, giúp giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước.
Trường hợp đề tài nghiên cứu tập trung vào việc cải thiện môi trường
sông Tô Lịch (nằm trong Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội). Sông Tô
Lịch ô nhiễm chủ yếu do 3 nguồn: nước thải sinh hoạt của dân cư, nước thải
bệnh viện và nước thải của các nhà máy. Như vậy, theo nguyên tắc “người gây ô
nhiễm phải trả tiền”, dân cư, nhà máy và bệnh viện là ba chủ thể có trách nhiệm
phải chi phí cho thiệt hại mơi trường do họ gây ra. Nhưng nếu nhìn cơng việc cải
tạo sông Tô Lịch theo nguyên tắc “người được hưởng lợi phải trả tiền”, thì việc
chỉ thu qua phí nước thải là chưa đầy đủ. Khi sông được cải tạo, thành phố Hà
Nội sẽ thốt khỏi tình trạng ngập úng hàng năm đặc biệt những người được
hưởng lợi trực tiếp nhiều nhất là bộ phận dân cư sống hai bên bờ sơng Tơ Lịch
bởi cải tạo sơng cũng có nghĩa là môi trường sống của họ được cải thiện.
Nếu Nhà nước cải thiện môi trường sông Tô Lịch chỉ bằng nguồn vốn cải


tạo đầu tư từ chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hiệu quả trong quá trình quản


2

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

lí và sử dụng do sự xuất hiện của một số “người ăn theo”, chủ yếu là bộ phận
dân cư ở hai bên sơng. Vì vậy, sự kết hợp giữa vốn của Nhà nước, nguồn thu từ
phí nước thải cùng với nguồn vốn huy động từ dân cư hai bên sông để cải tạo
sông Tô Lịch là phương án có tính khả thi và bền vững.
Chính từ những lý do trên đã thơi thúc chúng em thực hiện đề tài: “Xây
dựng mơ hình xác định mức phí đóng góp của cộng đồng dân cư trực tiếp
hưởng lợi từ việc cải thiện môi trường sông Tô Lịch giúp giảm bớt gánh nặng
chi tiêu Ngân sách Nhà (Trường hợp nghiên cứu mẫu: Dự án cải tạo sông Tô
Lịch).
Mục tiêu nghiên cứu
Phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên CVM là phương pháp sử dụng đường
cầu để đo lường phúc lợi xã hội. Mục tiêu chính của đề tài là muốn vận dụng
những lý thuyết đã được học vào thực tế nhằm tăng khả năng nắm bắt một
phương pháp hiệu quả, đưa ra một mơ hình tính phúc lợi xã hội dựa vào Mức giá
sẵn lòng trả (WTP) của người dân.
Từ mơ hình này xác định được mức phí huy động trong bộ phận dân cư
hai bên sông Tô Lịch theo phương thức thu từng hộ gia đình trong từng quý (3
tháng).
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi sử dụng phương pháp: Sử dụng phương pháp Đánh giá ngẫu
nhiên để xác định mức phí từ dân theo nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả
tiền”.
Địa bàn nghiên cứu: Sự ô nhiễm của sông Tơ Lịch có ảnh hưởng rất lớn

đến đời sống và sản xuất của toàn thành phố Hà Nội, đặc biệt là các khu dân cư
sống sát hai bên bờ sông. Đề tài nghiên cứu chỉ đề cập đến việc thu phí của
những khu dân cư này để cải tạo mơi trường sơng Tơ Lịch mang lại lợi ích thiết
thực cho họ bởi những hộ gia đình sống sát hai bên sông là những người chịu tác
động trực tiếp của ô nhiễm môi trường đồng thời họ cũng là những người đầu


3

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

tiên được hưởng lợi khi môi trường hai bên bờ sông được cải tạo. Địa bàn
nghiên cứu trên 3 phường: phường Yên Hoà, phường Thượng Đình và phường
Hạ Đình.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM): phương pháp này sử dụng
cách phỏng vấn và phát phiếu điều tra các gia đình tại địa điểm mơi trường cần
nghiên cứu nhằm tìm ra Mức giá sẵn lịng trả (WTP) của người dân cho cơng
việc cải tạo môi trường sông Tô Lịch. Kết hợp sử dụng phương pháp CVM với
các lý thuyết kinh tế môi trường khác để tìm ra phương pháp phù hợp cho việc
đánh giá lợi ích của người dân khi được hưởng hàng hố, dịch vụ cơng cộng.
Kết cấu đề tài:
Đề tài có kết cấu gồm 3 chương
Chương I: Cơ sở lý luận xác định phí bảo vệ mơi trường.
Chương II: Hiện trạng ô nhiễm nước và Dự án cải tạo hệ thống thốt nước
Hà Nội.
Chương III: xác định mức phí từ dân cho việc cải tạo sông Tô Lịch


4


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN XÁC ĐỊNH PHÍ BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG
1.1. Khái niệm và các nguyên tắc trong xác định mức phí bảo vệ mơi trường
1.1.1.Khái niệm
Pháp lệnh về phí và lệ phí của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội khố 10 qui
định: “Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá
nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí”.
Danh mục phí thuộc lĩnh vực môi trường được qui định tại Mục A, Khoản
10 pháp lệnh gồm 11 khoản trong đó có các loại phí liên quan tới mơi trường
đặc biệt là phí bảo vệ mơi trường. Phí bảo vệ mơi trường được Nghị định số
57/2002/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí
qui định thành 6 loại như sau:
- Phí bảo vệ mơi trường đối với nước thải.
- Phí bảo vệ mơi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá
và các loại nhiên liệu đốt khác.
- Phí bảo vệ mơi trường đối với chất thải rắn.
- Phí bảo vệ mơi trường về tiếng ồn.
- Phí bảo vệ mơi trường đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí bảo vệ mơi
trường đối với khai thác dầu mỏ, khí đốt và khống sản khác.
Như vậy phí nói chung, phí bảo vệ mơi trường nói riêng được hiểu là một
khoản nghĩa vụ tài chính mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi được hưởng một
dịch vụ nào đó (chẳng hạn dịch vụ về môi trường). Để đảm bảo chất lượng môi
trường sống cho các đối tượng xã hội, Nhà nước phải đầu tư một khoản tài chính
lớn cho cơng tác bảo vệ môi trường. Do vậy, trách nhiệm của các tổ chức và cá
nhân là phải trả một phần chi phí nêu trên cho Nhà nước. Hiện nay, ở Việt Nam
đang thực hiện các loại phí như: phí vệ sinh thành phố, phí về cung cấp nước
sinh hoạt và tưới tiêu trên đồng ruộng và đặc biệt đã có qui định cụ thể về mức



5

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

và phương thức đóng góp Phí bảo vệ mơi trường đối với nước thải. Đây hầu hết
là các loại phí dựa trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, ở Việt
Nam hiện nay còn chưa quan tâm tới việc thiết lập các loại phí dựa trên cơ sở
nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”.
1.1.2. Các nguyên tắc trong xác định mức phí bảo vệ môi trường.
a. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP)
Nguyên tắc này bắt nguồn từ các sáng kiến do tổ chức Hợp tác kinh tế và
phát triển (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974 . PPP “Tiêu chuẩn” năm
1972 có quan điểm những tác nhân gây ơ nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt
động kiểm sốt và phịng chống ơ nhiễm. PPP “Mở rộng” năm 1974 chủ trương
rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thì ngồi việc tn theo các chỉ tiêu đối với viềc
gây ơ nhiễm thì cịn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do ô
mhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo ngun tắc PPP thì người gây ơ nhiễm phải
chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính
quyền tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho mơi trường ở trong trạng thái chấp
nhận được.
b. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền (BPP)
Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phịng ngừa ơ nhiễm và cải thiện
mơi trường cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những người
không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra một khoản
thu cho Nhà nước, mức phí tính theo đầu người càng cao và càng nhiều người
nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được theo nguyên tắc BPP có
thể do các cá nhân muốn bảo vệ môi trường và những cá nhân không phải trả
cho việc thải ra các chất gây ô nhiễm nhưng khi môi trường được cải thiện họ là

những người được hưởng lợi cần phải đóng góp. Tuy nhiên, số tiền này khơng
trực tiếp do người hưởng lợi tự giác trả mà phải có một chính sách do Nhà nước
ban hành qua thuế hoặc phí buộc những người hưởng lợi phải đóng góp nên
nguyên tắc BPP chỉ tạo ra sự khuyến khích đối với việc bảo vệ môi trường một
cách gián tiếp.


6

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

c. Ngun tắc "Đơi bên cùng có lợi"
Đối với các dự án đầu tư cho bảo vệ môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế
cao và có tính bền vững thì vận dụng ngun tắc này là thích hợp. Ví dụ như
huy động vốn đầu tư cho dự án bảo vệ rừng ngập mặn, không chỉ quốc gia duy
trì vốn rừng bảo vệ bờ biển, đa dạng sinh học, góp phần cải thiện khí hậu tồn
cầu nóng lên, mà cộng đồng dân cư địa phương cũng được hưởng lợi nguồn hải
sản có tính bền vững và những sinh khối khác có từ hệ sinh thái rừng ngập mặn.
Như vậy nếu có sự kết hợp nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, vốn từ ngân sách
của chính phủ và vốn của cộng đồng dân cư địa phương thì hiệu quả mà dự án
mang lại sẽ rất lớn. Đây chính là thể hiện một nguyên lý thường được áp dụng
trong hoạt động bảo vệ môi trường là nguyên lý cả hai cùng thắng ("Win - Win
Principle").
1.2. Lý luận chung về hàng hố cơng cộng
1.2.1. Hàng hố cơng cộng
Hàng hóa cơng cộng có hai loại: hàng hóa cơng cộng thuần t và hàng
hố cơng cộng khơng thuần t.
Hàng hóa cơng cộng thuần t có hai đặc tính quan trọng. Hàng hố cơng
cộng mang tính khơng loại trừ và có chi phí sản xuất cận biên bằng khơng. Hàng
hồ có đầy đủ hai đặc tính này được gọi là hàng hố cơng cộng.

a. Tính khơng loại trừ của hàng hố cơng cộng
Tính khơng loại trừ được thể hiện khi có một loại hàng hóa dịch vụ mà
tất cả mọi người có nhu cầu tiêu dùng đều được hưởng loại hàng hố, dịch vụ đó
và khó có thể loại trừ họ ra khỏi việc hưởng lợi ích của dịch vụ đó.
Ví dụ đối với chương trình sức khoẻ quốc gia (tiêm chủng chống bại liệt,
uốn ván...), không thể loại trừ bất kể ai khơng được hưởng lợi ích từ chương
trình này. Giả định rằng mọi người đều thấy sức khoẻ có giá trị nhưng Chính
phủ lại khơng cung cấp thì liệu tư nhân có cung cấp được khơng? Để làm việc
này thì tư nhân sẽ thực hiện thu tiền cung cấp dịch vụ nhưng vì mỗi người đều


7

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

cho rằng mình sẽ được hưởng dịch vụ bất cứ có đóng góp gì hay không nên mọi
người sẽ không tự nguyện trả tiền cho dịch vụ đó. Chính vì thế, mọi người cần
hỗ trợ hàng hố này thơng qua nộp thuế, tuy nhiên hàng hố cơng cộng mang
tính khơng thể loại trừ bởi nếu một người khơng dóng thuế hoặc phí thì anh ta
vẫn được hưởng lợi ích từ hàng hố, dịch vụ cơng cộng đó.
Trong thực tế cũng có một số hàng hố có thể loại trừ được ai đó nhưng
cũng rất tốn kém hoặc khó thực hiện. Ví dụ ở Việt Nam chương trình truyền
hình quốc gia hiện nay là hàng hố cơng cộng khơng mang tính loại trừ. Nếu
như dịch vụ này mang tính loại trừ có thể như thu tiền cho mỗi kênh truyền hình
thì cần thiết phải lắp đặt hệ thống mã hố các kênh địi hỏi rất nhiều kinh phí.
Đồng thời điều này cũng có nghĩa là sẽ loại trừ những người nghèo, những
người khơng có đủ tiền xem nhiều kênh hoặc một kênh bất kỳ. Như vậy sẽ ảnh
hưởng tới chính trị, các mục tiêu xã hội khác của Việt Nam.
b. Đặc tính chi phí sản xuất cận biên bằng khơng của hàng hố cơng cộng.
Đặc điểm thứ hai của hàng hố cơng cộng là khơng muốn loại trừ một ai:

tiêu dùng của một cá nhân không làm giảm lượng tiêu dùng của một người khác,
chi phí cận biên của việc cung cấp hàng hoá cho thêm một người là bằng khơng.
Với chương trình truyền hình quốc gia của Việt Nam việc có thêm một ti vi bắt
sóng cơ bản khơng làm thay đổi chi phí truyền hình. Điều này hồn tồn khác
với hàng hố tư nhân. Khi ai đó đang sử dụng một hàng hố tư nhân hay một
dịch vụ do tư nhân cung cấp thì điều đó có nghĩa là người đó đã loại trừ người
khác sử dụng dịch vụ hay hàng hố đó.
c. Hàng hố cơng cộng khơng thuần t.
Nhiều hàng hố chỉ có một trong hai đặc điểm trên ở những mức độ khác
nhau, có thể loại trừ nhưng khơng muốn loại trừ, hoặc có thể loại trừ nhưng rất
tốn kém.
d. Vấn đề “người ăn theo” trong hàng hố cơng cộng


8

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

“Người ăn theo” là người tìm cách hưởng thụ lợi ích của một hàng hố
cơng cộng mà khơng đóng góp chi phí để trang trải số hàng hoá đuợc cung cấp.
Vấn đề “người ăn theo” xuất phát từ những người được khuyến khích phải
hưởng thụ những lợi ích do người khác trả tiền cịn bản thân họ khơng trả tiền.
“Ăn theo” có thể là một chiến lược của bất kỳ cá nhân nào suy nghĩ rằng khơng
có sự trừng phạt cho việc đó và chỉ có một số ít cá nhân lựa chọn chiến lược này
như họ. Nếu mọi cá nhân trong cộng đồng đều lựa chọn chiến lược này thì sẽ
khơng có sự sản xuất hàng hố cơng cộng.
1.2.2. Đường cầu về hàng hố công cộng.
Trong thực tế các cá nhân không mua các hàng hố cơng cộng, tuy nhiên
chúng ta có thể hỏi xem họ có thể cần bao nhiêu nếu như họ phải trả thêm tiền
bao nhiêu đó cho mỗi đơn vị hàng hố cơng cộng mà họ có thể dùng thêm. Đây

khơng phải là một câu hỏi hồn tồn mang tính giả định vì khi chi tiêu vào hàng
hố cơng cộng tăng lên thì thuế cá nhân cũng tăng lên. Chúng ta gọi khoản trả
thêm này của cá nhân cho mỗi đơn vị hàng hố cơng cộng thêm là giá thuế của
anh ta. Bằng cách tăng hoặc giảm giá thuế chúng ta có thể vẽ được đường cầu
hàng hố cơng cộng. Chúng ta sử dụng cách này để vẽ các đường cầu tư nhân
của hàng hố cơng cộng.
Cộng các đường cầu này theo chiều dọc để có được đường cầu xã hội
(đường cầu thị trường). Cộng theo chiều dọc là hợp lý bởi vì hàng hố cơng
cộng thuần t cần cung cấp cho các cá nhân với cùng một lượng như nhau.
Chia theo khẩu phần là không thể thực hiện được và cũng là khơng mong muốn,
bởi vì sử dụng hàng hố cơng cộng của một cá nhân khơng làm giảm sự hưởng
thụ của bất cứ người nào.
Đường cầu có thể coi như “đường sẵn sàng chi trả tiền cận biên” Tức là,
tại mỗi mức sản lượng hàng hố cơng cộng, đường đó đều cho biết cá nhân sẽ
sẵn sàng trả bao nhiêu để có thêm một đơn vị hàng hố cơng cộng. Do đó, tổng
số theo chiều dọc của các đường cầu là đúng bằng tổng của sự sẵn sàng trả tiền


9

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

cận biên của cá nhân, tức là tổng lượng mà tất cả các cá nhân sẵn sàng trả để có
thêm một đơn vị hàng hố công cộng.
Trong nền kinh tế, chúng ta thường sử dụng chủ yếu hệ thống thuế, phí và
hệ thống phúc lợi để phân phối lại các nguồn lực. Phân phối các nguồn lực
thông qua các hệ thống thuế và phúc lợi là tốn kém, có nghĩa rằng Chính phủ có
thể có những cách thức khác để đạt mục tiêu phân phối lại của mình. Hệ thống
thuế, phí có những tác động khuyến khích quan trọng thay đổi cơ cấu chi phí mà
Chính phủ phải chi cho hàng hố cơng cộng hàng năm. Việc thực hiện thu thuế,

phí sẽ giảm bớt gánh nặng chi tiêu Ngân sách Nhà nước khi cung cấp các dịch
vụ công cộng xã hội.
1.3. Phương pháp xác định mức phí bảo vệ mơi trường
1.3.1. Cơ sở đánh giá chi phí- lợi ích mơi trường
Trong thực tiễn khi chúng ta đánh giá một hàng hố mơi trường như một
khu rừng miền núi, rừng ngập mặn, hồ nước, bãi biển, lồi thực vật nào đó có ý
nghĩa trước mắt và lâu dài mà việc lượng hoá đầy đủ những giá trị đó là rất khó
thậm chí khơng lượng hố được, do đó các nhà kinh tế học mơi trường phải nhìn
nhận đánh giá tài ngun đó trên góc độ giá trị kinh tế.
Tổng giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên bao gồm giá trị sử dụng và giá
trị không sử dụng theo cơng thức:
TEV = UV + NUV
Trong đó TEV: tổng giá trị kinh tế
UV: giá trị sử dụng
NUV: giá trị không sử dụng
Giá trị sử dụng (UV) được phân thành giá trị sử dụng trực tiếp (DUV)và
giá trị sử dụng gián tiếp (IUV):
UV = DUV + IUV


10

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Giá trị khơng sử dụng (NUV) bao gồm giá trị lựa chọn (OV), giá trị để lại
(BV) và giá trị tồn tại (EV):
NUV = OV + BV + EV
Giá trị sử dụng trực tiếp: thực chất liên quan đến giá trị đầu ra của sản
phẩm hàng hố và dịch vụ mơi trường, cụ thể đó là những nguồn tài nguyên
thiên nhiên có giá trị trên thị trường. Đối với một khu rừng, giá trị sử dụng trực

tiếp là gỗ và động vật trong rừng.
Giá trị sử dụng gián tiếp: thông thường liên quan đến những chức năng
của môi trường trong việc hậu thuẫn các hoạt động kinh tế xã hội và tạo ra ngăn
chặn những thiệt hại mơi trường, ví dụ như rừng có khả năng chống xói mịn,
kiểm sốt lũ lụt.
Giá trị khơng sử dụng: chủ yếu bao gồm những giá trị tồn tại và những giá
trị tuỳ thuộc. Giá trị không sử dụng rất phức tạp cả về tính tốn và nhận thức, nó
thể hiện giá trị phi phương tiện nằm trong bản chất của sinh vật nhưng không
liên quan đến việc sử dụng thực tế, thậm chí khơng liên quan đến việc lựa chọn
sinh vật này. Thay vào đó, giá trị này được coi như những yếu tố phản ánh sự
lựa chọn của con người, nghĩa là những giá trị này nằm trong nhận thức của con
người nhiều hơn. Giá trị tồn tại của một khu rừng có thể là tính đa dạng sing học
của rừng. Ví dụ như một lồi cây ở hiện tại chưa có giá trị nhưng trong tương
lai khi khoa học phát triển thì lồi cây đó nếu được phát hiện như một loại thuốc
hoặc có giá trị khác, đó chính là một giá trị tồn tại của khu rừng.
Trong lý thuyết kinh tế mơi trường có 2 loại phương pháp chính để đánh
giá những giá trị kinh tế của một loại hàng hoá và lượng hoá giá trị đó thành
tiền. Đó là phương pháp sử dụng đường cầu và phương pháp khơng sử dụng
đường cầu. Trong đó phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên là phương pháp có sử
dụng đường cầu.


11

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

1.3.2. Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM)
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) là phương pháp đánh giá trị
kinh tế của một tài sản môi trường thông qua việc điều tra, phỏng vấn ngẫu
nhiên các đối tượng liên quan mơi trường đó. Phương pháp CVM bỏ qua nhu

cầu tham khảo giá trị thị trường của sản phẩm mơi trường. Mặc dù có rất nhiều
biến tố của kỹ thuật này, phương cách thường được áp dụng nhất là phỏng vấn
các gia đình hoặc tại nhà họ và hỏi cái giá sẵn lòng trả (WTP) của họ cho việc
bảo vệ mơi trường. Sau đó các nhà phân tích có thể tính tốn giá trị WTP trung
bình của những người trả lời phỏng vấn.
Tổng giá trị của tài sản mơi trường ước tính bằng cách nhân giá trị WTP
trung bình của những người trả lời phỏng vấn với tổng số người thụ hưởng địa
điểm hay tài sản môi trường đang xem xét.
Một ưu điểm của phương pháp CVM là trên lý thuyết nó được sử dụng để
đánh giá các nguồn tài nguyên mà sự tồn tại tiếp tục của nó được người đánh giá
cao, nhưng bản thân họ không bao giờ sử dụng đến nguồn tài nguyên đó cả.
Phương pháp CVM có một số nhược điểm tiềm ẩn sau:
* Nói ít đi WTP
Giả thiết chủ yếu của kỹ thuật CVM là tổng số WTP được những người
trả lời phát biểu phải tương ứng với sự đánh giá của họ về tài sản đang xem xét.
Các nhà phê bình nghi ngờ tính hiệu lực của một giả thiết như vậy, cho rằng bản
chất giả thiết của phương án CVM làm cho câu trả lời của các cá nhân khơng
đúng với giá trị thực. Trong một loạt thí nghiệm, người ta thấy rằng số tiền
người dân nói là họ sẵn lòng trả chỉ khoảng 70% – 90% số tiền mà cuối cùng họ
thực sự đã trả. Tuy nhiên, do phần nói bớt di nầy tương đối nhỏ nên đây có thể
khơng phải là vấn đề q nghiêm trọng.
* Có sự chênh lệch khá lớn giữa giá trị WTP và WTA
Trên lý thuyết câu hỏi về việc trả tiền có thể được đặt ra như thường lệ
“Bạn sẵn lòng trả bao nhiêu (WTP) để có được tài sản mơi trường tốt hơn” hoặc


12

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


dưới dạng ít gặp hơn “Bạn sẵn lòng nhận bao nhiêu (WTA) để bồi thường cho
việc tài sản môi trường này?”. Khi đem so sánh hai câu hỏi trên, các nhà phân
tích để ý rằng WTA cao hơn WTP rất nhiều, một kết quả mà các nhà phê bình
cho là mất hiệu quả của phương pháp CVM và cho thấy rằng khi trả lời các câu
hỏi như thế các cá nhân muốn nói lên điều mà họ muốn nó xảy ra hơn là những
đánh giá.
* Thiên lệch một phần-tồn phần
Các nhà phê bình phương pháp CVM đã lưu ý rằng nếu người ta lần đầu
tiên được hỏi WTP của họ cho một phần tài sản môi trường (như một con sông
trong hệ thống các con sơng) và sau đó được hỏi đánh giá cho tồn bộ tài sản
(nghĩa là toàn bộ hệ thống các con sơng) thì số tiền được phát biểu là như nhau
vì trong cách phân bố thông thường việc chi tiêu của họ: đầu tiên chia thu nhập
khả dụng của họ thành nhiều khoản ngân sách (nhà ở, thực phẩm, xe hơi, giải
trí) sau đó chia tiếp vào các khoản mục thực sự phải mua. Vì thế, đối với giải trí
bước đầu xác định tổng ngân sách mà mỗi cá nhân dành cho giải trí và sau đó
chia tiếp thành số tiền họ sẵn lòng chi tiêu cho mỗi nơi họ muốn viếng thăm.
Một phương pháp giải quyết vấn đề này là lần đầu tiên hỏi họ để biết tổng
ngân sách dành cho giải trí và kế đó là WTP của họ đối với tài sản môi trường
đang xem xét, nhắc nhở họ về ngân sách giải trí có hạn của họ và cho rằng số
tiền mà họ dành cho tài sản này không thể chi tiêu cho việc khác.
Một phương pháp thứ hai là giới hạn việc sử dụng CVM trong việc đánh
giá một nhóm lớn của hàng hố mơi trường, việc giới hạn này nếu cần, sẽ làm
hạn chế đáng kể việc áp dụng CVM ở quy mô rộng lớn và chính nó có thể tạo ra
những trở ngại nhiều hơn đối với khă năng của người trả lời để hiểu nhóm lớn
hàng hố như vậy
* Thiên lệch theo phương tiện
Khi hỏi một câu về WTP các nhà phân tích phải xác định việc đóng góp
theo con đường nào (phương tiện đóng góp thơng qua hình thức bắt buộc như



13

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

thuế, phí hay hình thức tự nguyện qua các hoạt động từ thiện…). Những người
được hỏi có thể thay đổi WTP của họ tuỳ theo phương tiện đóng góp họ chọn.
Mặc dù người dân thường khơng thích đóng thuế, nhưng họ lại cảm thấy rằng
cách này đảm bảo hơn cho việc bảo vệ môi trường so với khả năng sử dụng các
quỹ từ thiện.
* Thiên lệch điểm khởi đầu
Nếu nghiên cứu ban đầu đã thử gợi ý cho những người trả lời bằng cách
đề nghị một số tiền khởi đầu sau đó tăng lên hay giảm đi số tiền này dựa theo
người trả lời đồng ý hay từ chối số tiền đó. Tuy nhiên, người ta thấy rằng sự lựa
chọn mức tiền ban đầu ảnh hưởng đến số tiền WTP sau cùng của người trả lời.
b. Cơ sở xác định mức phí theo Tổng lợi ích tính từ WTP.
Cơ sở xác định mức phí hàng năm để cải thiện chất lượng nước sông là
Mức giá sẵn lịng trả (WTP) các hộ dân có liên quan. Mục đích xác định tổng lợi
ích tính từ WTP là lợi ích của xã hội được hưởng khi cải thiện mơi trường.
Tổng lợi ích người tiêu thụ có được là WTP gộp bao gồm phần thật sự chi
trả và phần thặng dư của người tiêu thụ.

P

B

A

0

C


D

Q


14

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Hình 1: Đường cầu của một sản phẩm (một mặt hàng thị trường hoặc phi
thị trường).
Trong đó P: giá sản phẩm, Q: lượng cầu
Giả sử giá đang ở mức OA, lượng cầu sẽ là OD. Chúng ta có thể coi
đường cầu là “đường mức sẵn lịng trả”: nó cho thấy mức sẵn lịng trả cho một
sản phẩm thêm vào và đó là đường mức sẵn lòng trả biên.
Số tiền mà các cá nhân chi trả thật sự ở ngoài thị trường( hoặc số tiền mà
họ sẽ trả nếu có thị trường ) cho bởi tổng chi OACD. Nhưng có WTP giá cao
hơn cho các đơn vị đầu tiên, như WTP là OB cho đơn vị đầu tiên, và giảm
xuống DC ứng với đơn vị cuối cùng. Do đó WTP cao hơn phần chi trả thật sự.
Nếu chúng ta cộng dôi ra của WTP ở phia trên OA ( giá thực sự trả ) của
mỗi đơn vị sản phẩm chúng ta sẽ có hình tam giác ABC. Phần này được gọi là
phần thặng dư của người tiêu thụ: đó là lợi ích họ có được trên số tiền mà họ
thực sự trả. WTP gộp là OACD + ABC = OBCD và phần này và phần này được
tạo nên bởi phần thật sự chi trả và phần thặng dư của người tiêu thụ. Nói cách
khác, chúng ta gọi OBCD là WTP gộp và ABC là WTP ròng.
Như vậy dựa trên WTP của các hộ gia đình sẽ xây dựng được đường cầu và
từ đó tính được tổng lợi ích của các hộ gia đình có liên quan, từ đó có thể đưa ra
mức phí cần thiết.
WTP là 1 số liệu quan trọng khi sử dụng phương pháp CVM để đành giá

hàng hố mơi trường và được thu thập qua quá trình phỏng vấn phát phiếu điều
tra.
1.3.3. Kinh nghiệm áp dụng phương pháp CVM
a.Nội dung
Sông Monongahela là con sơng chính chảy qua Pennyslvania, Hoa Kỳ.
Các nhà phân tích đã hỏi một số hộ tiêu biểu ở khu vực này là họ sẵn sàng trả
thêm bao nhiêu thuế để duy trì hoặc nâng cao chất lượng nước sơng. Các nhà
phân tích đã thực hiện nhiều biến thể cho khảo sát CVM. Trong một biến thể các


15

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

hộ được đưa ba tình huống chất lượng nước sông và được hỏi đơn giản là họ sẵn
lòng trả bao nhiêu cho mỗi trường hợp.
* Tình huống 1: Giữ ngun chất lượng nước sơng (đủ thích hợp cho việc
bơi thuyền hơn là để cho nó giảm tới mức khơng thích hợp cho bơi thuyền)
* Tình huống 2: Nâng cao chất lượng nước sông từ mức có thể bơi
thuyền đến mức có thể câu cá được.
* Tình huống 3: Nâng cao chất lượng nước sơng hơn nữa từ mức có thể
bơi thuyền đến mức có thể tắm được.
Trong số những hộ được khảo sát vài hộ đã sử dụng con sơng để giải trí
trong khi những hộ khác thì khơng. Vì thế các nhà phân tích xét xem người sử
dụng sẵn sàng trả bao nhiêu so với người khơng sử dụng. Kết quả cho tồn bộ số
hộ được phỏng vấn cũng được tính tốn. Bảng trên trình bày số tiền sẵn lịng trả
của người sử dụng, người khơng sử dụng, và tồn bộ mẫu cho mỗi tình huống
thay đổi chất lượng nước sơng.
Bảng 1: Giá sẵn lịng trả (WTP) cho các tình huống chất lượng nước sơng


Chất lượng nước

WTP trung bình WTP trung bình WTP trung bình của
tồn thể mẫu

Giữ ngun chất lượng

của nhóm sử dụng

nhóm khơng sử dụng

24,5

45,3

14,2

17,6

31,3

10,8

12,4

20,2

8,5

có thể bơi thuyền

Nâng chất lượng từ có
thể bơi thuyền đến có thể
câu cá
Nâng chất lượng từ câu
cá đến bơi được

Nhiều kết luận thú vị rút được từ những kết quả này, xem xét các kết quả
toàn mẫu, chúng ta có thể thấy rằng số tiền sẵn lịng trả đã vẽ một đường cầu
thông thường cho chất lượng nước sơng, nghĩa là người ta sẵn lịng trả số tiền


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

16

tương đối cao cho mức chất lượng cơ bản ban đầu. Tuy nhiên, tiếp đến họ sẵn
sàng trả thêm ít hơn cho các mức chất lượng cao hơn của nước sơng.
Hình 2 cho biết kết quả của khảo sát tổng thể, trung bình một hộ. Quay lại
các kết quả với nhóm sử dụng và các nhóm khơng sử dụng, chúng ta có thể thấy
rằng cả hai đều có dạng đường cầu cong xuống như thường lệ. Hơn nữa, ở mọi
mức chất lượng thì WTP của nhóm sử dụng đều vượt hơn nhóm khơng sử dụng.
Cuối cùng, chú ý rằng WTP của nhóm khơng sử dụng không bằng 0, điều này là
do các hộ này dù khơng phải bản thân họ muốn tham quan giả trí ở con sơng, họ
cũng sẵn lịng trả giá cho nó tiếp tục tồn tại và thậm chí được nâng cấp để cho
những người khác có thể hưởng lợi ích của nó. Giá trị “tồn tại” mà khơng sử
dụng này xuất phát từ “ý thích cơng cộng mang tính vị tha”của con người, nó
cho thấy rằng sự quan tâm tập trung đến “ý thích cá nhân” của con người, như
đã được chứng minh bởi giá thị trường đối với các hàng hố trên thị trường
khơng phải ln ln thể hiện được hồn tồn các giá trị mà người ta có đối với
sự việc.


Giá (WTP)
24.5

17.6
12.4

1

2

3

Hình 2: Đường cầu cho chất lượng nước
b. Nhận xét

Chất lượng nước


17

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Từ kinh nghiệm thực hiện tại Mỹ có thể rút ra một số nhận xét và cũng là
bài học có thể áp dụng vào Việt Nam. Các nhà phân tích đã thực hiện phương
pháp CVM thu được số liệu WTP sử dụng vào 2 mục đích.
Các WTP được tính tốn và phân chia thành 3 loại: WTP trung bình tồn
thể mẫu, WTP trung bình của nhóm sử dụng và WTP trung bình của nhóm
khơng sử dụng. Từ đó họ có thể phân tích được sở thích, nhu cầu sử dụng dịng
sơng theo các mục đích khác nhau của nhóm người có nghĩ tới việc sử dụng

sơng làm phương tiện giải trí. Đồng thời, phân tích được mức độ quan tâm tới
dịng sơng, quan tâm tới cải thiện mơi trường sơng của nhóm người khơng có
nhu cầu sử dụng sơng.
Dựa vào WTP trung bình tồn thể mẫu, các nhà phân tích cho thấy mức độ
quan tâm của người dân tới từng chất lượng nước sông thay đổi như thế nào và
qua đó dựng được đường cầu chất lượng nước sơng.
Như vậy có thể sử dụng số liệu WTP theo nhiều mục đích tùy thuộc vào
nhà phân tích, việc phân loại WTP cho thấy cần quan tâm tới nhiều yếu tố ảnh
hưởng tới WTP (ví dụ như người dân có ý định sử dụng dịng sơng vào mục đích
giải trí hay khơng sẽ tác động tới mức WTP hộ trả lời).
1.4. Xử lý kỹ thuật cho tính tốn.
1.4.1. Cơ sở tốn học xây dựng mơ hình xác định phí
a. Mơ hình đường cầu
Mơ hình đường cầu được xây dựng như sau: Pi = a + b Qi
Trong đó Pi : số tiền mà hộ gia đình sẵn sàng chi trả cho từng tình huống
tương ứng với mỗi giai đoạn cải tạo ( WTP ).
Qi : số lượng đơn vị hàng hố cơng cộng được tiêu thụ (số hộ sẵn sàng chi
trả mức Pi tương ứng).
a và b : các tham số cần xác định.
Để thoả mãn hàm cầu cần giả định tương quan là tuyến tính và P >= 0;
a > 0; b < 0.


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

18
Các tham số xác định theo công thức:

a 





PQ
Q

b  P  aQ

2

b. Phạm vi sai số cho phép
F = t x M
M=

2
n
(1  )
n 1
N

Trong đó:  là phương sai của mẫu, t =1 với xác suất 0,6835



 2  P2  P

2

1.4.2. Giá trị tương lai (FV) của khoản tiền phát sinh đều đặn hàng năm
* Hệ số chiết khấu của dự án: được sử dụng trong phân tích kinh tế của dự

án. Hệ số chiết khấu càng lớn thì thời gian chiết khấu của dự án sẽ càng nhỏ bởi
nó làm giảm giá trị hiện tại ròng của dự án.
Chiết khấu là một cơ chế mà nhờ đó ta có thể so sánh chi phí và lợi ích ở
các thời điểm khác nhau trên trục thời gian. Trong sử dụng chiết khấu cần đảm
bảo hai điều kiện sau:
Một số biến số đưa vào tính chiết khấu (chi phí lợi ích) phải được đưa
về cùng một đơn vị giá trị.
Giá trị một đơn vị chi phí hoặc lợi ích hiện tại lớn hơn một đơn vị lợi ích
hoặc chi phí trong tương lai.
* Giá trị tương lai (FV) của khoản tiền phát sinh đều đặn hàng năm
Giả sử các khoản tiền phát sinh vào đầu n thời đoạn của thời kỳ phân tích
là một số khơng đổi A thì tổng của chúng theo mặt bằng thời gian tương lai
(cuối thời kỳ phân tích) theo công thức sau:
FV = A1*(1+r)n + A2*(1+r)n-1 + … + An*(1+r)1
= A* (1+r)n – 1


19

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

r
1.4.3. Phần mềm xử lý số liệu
Các tham số của phương trình đường cầu cũng như các phương trình hồi
quy khác được thiết lập bằng việc sử dụng phần mềm SPSS.
Phạm vi sai số cho phép được tính trên phần mềm excel.


20


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

CHƯƠNG II
HIỆN TRẠNG Ơ NHIỄM NƯỚC VÀ DỰ ÁN CẢI TẠO HỆ
THỐNG THOÁT NƯỚC
2.1. Hiện trạng ơ nhiễm nước ở hà nội
2.1.1.Tình trạng ơ nhiễm môi trường nước Hà Nội
Thành phố Hà Nội nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, cách biển Đông
khoảng 100 km. Địa hình thành phố Hà Nội tương đối bằng phẳng, độ dốc tự
nhiên nhỏ ( 0,003%) và dốc theo hướng Đơng Bắc - Tây Nam. Khu vực phía
Bắc và Tây Bắc có độ cao trên 7m. Khu vực trung tâm thành phố có độ cao
trung bình từ 6m đến 7m, khu vực phía Nam thành phố là vùng trũng có độ cao
từ 4,5m đến 5m và đây là khu vực thường xuyên xảy ra ngập úng khi có mưa
lớn kéo dài, vùng cao nhất có cốt là +10m. Do địa hình tương đối bằng phẳng
nên gây khó khăn cho việc thốt nước.
Hà Nội có 4 sơng thốt nước chính là : sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét,
sông Kim Ngưu với chiều dài là 38,9 km và các mương đất có tổng chiều dài là
38 km, 18 hồ với tổng diện tích là 660 ha, lớn nhất là Hồ Tây có diện tích là 516
ha.
Hệ thống thốt nước Hà Nội là hệ thống cống chung với tổng chiều dài
đường cống thoát nước là 170km trên tổng số 220 km đường và như vậy là có
tới hơn 50 km đường khơng có hệ thống thốt nước.
Sơng Tơ Lịch với chiều dài 14,4km, là 1 trong 4 con sơng thốt nước
chính ở Hà Nội , là sơng chính tiếp nhận nước thải sinh hoạt, công nghiệp, bệnh
viện trong địa bàn Thủ đô. Nhưng hiện nay con sông này đang bị ô nhiễm nặng.



×