Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Tình Sử Võ Tắc Thiên Lâm Ngữ Đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.34 KB, 52 trang )

TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN (Bản mới)
Tác giả: Lâm Ngữ Đường ~ Dịch giả: Mộng Bình Sơn

Võ Tắc Thiên

Lâm Ngữ Đường

&

Tác Phẩm

Mục lục tác phẩm
1. LỜI NÓI ĐẦU
2. Vua Đường Thái Tông trong lúc lâm chung
3. Bước đầu chinh phục quân vương
4. Một chiến sĩ ái tình ra trận
5. Những bất bình sơ khởi trong triều đình
6. Sự hình thành quyền uy của Võ Tắc Thiên
7. Kế hoạch của Võ Hậu củng cố triều đình
8. Kế hoạch tằm ăn lá dâu của của Võ Hậu
9. Khi một ông vua không làm vua
10. Những chấm đen trên ngày tàn ngôi báu
11. Những mâu thuẫn dẫn tới sự xáo trộn ngôi kế vị
12. Những cuộc phản ứng trong dân gian
13. Lấy bạo lực chế ngự sức mạnh
14. Hành động mê hoặc của giáo sư Hoài Nghĩa
15. Những trận bão về chính trị
16. Những hiện tượng ác lai ác báo
17. Sức phản ứng của hậu quả áp bức
18. Những bước giác ngộ của con đường tội lỗi
19. Ngày tàn ngôi báu


20. Nhà Đường phục hưng
21. Những ngày cuối cuộc đời tình ái
1. LỜI NÓI ĐẦU
TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN là một tác phẩm của Lâm Ngữ Đường, người đồng thời với lịch sử diễn biến của
Trung Hoa thời Đường Cao Tôn.
Đây là một bộ truyện ký, tác giả ghi lại bằng tay nghe, mắt thấy, vì Thân phụ của Lâm Ngữ Đường lúc đó làm vua
Cao Tôn, bị bộ hạ của Võ Tắc Thiên đày ra khỏi Kinh đô, phải đưa gia đình đi trấn nhậm phương xa, và bị tù đày
tra tấn.
Khác với các bộ truyện Tàu khác, mà chúng ta thường đọc, trình bày những trận chiến giữa nước này và nước
khác, TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN viết theo lối ký sự, ghi lại diễn biến muốn trận chiến trong thâm cung bằng ái
tình, làm điêu đúng giang sơn nhà Đường lúc đó.
Đọc TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN chúng ta thấy những quyến rũ của đam mê dục vọng, những âm mưu tranh đoạt
uy quyền để hưởng thụ, làm cho xã hội biến loạn vì chối bỏ đạo nghĩa làm người.
Đọc TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN chúng ta góp nhặt được những bài họa về tâm lý xã hội, tác dụng của uy quyền
và sức mạnh của lòng người khi đứng trước một cuộc sống thiếu nhân tính.
Chúng tôi khảo dịch tập sách này của tác giả Lâm Ngữ Đường là muốn giữ lại một nguyên tắc di lưu tự ngàn xưa,
không bị thời gian làm lu mờ những nét ký sự trong cuốn truyện mà tác giả là nhân vật đương thời.
1


Cũng có những chỗ không phù hợp với các truyện khác, nhưng đó là việc tất yếu của những tác phẩm đã trải qua
chiều dày của thời gian không thể tránh khỏi.
Chúng tôi có tham gia lời bình xét sau mỗi chương, mục đích là để góp vui với bạn đọc.
Dù sao đây cũng là một bộ sách có giá trị về lịch sử.
MỘNG BÌNH SƠN
2. Vua Đường Thái Tông trong lúc lâm chung
Nơi rặng núi Thái Bạch, cách kinh đô nhà Đường một thung lũng xinh tươi, cỏ cây xanh tốt, một dòng suối uốn
quanh, thấp thoáng một cung điện không lấy gì nguy nga lộng lẫy, nhưng ẩn chứa một kỳ quan của những ai có
tâm hồn thơ mộng trong chốn thanh u.
Đây là nơi nghỉ ngơi của vua Đường Thái Tôn vào mùa hè, nhưng nay thì nơi đó đã trở thành cung điện dưỡng lão

của nhà vua trong lúc sắp lâm chung.
Cung điện rất đơn sơ, giản dị như những ngôi nhà nghỉ mát, được dựng lên với những vật liệu bằng gỗ lấy từ một
tòa điện cổ của các tiênvương để lại.
Là một ông vua dựng lên sự nghiệp nhà Đường, nhưng nhà vua bản tính rất đơn sơ, không đam mê những ngôi
đền nguy nga tráng lệ nhất là trong lúc cuối đời lại càng tỏ ra một con người có tâm hồn hòa nhịp với mọi thú vui
trong cảnh vật thiên nhiên.
Khi thắng được nhà Tùy, ông sửa sang lại cung điện cũ để ở, không vì quyền uy mà tham lam hưởng thụ. Ông biết
rằng dân chúng đã lầm than trong bao nhiêu năm chinh chiến, rất nghèo khổ, nếu xây dựng cung điện mới sẽ tốn
phí rất nhiều của cải và sức lao động nhân dân. Vì vậy, ông chỉ xây một ngọn tháp ở trong cung để tưởng niệm hai
mươi bốn vị hiệp sĩ đã từng giúp ông chiến đấu trong gian khổ để khôi phục giang sơn và đem lại hòa bình cho bờ
cõi.
Ông mắc bệnh kiết lỵ kinh niên, đã chữa trị rất nhiều, nhưng chỉ thuyên giảm chứ không thể dứt hẳn. Bởi vậy, sức
khỏe ông càng ngày càng sút kém, thân hình hốc hác, tiều tụy.
Khác với trước kia, ông là một kiện tướng có tinh thần chiến đấu rất cao, một nhà lãnh đạo thiên tài, lại nổi tiếng là
một ông vua đầy lòng nhân ái, không tự cao, tự phụ. Ông thường thẳng thắn phê bình thuộc hạ cũng như nghe
thuộc hạ phê bình bản thân mình để hối cải. Bên cạnh ông là những hiền thần có nghĩa khí và biết trọng danh dự.
Vua tôi nhà Đường đã từng xông tên đụt pháo, chinh phục nước Cao Ly và các quốc gia ở phía Bắc, mở rộng bờ
cõi ở phía Tây, xây dựng một quốc gia đại Đường giàu mạnh thời bấy giờ.
Triệu Quốc Công Trương Tôn Vô Kỵ là một trong những cột trụ của triều đình. Ông luôn luôn ở gần vua. Ông
không những là em ruột của bà Hoàng hậu nhân từ đã qua đời mà còn là một hiệp sĩ trong hai mươi bốn vị được
thờ tại bảo tháp trong cung. Thực ra, ông vừa là một chiến lược gia, vừa là cố vấn thân tín của nhà vua.
Khi được năm mươi hai tuổi, nhà vua cảm thấy mình đã kiệt sức, không còn sống được bao lâu nữa, nên rời cung
điện, đến ẩn trú nơi dãy núi Thái Bạch ổn định tinh thần trước lúc lâm chung.
Một hôm Đường Thái Tôn gọi Vô Kỵ đến hỏi:
- Ta có vài điều quan trọng muốn bàn với khanh.
Các thị vệ hiểu ý vua muốn tỏ bày chuyện cơ mật nên lui ra ngoài hết.
Vua nói:
- Ta biết không còn sống được bao lâu nữa. Ta vẫn thường ấp ủ mấy điều…
Vô Kỵ tâu:
- Tâu chúa công, hôm nay Thánh thể bất an, nhưng mai mốt thì sẽ bình ổn.

Vua nói:
- Không đâu! Ta biết ta sắp chết, nhưng khi ta chết phải chôn ta cùng với Ái Hậu của ta. Điều ta quan tâm hơn hết
là khanh phải tạc tượng tám con chiến mã của ta bằng đá và đặt chúng nó ở lối vào gần lăng. Chắc khanh đã biết
chúng nó là những con gì rồi.
Vô Kỵ thoáng thấy vẻ tươi cười trên mặt vua, nên nói:
- Hạ thần xin sẽ tuân hành Thánh ý.
Vua nói:
- Đôi khi ta cảm thấy chúng thương ta và hiểu ta hơn những người xung quanh. Trong những ngày sắp tới Hoàng
nhi là Cao Tôn sẽ cần đến khanh rất nhiều. Nó là một con người nhân từ, nhưng tình cảm yếu đuối và còn trẻ quá.
Ta rất hài lòng là vợ nó cũng thuộc dòng Tôn thất, lại rất nết na, khiêm hòa và đoan chính. Ta không cần người
đàn bà thông minh, sắc sảo. Một ông vua đã có rất nhiều chuyện bên ngoài để đốùi phó thì trong nhà cần phải cho
yên tĩnh. Ta chết đi mà lòng vẫn không yên chỉ vì Hoàng nhi còn trẻ quá, khanh hãy ráng lo cho nó. Khanh hãy lại
gần đây.
Vô Kỵ bướùc lại gần long sàn, Vua thì thầm:
2


- Lý Thuần Phong đã nhắc nhở ta mà trước kia ta không tin nhưng trong hai tháng gần đây ta đã để ý mọi chuyện.
Võ Mỵ Nương làm cho ta lo quá. Nàng đã hầu ta rất tận tâm, luôn luôn tỏ ra lanh lợi, mau mắn và chu đáo, nhưng
sau lưng ta đang có nhiều chuyện xảy ra. Gần đây ta bắt gặp ánh mắt khác lạ của Hoàng nhi với nàng, thì thấy lời
nói của Lý Thuần Phong không phải là vô cớ. Khanh còn nhớ con ngựa dỡ chứng có bờm nâu không? Không ai có
thể cỡi được nó, vậy mà tối hôm nọ Mỵ Nương nói với ta nàng có cách cỡi được. Ta hỏi cách nào thì nàng trả lời:
“Bệ hạ hãy cho thiếp một cây roi sắt, một cái búa và một con dao nhọn. Nếu thiếp dùng roi đánh nó không được
thì thiếp sẽ dùng búa đập vào đầu nó. Nếu nó vẫn không tuân thì thiếp dùng dao thọc vào cổ nó”. Không hiểu nàng
nói như vậy là đùa hay thật. Nhưng một nguời đàn bà trẻ tuổi mà có thể thốt ra những câu nói như vậy thì thật
đáng sợ. Đó không phải là cách làm cho thuần ngựa. Vậy mà vẻ mặt nàng vẫn thản nhiên như việc đó có thể làm
dễ dàng vậy.
Vô Kỵ hỏi một cách thận trọng:
- Tâu Chúa Công! Giữa hai người có tình ý với nhau không?
Vua nói:

- Rất có thể.
Vô Kỵ nói:
- Muốn đưa nàng ra khỏi hoàng cung thì cũng chẳng khó gì, chỉ cần đuổi nàng về quê mà không cần nói lý do, hay
gởi nàng vào chùa là xong. Theo lệ, các cung phi mỹ nữ hầu hạ vua không được thành thân với một người đàn ông
nào khác. Nhưng nhiều người đã đi lấy chồng sau khi vua chết, trừ trường hợp có lời thề.
Sau một phút đắn đo, vua Thái Tôn nói:
- Ta không đành tâm giết Mỵ Nương như Lý Thuần Phong đã khuyên vì Lý Thuần Phong là người chỉ biết rõ
huyền cơ của tạo hóa mà không hiểu rõ tình cảm trong lòng người. Vậy hãy gọi Mỵ Nương vào đây cho ta thử
lòng xem sao.
(Nguyêân trước khi được tuyển vào cung, Võ Tắc Thiên tên là Mỵ Nuơng, sau đổi là Võ Minh Không).
Trong khi chờ người đi gọi Mỵ Nương, Thái Tôn hỏi:
- Lý Tích đã đi trấn nhiệm miền Bắc hay chưa?
Vô Kỵ nói:
- Tâu chúa công, ông ta đã ra đi từ mấy hôm truớc, ngay khi có chiếu chỉ.
Thái Tôn nói:
- Tốt lắm! Có lẽ Lý Tích thắc mắc tại sao ta lại phái ông ta đi như vậy, nhưng ông ta đã tuân lệnh không cần biết lý
lo. Điều đó làm cho ta rất hài lòng.
Hồi đó, Võ Hậu còn là một thị nữ trong cung, đuợc xếp vào loại Tài nhân. Nàng có phận sự hầu vua trong lúc thay
quần áo và tắm rửa. Theo triều nghi, các công nương trong nội cung của vua gồm có một Hoàng hậu, bốn cung
phi, chín cung tần, bốn mỹ nữ và năm tài nhân. Ngoài ra còn có hai mươi bảy mỹ nhân và tài nhân nữa nhưng
không được vào nội cung. Tất cả các cung nương này đều được phép nhận ân huệ của vua bằng một danh từ để chỉ
việc chăn gối và mỗi lần chăn gối đều được ghi chép vào gia phả để xác nhận con cái.
Võ Mỵ Nương lúc đó được hai mươi bốn tuổi và đã vào cung đượïc mười năm. Cha nàng đã từng theo Thái Tôn đi
chinh chiến và khi vua ghé thăm nhà nàng ở Kinh châu thì đã đặc ân tuyển nàng vào cung. Nhưng số nàng lúc đó
cũng hẩm hiu, sau mười năm trời vẫn không ngoi lên khỏi bậc thấp nhất trong đám cung nương.
Lúc này vào cuối tháng năm, tiết trời oi ả, nhưng nhờ nơi đây có núi cao, gió mát nên không đến nỗi nóng lắm.
Sáng nay, sau khi Mỵ Nuơng vào chầu vua xong thì lui về phòng mình, cửa phòng nàng trông qua khu vườn của
Thái tử ở phía đông. Bên kia khu vườn có tường bao bọc là nơi của Thái tử trú ngụ. Nàng biết rất rõ khu vườn ấy
từng gốc cây, ngọn cỏ, ngõ ngách ra vào, vì nàng đã tìm cách làm quen với Vương phi, vợ của Thái tử.
Nàng ngồi đây, giữa khung cảnh tráng lệ trong cung cấm, nàng có cảm giác cũng quyền thế như ai. Trong phòng

nàng cũng có những tỳ nữ riêng để sai bảo. Nàng đã quá quen thuộc với các nghi thức, tập tục trong cung cấm và
nàng đã tìm thấy thoải mái trong cuộc sống hàng ngày. Nàng ngồi suy nghĩ về cặp vợ chồng khờ khạo của Thái tử
và Vương phi, nàng cảm thấy họ cao quí, đa tình, hay giận dỗi nhưng cũng dễ nguôi. Thái tử thì chỉ thích môn thể
thao hoặc ngồi ngắm các cung nữ khi rảnh học. Mấy ngày gần đây, một mối hy vọng nẩy sanh trong lòng nàng.
Nàng đã mạo hiểm liếc mắt hoặc mỉm cười với Thái Tử và nàng còn tìm cách đụng chạm vào người Thái tử để dò
la ý thích của chàng. Thế rồi Thái tử đến với nàng thật là dễ dàng và Vương phi không chút nghi ngờ.
Nhưng nàng vẫn lo lắng. Vua sắp băng hà và nàng sẽ ra sao nàng đang miên man suy nghĩ thì đứa thị tỳ đã đến nói
với nàng:
- Có lệnh vua gọi hầu.
Nàng vội vã chạy xuống bếp cắt một miếng hành, lấy nước quẹt vào mắt làm cho đôi mắt ướt đẫm như đang khóc
rồi mới chải lại tóc và đến yết kiến vua.
Khi bước vào phòng, nàng không ngẩng đầu lên vẫn nhận ra có sự hiện diện của Vô Kỵ. Nàng tâu:
- Bệ hạ cho gọi thần thiếp?
Thấy nàng vào, nhà vua và Vô Kỵ ngưng câu chuyện đang nói, Vô Kỵ đứng dậy, trong lúc vua Thái Tôn phán:
- Nàng hãy bước lại gần trẫm.
Giọng nói nhà vua có vẻ yếu đuối và mệt nhọc, nhưng vẫn phảng phất vẻ uy mãnh hàng ngày.
3


Mỵ Nương buớc tới, vua nắm tay nàng có vẻ quan thiết lắm.
- Ái khanh đã khóc?
Mỵ Nương tâu:
- Thật vậy! Tâu Bệ hạ.
Tuy nàng trả lời nhưng đầu vẫn cúi xuống.
Như chợt nhớ ra điều gì, vua buông tay nàng ra, nói:
- Giờ đây ái khanh có thấy khỏe hơn chăng? Ái khanh có muốn trẫm làm điều gì không?
Vua nhìn vào mặt nàng rồi chậm rãi nói tiếp:
- Mỵ Nương! Khanh đã chăm sóc trẫm trong suốt mấy năm. Giờ đây số trẫm sắp dứt. Sau khi trẫm chết, khanh
định làm gì? Khanh có muốn về quê không?
Mỵ nương linh cảm có điều không ổn. Nàng nhìn thấy Vô Kỵ lại đang chăm chú nhìn nàng thì biết vua và Vô Kỵ

đang tìm hiểu nàng, nên nàng trả lời thật nhanh:
- Muôn tâu Bệ hạ! Bấy lâu Bệ hạ đã ra ơn cho thần thiếp được kề cận sớm hôm. Giờ đây Bệ hạ an bài thế nào thì
thần thiếp xin chịu, chỉ xin Bệ hạ một điều là đừng bắt thần thiếp phải về quê. Nếu bệ hạ cho phép, thần thiếp xin
được chết theo để có thể tiếp tục phục dịch cho Bệ hạ. Thần thiếp không muốn sống nữa.
Vua Thái Tôn nói:
- Khanh không được làm như vậy. Ta rất ghét cách hy sinh đó.
Mỵ Nương cố kìm chế xúc động và nói như nũng nịu:
- Một khi thiếp đã đem thân gởi nơi họ Lý, thì thiếp đã thành đàn bà họ Lý, không gì có thể làm thay đổi được điều
đó. Vậy thì thiếp có thể làm gì hơn là hy sinh?
Trong phòng chợt im lặng. Vua và Vô Kỵ đều đưa mắt nhìn về phía Mỵ Nương.
Vô Kỵ nói:
- Tâm nguyện của công nương rất đáng tôn trọng, nhưng công nương nên tiếp tục sống và gởi thân vào chốn tu
hành để có thể cầu nguyện cho linh hồn chúa công.
Mọi việc đã rõ ràng. Mỵ Nương đã hiểu hết ý định của vua tôi trò chuyện với nhau. Nàng tự nhủ: “Thì ra là vậy”.
Nàng nói:
- Thiếp xin đội ơn Bệ hạ. Nếu Bệ hạ muốn vậy thiếp xin cắt tóc đi tu và sống với chuỗi ngày còn lại để cầu nguyện
cho Bệ hạ.
Vua nói:
- Trẫm chắc rằng ái khanh sẽ được thảnh thơi tại chùa Hưng Long. Mấy nương tử kia có lẽ cũng muốn theo ái
khanh. Vậy ái khanh nên đến đó mà ở.
Mỵ nương lui ra, vua nhìn theo thở dài, nhưng cảm thấy nhẹ nhõm:
- Thế là bớt được mối lo. Nhưng ta đoán trước nàng đóng kịch rất khéo, khanh có nghĩ vậy không?
Vô Kỵ tâu:
- Tâu chúa công! Quả là nàng đóng kịch rất khéo.
Vua Thái Tôn nói:
- Ta nghĩ rằng ta đã làm một việc hợp lý. Hoàng nhi là một đứa con ngoan, biết vâng lời, nhưng lại không đủ
cương nghị để gánh vác giang san. Theo lời khuyên của khanh, ta đã bỏ hai đứa lớn để lập nó làm Đông cung Thái
tử. Vậy khanh có bổn phận dẫn dắt và che chở cho nó. Hãy gọi Chữ Toại Lương đến đây, ta muốn phó thác Thái
tử cho hai khanh.
Vô Kỵ tâu:

- Hạ thần sẽ sai gọi ngay. Chắc trưa nay Toại Lương sẽ đến.
Nói xong, Vô Kỵ bước ra cửa, truyền lệnh cho thị vệ, rồi lại trở vào hầu hạ bên vua.
Vua phán:
- Trong khi chờ đợi, khanh kêu Hoàng nhi vào đây cho ta. Ta có vài điều muốn nói với nó.
Vô Kỵ nói:
- Tâu chúa công, chắc chúa công đã mệt, xin hãy nghỉ ngơi đôi chút.
Vua Thái Tôn nói:
- Không sao đâu. Ta muốn nói chuyện với nó một đôi lời để khỏi bận tâm. Khanh hãy để cho ta nói khi ta còn có
thể nói được.
Chẳng bao lâu, Thái tử bước vào đứng hầu.
Thái tử là một thanh niên hai mươi mốt tuổi, tính tình vui vẻ, không thông minh lắm, nhưng cũng như vua cha, ít
khi được dồi dào sức lực.
Việc chọn lựa ngươiø kế nghiệp đã làm cho vua cha bận tâm lo lắng không ít. Vua Thái Tôn có tất cả mươí bốn
người con trai, trong số đó có ba ngươiø do Hoàng hậu sinh ra, được dự tuyển làm Thái tử. Mới đầu người con lớn
nhất là Kiên được chọn làm Thái tử, nhưng về sau Kiên có nhiều hành vi phóng túng, nên vua muốn chọn ngươiø
con thứ hai tên là Thái. Người này mẫu mực cả về mặt tính tình lẫn về trí năng. Trông Thái rất giống vua cha. Tuy
chưa phế người con trưởng nhưng vua thường đem Thái về Đông cung để rèn luyện. Ai cũng cho rằng chẳng bao
lâu Thái sẽ chiếm ngôi vị của người anh, nên giữa hai anh em vì thế mà bất hòa, xung đột lẫn nhau. Kiên nghe lời
4


dèm pha, mưu toan giết Thái, nhưng không thành. Vua Thái Tôn biết được nổi giận cầm gươm dọa sẽ tự tử nếu
cảnh đó còn tái diễn.
Về sau, theo lời khuyên của Vô Kỵ và một vài tôi thần khác, vua chọn Cao Tôn làm Thái tử. Mọi ngươì đều đồng
ý rằng nếu một trong hai người kia mà lên ngôi thì người còn lại sẽ bị giết.
Để tránh thảm cảnh đó, vua đã hạ chiếu phong Cao Tôn làm Thái tử. Trong chiếu chỉ, vua nhấn mạnh rằng nếu bất
cứ ai còn dị nghị sẽ bị bêu đầu.
Đó là chuyện sáu bảy năm về trước.
Còn lúc này Cao Tôn Thái tử được lệnh đòi bước vào phòng vẻ mặt lo lắng như thường lệ, vẫn đứng thật nghiêm
để nghe lời cha dạy:

- Hoàng nhi! Cha cho gọi con vào đây vì cha biết cha không qua khỏi lần này. Bấy lâu nay cha đã chăm lo cho dân
và đem lại cho họ một cuộc sống thanh bình. Bây giờ đến lượt con phải gánh vác xã tắc. Con đừng lo sợ, vì cậu
của con đây và nhiều người khác sẽ giúp con, nếu con biết nhún mình, con sẽ có cơ hội học hỏi được rất nhiều.
Chính cha đây cũng có vài lời muốn khuyên con vậy con có muốn nghe không?
Thái tử tâu:
- Thưa phụ vương, việc tuy khó nhưng con rất muốn học.
Thái Tôn nói:
- Vậy thì tốt lắm! Cha có mấy lời vắn tắt nhưng con phải luôn luôn ghi nhớ, nhất là khi con gặp khó khăn. Một ông
vua thường hay mù quáng làm theo ý riêng mình. Điều khó khăn nhất là phải nghe lời can gián của các trung thần.
Mẹ của con đã dạy cha điều đó. Điều quan trọng là con phải nghe lời cậu con, người đã cùng cha tạo dựng sự
nghiệp ngày nay. Điều thứ nhì, con phải nhớ rằng quyền hành là một thứ đáng sợ, con phải biết đối xử nhân từ với
nhân dân. Ngôi vua chỉ là một trách nhiệm, một sự phó thác của thượng đế. Chắc con còn nhớ triều đại trước, vì
vua Tùy không được lòng dân mà phải mất ngôi. Mẹ con đã dặn cha đừng xây lăng cho người lớn quá, vì người
không muốn dân nghèo phải lầm than thêm nữa. Cũng vì lời khuyên đó mà cha đây cũng hạn chế xây thêm đền
đài, cung điện. Mẹ con đã thông cảm được nỗi đau khổ của muôn dân trong mấy chục năm khói lửa. Con đừng bao
giờ quên tấm lòng cao cả của mẹ con. Con không cần phải dựng nhiều chiến lũy, chính lòng dân là chiến lũy kiên
cố nhất của con. Ngày xưa, chính cũng nhờ sức mạnh của lòng người mà đạo quân của cha trở nên vô địch. Chìa
khóa trong việc trị vì là ở chỗ đó. Chắc con đã hiểu.
Thái tử tâu:
- Con xin đội ơn phụ vương đã phán dạy.
Vua Thái Tôn nói:
- Còn một việc nữa. Lý Tích là một tướng tài, nhưng bướng bỉnh và thật thà quá. Trước kia ông ta vì cha mà xông
pha lửa đạn. Gần đây cha có ý cử đi trấn nhậm ngoài biên ải, để thử lòng trung thành. Khi con lên ngôi, con có thể
yên trí triệu hồi về. Lúc đó chắc ông ta sẽ coi con không khác gì cha thuở trước.
Thái tử tâu:
- Thì ra phụ vương có ý đó mà mọi người đều thắc mắc, không biết họ Lý có lỗi gì.
Trong số các tướng nơi trận mạc thuở trước, nhiều người đã chết, hiện thời Lý Tích là người có thế lực nhất.
Vua Thái Tôn nói tiếp:
- Một điều nữa cha muốn nói với con là vấn đề đàn bà. Con và Vương Thị vẫn vui vẻ chứ?
Thái tử tâu:

- Tâu phụ vương, chúng con rất hạnhphúc.
Thái Tôn nói:
- Vậy thì tốt lắm. Còn Triệu thị thì sao?
Thái tử tâu:
- Nàng rất khả ái. Nàng mới sinh được một trai chắc phụ vương đã biết.
Thái Tôn nói:
- Khi làm vua, con có quyền năm thê bảy thiếp, có quyền hưởng thụ. Vương thị là người hiền đức, chắc nó cũng
thông cảm cho con về vấn đề này. À, còn Vương thị và Mỵ Nương chơi thân với nhau lắm phải không?
Giọng vua bỗng trở nên nghiêm khắc và ngừng nói chờ phản ứng của con.
Thái tử có vẻ ngượng ngập khi nghe nhắc tới Mỵ Nương, rồi ấp úng trả lời:
- Dạ họ chơi với nhau thân lắm. Mỵ Nương rất tốt, luôn luôn sốt sắng…
Vua ngắt lời:
- Mỵ Nương vừa tình nguyện đi tu sau khi ta chết.
Thái tử nhìn vua không hiểu vua cha đã biết chuyệïn chưa. Vua cha tiếp lời:
- Chuyện đó không có gì quan trọng. Ta chỉ muốn bảo cho con biết vậy thôi.
Sau khi Cao Tôn Thái tử lui ra, vua Thái Tôn nói với Vô Kỵ:
- Chúng ta đã nhận xét đúng. Mỵ Nương Phải đi tu.
Chiều hôm đó, Toại Lương là Phó Thừa tướng từ Kinh đô ra đến nơi, được dẫn vào ra mắt Thái Tôn. Ông là một
lão thần nổi tiếng về tánh thẳng thắn, được vua coi như anh em kết nghĩa. Lúc ấy Cao Tôn Thái tử và Vương Phi
5


cũng được đòi vào hội kiến, vì đây là một dịp đặc biệt. Vô Kỵ và Toại Lương sẽ nhận lời ủy thác của vua. Vua biết
rằng chỉ có hai người này là có thể tin cậy được.
Vô Kỵ, Toại Lương và hai vợ chồng Thái tử đều quây quần quanh vua để chờ nghe vua phán.
Vua Thái Tôn cầm tay Toại Lương nói:
- Hai khanh đã tận trung với ta trong nhiều năm, giờ đây ta có việc phải gởi gắm hai khanh. Hoàng nhi là một đứa
con ngoan của ta, vợ nó do chính ta chọn lựa. Ta gởi hai vợ chồng nó lại cho hai khanh. Hai khanh hãy ráng che
chở và hướng dẫn chúng làm sao cho rạng rỡ cơ nghiệp nhà Đường. Ta cho phép hai khanh được trọn quyền hành
động.

Nói đến đây, nhà vua quay lại bảo Thái tử và Vương phi quỳ một chân trước mặt hai vị đại thần để nhìn nhận hai
vị đại thần nhận chức phận mới của họ.
Vua nói:
- Các con sẽ không phải lo lắng điều gì một khi Toại Lương và Vô Kỵ còn ở bên cạnh.
Sau đó, Vua bảo Toại Lương chép lời di chiếu, rồi dặn thêm:
- Vô Kỵ là cánh tay mặt của ta hồi còn chinh chiến, đã dày công giúp ta lên ngôi báu. Khanh phải hứa với ta là
khanh sẽ không để cho con ta bị lôi cuốn vào vòng thị phi hay bị hại vì lý do chính trị. Nếu khanh không làm được
như vậy thì phụ lòng ta đó.
Toại Lương nghiêm trang hứa tuân lời. Vua cảm thấy yên lòng, nhưng có biết đâu về sau Toại Lương đã không
làm tròn lời hứa chỉ vì thua trí một người đàn bà.
LỜI BÀN
Vua Đường Thái Tôn là một vì vua oanh liệt, cầm quân ra trận, gồm thâu giang san, lập nên đại nghiệp, nhưng
trước khi chết đã thấy được vận mệnh của đất nước, tìm cách gởi con cho đại thần và ngăn chặn những hậu quả
manh nha xảy đến.
Hậu quả của vua Đường Cao Tôn sau này không phải xảy ra bằng giáo gươm ở trận mạc, mà là tình ái ở ngay
trong cung. Võ Tắc Thiên đã bắt đầu manh nha đem tình ái khống chế quyền uy, mê hoặc triều đình, tạo thành một
sức mạnh khuynh thành đổ nước.
Điều đó vua Thái Tôn lúc lâm chung đã thấy rõ, nhưng tình ái diễn biến phức tạp hơn giáo gươm ngoài chiến địa,
chính vì vậy mà dù vua Thái Tôn có ngăn ngừa trước vẫn không đối phó nổi với mọi diễn biến phức tạp trong ái
tình.
3. Bước đầu chinh phục quân vương
Vua Thái Tôn băng hà vào ngày hai mươi sáu tháng năm. Tin này được giữ kín cho đến khi các biện pháp an toàn
được thực hiện triệt để.
Cao Tôn Thái tử được hộ giá về triều. Bốn ngàn ngự lâm quân được trải dài theo dọc đường để đưa linh cữu Thái
Tôn về Kinh đô.
Ba ngày sau, linh cữu mới đem về đặt ở điện Thái Ất. Mọi việc đều êm xuôi. Ngày mồng một tháng sáu vua Cao
Tôn làm lễ đăng quang. Mãi cho đến tháng tám thi hài của vua Thái Tôn mới được an táng.
Mấy ngày sau khi vua Thái Tôn mất, hơn mười công nương đã từng hầu hạ vua Thái Tôn mới được đưa đến chùa
Hương Long để làm lễ xuống tóc. Nàng Võ Mỵ Nương cũng ở trong số ấy.
Suốt ngày đêm cầu siêu cho vua Thái Tôn, Mỵ Nương được cử hầu hạ vua Cao Tôn. Căn phòng làm lễ cầu siêu

chỉ lờ mờ ánh đèn sáp, mùi hương trầm tỏa ra thơm nức.
Thế là hai người có nhiều dịp tâm sự riêng với nhau. Mỵ Nương giúp đỡ vua và Hoàng hậu rất chân tình.
Vua Cao Tôn đã lợi dụng những lúc chỉ có riêng hai người trong phòng để nói chuyện với Mỵ Nương.
Vua nói:
- Thế là nàng sắp lìa bỏ ta.
Mỵ Nương buồn bã nói:
- Thiếp đâu muốn xa cách Bệ hạ, nhưng hoàn cảnh biết làm sao bây giờ. Bệ hạ và thiếp sẽ phải mỗi người một
ngả. Thiếp chẳng hy vọng gì còn đặt chân vào cung điện nữa, nhưng lòng thiếp vẫn gắn liền với thâm cung suốt
đời.
Vua Cao Tôn hỏi:
- Thật lòng nàng không muốn xa ta chứ?
Mỵ Nương than:
- Bệ hạ không tin thiếp sao. Thiếp vẫn ước ao tình thế không đến nỗi éo le thế này để thiếp có thể hầu hạ Bệ hạ.
Nhưng đó chỉ là ước mơ hão huyền. Thiếp chỉ còn muốn mong sao Bệ hạ đừng quên thiếp là thiếp toại nguyện rồi.
Vua Cao Tôn nói:
- Ta quên nàng làm sao được? Điều đó không thể có đâu.
Mỵ Nương nói:
- Thiếp biết Bệ hạ không nỡ quên thiếp, còn đời thiếp trọn đời kể như đã hết.
Vua Cao Tôn nói:
6


- Nàng đừng nói vậy. Nàng còn trẻ lắm…
Mỵ Nương nói:
- Đã vào đến đây thì trẻ hay không cũng thế thôi.
Vua Cao Tôn nói:
- Tình cảm nàng tuyệt vọng như thế sao?
Mỵ Nương im lặng nhìn vua trong giây lát rồi nói:
- Dù Bệ hạ là đấng Thiên tử, Bệ hạ cũng không thể làm gì hơn. Thiếp chỉ mong Bệ hạ tưởng nhớ thỉnh thoảng đến
thăm để cho thiếp được thấy mặt mà thôi.

Vua Cao Tôn nói:
- Thôi được! Trẫm hứa thỉnh thoảng sẽ đến.
Đó là lần cuối cùng hai người gặp riêng nhau. Mấy ngày kế tiếp vua Cao Tôn bận rộn lo việc triều chính, xung
quanh vua lúc nào cũng đầy những triều thần nội thị.
Mị Nương đã bắt đầu tỏ ra là một người nhiều thủ đoạn, nếu là một người khác vua gởi vào chùa thì chỉ biết tu
hành và thủ phận, nhưng Mỵ Nương đã hành động. Chính điểm khác thường ấy đã đưa nàng tới chỗ thao túng
thiên hạ sau này. Nàng biết rằng muốn thành công phải có một người giúp đỡ và phải duy trì liên lạc với nội cung.
Vì vậy, trước khi rời cung, nàng thu góp đồ đạc rồi đem những món trang sức quí báu phân phát cho đám thị tỳ.
Riêng Lan Anh người tỳ nữ riêng của nàng, nàng đã tặng một chiếc nhẫn hồng ngọc rất lớn, một chiếc áo lông
chồn và ba rương đầy lụa là, gấm vóc. Đặc biệt nàng còn đem tặng Vương Phi một chiếc nhẫn ngọc bích rất quí.
Nàng nói với Vương Phi:
- Xin tặng phu nhân chiếc nhẫn này để tò lòng kính mến của tôi đối với phu nhân và để đánh dấu những ngày tôi
được sống vui vẻ bên phu nhân.
Vương Phi dò hỏi:
- Công nương có tặng Triệu Phi vật gì không?
Mỵ Nương nói:
- Tôi không tặng gì hết. Tôi chỉ mến có một mình phu nhân thôi.
Vương Phi hỏi:
- Chúng ta không gặp lại sao?
Mỵ Nương nói:
- Nếu muốn, phu nhân ghé lại chùa Hưng Long, còn tôi thì không thể về cung để thăm phu nhân được. Tôi rất
mong được phu nhân tới viếng.
Nói xong, nàng đưa tay chỉ con tỳ nữ Lan Anh và tiếp:
- Lan Anh là đứa hầu tận tâm nhất của tôi, xin phu nhân thu dụng nó để sai khiến. Nó có thể tin cậy được. Nếu phu
nhân cần một người tâm phúc thì nó rất xứng đáng.
Những ngày kế tiếp, Lan Anh thường lui tới nơi chùa tìm gặp Mỵ Nương, ngoài những lời thăm hỏi thì Lan Anh
còn đưa những tin tức trong cung và những quà biếu của Vương Phi gởi đến.
Qua sự trung gian của Lan Anh, Mỵ Nương biết được Vương Phi hiện nay đã là Hoàng hậu và đang gặp việc rắc
rối vì Hoàng hậu không có con trai, nên theo lời khuyên của các vị lão thần, nàng đem Lý Trung, con của một
cung tần về nuôi lập làm Thái Tử. Trong khi đó vua Cao Tôn tối ngày miệt mài bên Tây cung ham mê dâm dục

với Triệu Phi. Vua đã mê đắm người đàn bà lẳng lơ đó nhưng khôn ngoan và rất khéo léo. Nàng biết chiều chuộng,
dám làm những việc mà một người đàn bà nết na không dám làm, hoặc nghĩ đến. Hoàng hậu quả không phải là đối
thủ của Triệu Phi khi muốn làm cho vua Cao Tôn yêu mến.
Thế là vua Cao Tôn bắt đầu nghe hai người than phiền nhau, vua được nếm mùi sống với hai người đàn bà ganh
tỵ, hằn học với nhau trong đống lửa tình. Vua phải tìm cách dàn xếp cho ổn thỏa. Nhưng qua cử chỉ của vua Cao
Tôn, Vương hậu thấy rõ vua càng ngày càng lạnh nhạt với mình.
Nhân ngày cầu nguyện vua Thái Tôn, buổi lễ được tổ chức long trọng tại chùa Hưng Long, Vương hậu mời vua đi
dự lễ. Vua rất hân hoan nhận lời. Hai người đem tỳ nữ Lan Anh theo, và trong suốt quãng đường từ cung điện ra
đến chùa hai người không nói với nhau một lời nào.
Cuộc thăm viếng của vua được dự báo trước nên các ni cô trong chùa đều xôn xao, họ mặc đồng phục màu nâu
thẫm và xếp hàng nơi đại điện để chờ đón đoàn người trong hoàng gia. Bộ quần áo tu hành vẫn không che được
nét trẻ đẹp và quyến rũ của một số ni cô. Vua Cao Tôn biết mặt nhiều người từ lúc họ ở trong cung, nhưng nơi đây
có cái gì khác lạ.
Khi họ quì xuống để tiếp đón, vua truyền tất cả đều đứng dậy để nhớ lại từng khuôn mặt của mỗi người.
Lan Anh chạy đến tiếp chuyện với Mỵ Nương. Sau đó Hoàng hậu và vua Cao Tôn cũng bước đến hỏi thăm. Mỵ
Nương chào vua và Hoàng hậu mà nước mắt đầm đìa.
Trong khi vua và Hoàng hậu đi một vòng đề thăm hỏi vị nữ ni trụ trì và các người quen thì Lan Anh kéo Mỵ
Nương ra ngoài kể cho nàng nghe những dự tính của Vương hậu.
Lan Anh nói:
- Vương hậu dự tính tìm cách đưa Mỵ Nương trở về cung.
Mỵ Nương mỉm cười hỏi:
7


- Taị sao có việc lạ lùng ấy?
Lan Anh nói:
- Vương hậu muốn dùng một con rắn độc để trị một con rắn độc, tức là mượn tay Mỵ Nương để trừ khử Triệu Phi.
Mỵ Nương sẽ ăn đứt Triệu Phi, mà vua Cao Tôn Không hay biết về việc này.
Sau lễ dâng hương và cầu siêu, vua và Hoàng hậu được mời dự bữa cơm chay. Mỵ Nương được phép ngồi đồng
bàn với vua và Hoàng hậu. Trong khi ăn uống, Hoàng hậu hoạt bát khác hẳn ngày thường bà luôn luôn đưa đẩy

câu chuyện để bàn tiệc được vui vẻ. Trái lại, Mỵ Nương thì ít nói, vì sau khi được Lan Anh đưa tin, nàng mãi suy
tính kế hoạch mai sau, tâm hồn nàng như để đâu đâu, nàng chỉ dâng bánh cho vua có một lần để rồi ánh mắt hai
người thoáng gặp nhau.
Trước khi trở về cung, Hoàng hậu nói nhỏ với Mỵ Nương:
- Hãy chờ một vài hôm sẽ có tin vui.
Rồi trong lúc ngồi trên xe, Hoàng hậu nói với vua:
- Mỵ Nương buồn lắm, thiếp muốn tìm cách giúp nàng và thiếp cũng muốn có nàng để bầu bạn. Thiếp định đưa
nàng trở về cung.
Vua có vẻ nghi ngờ:
- Ái Hậu muốn vậy thật sao?
Vương hậu nói:
- Dĩ nhiên thiếp muốn như thế.
Vua nói:
- Vậy thì dễ lắm. Chỉ cần phái một chiếc xe đến đón nàng, nói là cần có nàng để lo việc tế tự trong cung.
Vua Cao Tôn không giấu được nỗi vui mừng. Đây chính là điều mà vua đem lòng mong ước. Vua không ngờ
chính Hoàng hậu lại làm cho điều mong ước của mình trở thành hiện thực một cách dễ dàng như vậy. Mỵ Nương
sẽ được về cung để sớm hôm hầu hạ vua.
Vua Cao Tôn nói:
- Ý kiến của Ái hậu thật tuyệt vời. Ngày mai trẫm sẽ cho người đón nàng về.
Vua cảm thấy một cái gì bất ngờ, thích thú sắp xảy ra với mình và có cảm giác sao ngày mai đến chậm chạp như
thế.
Vương hậu cảm giác được việc ấy, nên hỏi:
- Bệ hạ đang trông chờ lắm phải không?
Vua nói:
- Đúng vậy! Trẫm mừng lắm. Nhưng Ái hậu sẽ không ghen chứù?
Vương hậu Nói:
- Thiếp sẽ không ghen đâu, xin Bệ hạ đừng lo.
Tối hôm đó Vương hậu nói vớùi vua:
- Chắc Bệ hạ cho rằng thiếp ghen với Triệu Phi. Thực ra thiếp không ghen. Thiếp không phải là con người hẹp
lượng. Là vua, Bệ hạ được quyền có nhiều quí phi, nhưng thiếp muốn trong nhà phải hòa thuận yên vui. Thiếp

muốn đem Mỵ Nương về để phục vụ bệ hạ. Nàng rất kính trọng và trung thành với thiếp. Nàng và thiếp sẽ hòa
thuận để cùng nhau chăm sóc Bệ hạ. Thiếp hết chịu nổi về tánh hỗn láo và khiêu khích của Triệu Phi.
Hai ngày sau, Mỵ Nương được lén đưa về cung bằng chiếc xe của Hoàng hậu. Việc này được giữ rất bí mật, nhất
là đối với Triệu Phi. Nhưng rồi chẳng bao lâu nàng mang bầu và khi chiếc áo tu hành dù rộng thênh thang cũng
không còn che dấu được cặp mắt của bọn thị nữ nữa và câu chuyện bị tiết lộ.
Thực ra Triệu Phi đã sớm biết việc ấy, khi bỗng nhiên vua có vẻ đổi tính, thích ngự bên chánh cung hơn và ít lui
tới với Triệu Phi.
Triệu Phi đã buộc vua nói điều này và vua đã thú thật hết với nàng.
Triệu Phi không ngờ một người hay ghen tức và xấu mồm như Vương Phi Hoàng hậu lại có bản lãnh sắp xếp như
vậy.
Nàng nghĩ thầm:
- Chuyện này chắc chắn sẽ đồn đại ra ngoài và mọi người xem đó là một vụ loạn luân.
Thấy được vua say mê, Mỵ Nương lại càng quyết tâm đem hết mánh khóe quyến rũ của mình để mê hoặc ông vua
trẻ tuổi, lãng mạn. Nàng chỉ lớn hơn vua ba tuổi, nhưng lão luyện thì gấp mấy lần. Nàng biết cách làm cho vua
hoàn toàn sung sướng. Nàng rất rành về cách dâm dục mà nàng đã học được những kinh nghiệm yêu thương của
các công nương khác trong chùa Hưng Long, vì những công nương này toàn là những người đi tu vì bắt buộc. Họ
đã từng là những tay lão luyện trong nếp sống truy hoan, đã trải qua những cuộc ái ân điên đảo.
Mỵ Nương đã ghi nhận là con người rất dẻo dai và táo bạo trong việc phòng the. Vị vua trẻ tuổi và thiếu thực tế
kia làm sao mà thoát khỏi tay nàng. Vua đã mê mệt vì nàng, quên hết những người khác, quên cả Triệu Phi đúng
như Vương hậu đã đoán.
Võ Mỵ Nương sắp đặt chương trình hành động để đạt tới mục tiêu. Con đường đưa nàng đến uy quyền đã bắt đầu
rộng mở.
LỜI BÀN
8


Trong xã hội loài người nếu đã xảy ra chiến tranh triền miên ngoài chiến trận, hoặc trong triều nội các gian thần
và trung thần âm mưu hãm hại nhau để tranh đoạt quyền lợi thì trong cung cấm cũng âm thầm xảy ra những cuộc
tranh chấp không ngừng để củng cố ngôi vị.
Ở đây, tác giả Lâm Ngữ Đường đã ghi lại một giai đoạn lịch sử tranh chấp quyết liệt trong cung cấm thời vua

Đường Cao Tôn.
Vũ khí trong cung cấm là tranh đoạt tình ái để làm vũ khí chiếm lãnh uy quyền. Một Vương hậu, vì tài chinh phục
tình ái không thắng nổi Triệu Phi, nên phải âm mưu đưa Võ Mỵ Nương về cung trừ khử đối thủ. Đây là một thủ
đoạn mà bản lãnh của người đàn bà không thua kém gì mưu trí của các bậc nhân tài nơi trận mạc. Muốn thắng
đối phương trong trận chiến thì phải dùng đến tài năng vũ khí, muốn chế ngự một tình yêu của một vị Đế Vương
phải dùng đến nghệ thuật ái ân. Vương hậu muốn trừ Triệu Phi tất yếu phải tìm cách sử dụng một tài năng có kinh
nghiệm trong tình ái để giúp mình. Việc Vương hậu đưa Mỵ Nương vào cung cốt là để trả thù Triệu Phi, để rửa
nhục trong việc thua kém về mặt chinh phục quân vương.
Trong lãnh vực này rất phức tạp, mà kẻ sử dụng chiến thuật không thể không có bản lãnh. Bản lãnh của người đàn
bà trong cung cấm.
4. Một chiến sĩ ái tình ra trận
Võ Mỵ Nương nóng lòng muốn được mọi người biết mình là ái nương của vua, vì thực ra nàng đã chiếm lãnh
được điều ấy, nhưng ý nguyện của nàng không phải chỉ đến đó mà còn xa xôi hơn nữa. Đứa con nàng sinh ra nàng
muốn nó phải là Hoàng tử. Nàng đã để tóc mọc lại nhưng vẫn chưa đủ dài để chải chuốc cho thật đẹp, nên nàng
phải mang tóc giả. Nàng thích trông thấy mình lộng lẫy trước mọi người.
Thế rồi một chuyện bất ngờ lại xảy ra. Mấy ngày hôm sau, khi nàng trút bỏ bộ áo tu hành; một buổi tiệc đặc biệt
được tổ chức tại nhà Mỵ Nương để ra mắt các công nương thì Triệu Phi cũng đến dự, có mang theo đứa con ba
tuổi của nàng. Đứa bé ấy tay cầm một thỏi kẹo dài lân la đến bên Mỵ Nương chơi, không biết vô tình hay cố ý nó
cầm thỏi kẹo quơ vào mái tóc của Mỵ Nương, làm cho mái tóc giả rơi ra. Mỵ Nương đỏ mặt vì xấu hổ.
Triệu Phi vội nói:
- Ấy chết! Xin lỗi công nương.
Nói rồi quay ra bảo một thị tỳ bế đứa bé đi chỗ khác, còn mấy thị tỳ khác thì vào sửa lại mái tóc cho Mỵ Nương.
Chính Triệu Phi cũng làm bộ sờ mó, nắn nót mái tóc rồi nói thầm vào tai nàng:
- Đẹp lắm rồi! Dù Thái Tôn có mặt ở đây cũng phải khen ngợi.
Trò châm chọc chỉ có vậy nhưng cũng đủ làm cho Mỵ Nương sượng sùng. Nàng không nói gì, nhưng tự nhủ thầm
là một ngày kia Triệu Phi sẽ trả một giá rất đắt cho chuyện xảy ra ngày hôm nay.
Bấy giờ Trương Tôn Vô Kỵ không hay biết gì việc vua lén đưa Mỵ Nương về cung. Ông mãi lo việc triều chính và
đã bị Mỵ Nương qua mặt. Ông không ngờ từ lúc ả chùa Mỵ Nương đã theo dõi việc triều chính qua sự trung gian
của tỳ nữ Lan Anh. Đến khi Cao Tôn báo cho ông biết nàng đã có mang và muốn lập nàng làm Quí Phi thì ông
mới ngã ngửa. Chức Quí Phi là ngôi vị cao nhất, chỉ thua có chánh cung Hoàng hậu mà thôi.

Đây là một vấn đề hết sức quan trọng đối với chính sự nhà Đường, vì nó có liên quan đến Triều Nghi. Nếu Triều
đình thuận theo lời vua thì chính thức thừa nhận một trường loạn luân, vì Mỵ Nương trước đây là tỳ thiếp của vua
cha. Lễ nghi không cho phép làm như vậy.
Tất cả các lão thần đều phản đối, vì cho rằng phạm luân lý, phạm tập tục của tiền nhân. Các triều đại trước đây
phần nhiều sụp đổ vì vua ham mê sắc dục. Hơn nữa bốn người cung phi đều đã có đủ, họ không thể và cũng không
muốn phá lệ luật của triều đình vì một người đàn bà, nhất là khi người đàn bà đó đã từng phục vụ ái tình cho tiên
đế.
Vô Kỵ tâu cho vua hay quyết định của quần thần. Sau đó Mỵ Nương chỉ được phong làm Chiêu Nghi, tức là người
đứng đầu trong chín nàng cung tần.
Đây không phải là ngôi vị của Mỵ Nương mơ ước, nhưng lại là ngôi vị nàng chưa từng đạt được dưới triều vua
Thái Tôn.
Nàng được dời về cung riêng. Tuy không còn được ở chung với Vương hậu nữa, nhưng ngoài mặt nàng vẫn là
đồng minh của bà.
Đối với Hoàng hậu, nàng luôn luôn tỏ vẻ kính trọng và quí mến. Nàng đã vượt qua hai trở ngại lớn trong bước đầu
của nàng là bỏ được bộ áo tu hành và tội vô luân. Còn những trở ngại khác không làm cho nàng nhụt chí.
Chỉ ít lâu sau, Mỵ Nương đã chiếm được ưu thế trong cung. Các thị nữ đều biết nàng, nhờ đó nàng dễ dàng theo
dõi các diễn biến bên Chánh cung Hoàng hậu và bên Triệu Phi.
Việc nàng ghi nhận lúc này là Hoàng hậu vì hay khó tánh nên bọn tỳ nữ không tâm phục. Mỵ Nương lợi dụng tình
trạng này mua chuộc bọn tỳ nữ. Mỗi khi được vua ban tặng thứ gì thì nàng đem phân phát cho bọn tỳ nữ, nhất là
những đứa không ưa Hoàng hậu. Kết quả là nàng đã nắm được các thị nữ trong cung. Chúng sốt sắng đem tin và
sẵn sàng thi hành theo mệnh lệnh của nàng.
Đến ngày khai hoa, Mỵ Nương sanh được một gái, nàng rất thất vọng. Với điều kiện là nàng mong muốn có được
con trai, nhưng sự thế nàng biết phải làm sao đây.
9


Mỗi lần nghĩ đến điều này nàng nhưng trải qua một cơn bão lòng. Thượng đế đã thương nàng sao không thương
cho trót.
Một hôm, khi đứa bé mới sinh đã được hơn mười ngày thì Hoàng hậu sang thăm. Vì không có con nên Hoàng hậu
rất thích trẻ con. Được tin Hoàng hậu tới, Mỵ Nương nghĩ ra một mưu độc, nàng lập tức lánh mặt. Hoàng hậu bế

đứa bé nựng nịu một hồi rồi đặt trả vào nôi. Sau đó Hoàng hậu trở về chánh cung. Mỵ Nương liền chạy vào phòng
bóp chết đứa con rồi phủ xác đứa nhỏ lại bằng một tấm chăn bông. Nàng biết sắp đến giờ bãi trào thế nào vua cũng
về thăm con.
Khi vua bước vào, nàng chào hỏi và bảo nữ tỳ thân tín là Lan Anh:
- Hãy đem con ta ra cho Hoàng thượng bồng.
Lan Anh bồng đứa nhỏ ra trao cho nàng.
Vừa bồng đứa bé, nàng rụng rời khi thấy đứa bé đã tắt thở đôi mắt trợn ngược lên.
Nàng hốt hoảng khóc rống lên, nói:
- Sao thế này? Sáng nay nó còn cử động như thường mà?
Khóc nức nở một lúc, nàng hỏi con tỳ nữ:
- Lúc nãy khi ta ra ngoài có ai vào đây không?
Tỳ nữ thưa:
- Thưa Công Nương! Chỉ có Hoàng hậu tới nựng nịu công chúa một hồi rồi lại đặt vào nôi mà ra về thôi.
Bất giác vua và Mỵ Nương đưa mắt nhìn nhau. Thật khó tin là Hoàng hậu đã ám hại đứa bé bằng hành động tàn ác
như vậy.
Câu chuyện này được vua hỏi lại Hoàng hậu, nhưng dĩ nhiên Hoàng hậu không biết gì đến chuyện đó. Dù vậy,
không có lý lẽ nào để minh oan, vì Hoàng hậu là người bế đứa nhỏ sau cùng, làm sao chối cãi được. Chung qui
cũng chỉ vì bà không được lòng bọn tỳ nữ.
Vua Cao Tôn vốn đã ít cảm tình với Hoàng hậu, nay lại càng ghét nàng hơn. Vua cho rằng vì ganh tỵ với Mỵ
Nương cũng như bà đã từng ganh tỵ với Triệu Phi vậy. Nhưng một bà Hoàng hậu là bậc mẫu nghi không có quyền
làm như vậy.
Vua nói với Mỵ Nương:
- Trẫm muốn phế bỏ người đàn bà độc ác đó. Nàng ta không còn xứng làm Hoàng hậu nữa.
Mỵ Nương ra vẻ cao thượng nói:
- Xin bệ hạ chớ làm như vậy! Việc đã qua rồi bệ hạ nên bỏ qua là hơn.
Thế rồi Mỵ Nương càng ngày càng được vua yêu quí. Năm sau, nàng may mắn nàng sanh được một trai đặt tên là
Hiền.
Điều mà nàng mong mỏi đã đến với nàng. Tuy may mắn nhưng nàng vẫn chưa đạt được ngôi vị mà nàng ấp ủ là
ngôi Chánh cung Hoàng hậu. Nàng biết với ngôi vị đó nàng có thể cùng vua điều khiển việc triều đình.
Vua Cao Tôn dần dần hiểu thế nào là sống với ba bà cùng một lúc. Suốt ngày phải nghe những lời họ than phiền

về nhau, nhưng người gần vua nhất vẫn là Mỵ Nương. Khi vua mệt mỏi, Mỵ Nương săn sóc, khi vua bối rối Mỵ
Nương thường khuyên lơn, còn những khi vua tức giận hay buồn bực nàng biết cách làm để xoa dịu. Nàng thực
tâm muốn trở thành người bạn đồng hành của vua.
Sau sáu năm khi vua Cao Tôn lên ngôi thì chuyện tranh chấp trong cung càng ngày càng trở nên trầm trọng.
Vương hậu bị bắt quả tang dùng tà thuật trù ếm vua người ta đào được dưới gầm giường của bà một hình nhân có
ghi tên họ và ngày sanh vua Cao Tôn.
Được mật báo tin này, vua bèn đích thân mở cuộc điều tra. Người báo tin cho vua hay dĩ nhiên không phải Mỵ
Nương.
Trước mắt vua, Hoàng hậu uất nghẹn không nói nên lời. Bà biết nói gì để chúng minh mình vô tội. Bà chỉ còn có
cách quì xuống xin vua soi xét.
Bà trù ếm vua để làm gì? Bà đón biết ai đã sai người chôn hình nộm ấy dưới gầm giường bà, nhưng chứng cớ đâu?
Bà chợt hiểu là bà đã trừ đi một con rắn độc, nhưng lại bị một con bọ cạp độc hơn cắn đến chết. Đàn bà thật đáng
sợ!
Câu chuyện được đồn đại đến tai quần thần, ai nấy đều xúc động. Họ tự hỏi có thật Vương hậu ếm vua hay chỉ là
một âm mưu thù oán lẫn nhau? Nếu bà ếm một người nào khác như Mỵ Nương chẳng hạn chẳng hạn thì còn có lý.
Nhưng nếu Vương hậu có muốn trù ếm ai thì cũng phải nhờ đến một mụ phù thủy. Vậy mụ phù thủy đó là ai? Chỉ
cần vặn hỏi đám tỳ nữ thì sẽ biết Vương hậu có tội hay không. Lại có người thắc mắc không biết Vương hậu phen
này có bị truất ngôi hay không? Nếu có thì ai sẽ lên thay? Võ Mỵ Nương chăng? Trong vòng ba năm, Võ Mỵ
Nương đã sanh được hai trai và một gái dĩ nhiên nàng có rất nhiều hy vọng.
Triều thần bàn cãi sôi nổi làm cho Toại Lương và Vô Kỵ là người có trách nhiệm trực tiếp trông nom vua và
Hoàng hậu như Thái Tôn đã gởi gắm trước khi băng hà, lấy làm bối rối. Hai người linh cảm sẽ có điều không hay
xảy đến.
Mà việc trước mắt là việc Vương hậu bị đe dọa do bàn tay bí mật gây nên.

10


Muốn truất phế Hoàng hậu cần phải có những lý do vững chắc. Hơn nữa, Hoàng hậu lại chính do Thái Tôn chọn
cho Cao Tôn thì làm sao hai ông có thể để cho vua lấy một người đàn bà đã hầu hạ tiên đế. Như thế là loạn luân,
làm mất uy tín của Hoàng tộc. Vì lời hứa với Thái Tôn và vì lợi ích cho xã tắc hai ông quyết định sẽ phản đối.

Mỵ Nương biết rằng trong đám quần thần, Vô Kỵ là tay khó chơi nhất, vì ông là người đứng đầu trong Tam Công,
lại là Nguyên Soái cầm hết binh quyền, lại cũng chính là cậu ruột của vua. Nàng phải tìm cách kéo ông về cùng
phe. Nếu thành công, mọi chuyện khác không khó khăn gì. Nàng xin vua đưa nàng đến tận dinh của Vô Kỵ để
thăm viếng.
Vua đến nhà quan là một vinh dự đặc biệt, nhưng Vô Kỵ rất thắc mắc về mục đích thăm viếng ấy. Đến khi ông
thấy có cả Mỵ Nương cùng đi theo thì ông không còn nghi ngờ gì nữa.
Vừa bước vào nhà, Mỵ Nương rất ân cần hỏi han, để chứng tỏ đây là cuộc thăm viếng có tính cách gia đình.
Vô Kỵ mời hai người vào trong dinh, Cao Tôn và Mỵ Nương đều tỏ vẻ tự nhiên thân mật, nhất là Mỵ Nương luôn
luôn vồn vã.
Hai bên chuyện trò rất lâu nhưng tránh đề cập đến vấn đề chính trị.
Bữa tiệc được dọn ra, Mỵ Nương đề nghị cả mọi người trong nhà đều ngồi lại cùng ăn.
Bốn người con trai của Vô Kỵ cũng có mặt trong buổi tiệc. Trong bốn người đó chỉ có người con lớn đã trên hai
mươi tuổi hiện làm chức Thủ Thư trong triều, còn ba người kia không có danh phận gì. Vô Kỵ là một người dạy
con rất nghiêm, nên các con của ông không vì chức tước mà tham vọng, chỉ nên rèn luyện bàn thân cho nên người.
Vua Cao Tôn thấy vậy liền phong cho ba người con thứ của Vô Kỵ đều lãnh chức đại phu.
Vô Kỵ sửng sốt, không dám nhận. Mỵ Nương vội nói:
- Cậu đừng từ chối. Cậu là người đã xả thân vì xã tắc nhiều hơn ai hết. Đây chỉ là sự đền bù, một quyền lợi mà cậu
phải được hưởng.
Không có cách gì từ chối, Vô Kỵ đành phải bảo các con ra lạy tạ ơn.
Bữa tiệc bỗng nhiên cởi mở và vui vẻ. Vua Cao Tôn nhân cơ hội này nhắc đến việc Hoàng hậu trù ếm, hơn nữa bà
lại không có con trai thì nên truất phế ngôi Chánh Hậu.
Mỵ Nương ngồi êm lặng theo dõi tình hình. Vô Kỵ chỉ ậm ừ, trách trả lời thẳng vào vấn đề. Ông không tán thành
mà cũng không phản đối. Ông nghĩ một vấn đề quan trọng như vậy không thể quyết định hấp tấp được.
Vua Cao Tôn thấy Vô Kỵ không có ý kiến thì rất e ngại và bữa tiệc trở nên lạt lẽo.
Vua và Mỵ Nương ra về.
Ngày hôm sau, Mỵ Nương nhân danh vua, gởi tặng Vô Kỵ mười xe vàng bạc và lụa là gấm vóc. Chính thân mẫu
của Mỵ Nương thân hành đem đến để tỏ lòng kính mến.
Vô Kỵ biết được rõ hành động về ý nghĩa của việc này, vì mới hôm trước ba đứa con của ông được thăng chức nay
trao tặng vàng bạc, thì rõ ràng Mỵ Nương đã tìm cách mua chuộc ông.
Vô Kỵ chỉ chọn vài cây lụa tượng trưng để nhận, còn bao nhiêu vàng bạc châu báu đều trả về hết.

LỜI BÀN
Võ Mỵ Nương là một người đàn bà mưu lược, nhưng khác với những mưu lược của các vị anh hùng hào kiệt khác
từ xưa đến nay. Nếu phạm vi tranh bá đồ Vương của nàng chỉ ở trong phạm vi cung cấm thì mưu lược của nàng là
mua chuộc nhân tâm để kéo họ về phe của nàng. Đối với vua, thì nàng mua chuộc bằng nghệ thuật ái tình, làm
cho vua say mê hưởng thụ những gì người khác không thể có, đối với Hoàng hậu thì nàng mua chuộc bằng tình
cảm thân thương để loại bỏ tất cả những ghen tuông trong giới nữ, đối với bọn hầu hạ thì nàng mua chuộc bằng
tiền bạc, lụa là, cung cấp cho những gì chúng thiếu thốn. Còn đối với quần thần thì nàng mua chuộc bằng chức
tước.
Tất cả những điều đó thuộc về tâm lý vì ai cũng thích những cái mình đang thiếu thốn, không ai thích những gì
mình không cần đến.
Tất cả những hành động mua chuộc này đều nằm trong kế sách chiến đấu của nàng để đạt đến mục tiêu là củng
cố tham vọng, chiếm đoạt quyền lợi trong triều đình.
Ấy vậy, cuộc chiến đấu trong cung cấm của một kỳ nữ có khác hơn thủ đoạn của một vị anh hùng ngoài mặt trân
trọng việc đoạt thành, phá ải, chiếm đất, gồm thâu thiên hạ.
5. Những bất bình sơ khởi trong triều đình
Võ Mỵ Nương bắt đầu gặp khó khăn.
Hai vị Quốc công cùng các quan triều thần đều họp nhau phản đối việc truất ngôi Vương hậu và không chấp nhận
Mỵ Nương lên thay. Như thế là một mình Mỵ Nương phải đối phó với bốn vị lão thần trong chiều chánh, mà Vô
Kỵ và Toại Lương là hai vị được vua Thái Tôn gửi gắm vua Cao Tôn lúc băng hà.
Bởi vậy hai ông này thường họp các quan cận thần để bàn tính đối phó với những nguy cơ xảy ra.

11


Vô Kỵ đã kể hết cho Toại Lương nghe cuộc viếng thăm của vua Cao Tôn và Võ Mỵ Nương tại tư dinh của ông.
Việc này các triều thần đều có vẻ lo lắng như đang chờ đợi một cơ bão tố sắp thổi đến. Họ phải tìm cách ngăn cản
vua, nhưng chưa biết ai sẽ lên tiếng trước.
Dĩ nhiên Vô Kỵ là người đầu tiên phải gánh vác trọng trách khó khăn này. Nhưng Toại Lương nói:
- Tướng quân hãy để tại hạ tâu cho. Tướng quân là cậu của Hoàng Thượng, nên bị tình cảm gia đình khó ăn nói.
Vô Kỵ nói:

- Thế thì cứ để cho quan trung Lệnh Thư tâu có được không?
Toại Lương nói:
- Cũng không được, vì chức vụ đó đứng đầu trong bá quan, nếu Hoàng Thượng khăng khăng không nghe lời thì sẽ
sinh ra xung đột lớn.
Vô Kỵ nói:
- Còn chức tả Bộ Xa của ngài không lớn sao?
Toại Lương nói:
- Bản thân tôi không đáng kể. Tôi xuất thân từ một gia đình tầm thường, quan chức đối với tôi chỉ là tạm bợ. Tôi
đã hứa với tiên đế phải làm tròn phận sự. Nếu không, làm sao tôi có thể gặp tiên đế nơi chín suối.
Bây giờ các triều thần xếp hàng để vào chầu. Một hồi chuông báo hiệu vua lâm trào, còn Võ Mỵ Nương ngồi sau
một bức rèm bằng lụa sau ngai vua để theo dõi buổi chầu mà nàng biết sẽ có liên quan rất nhiều đến nàng.
Trong buổi chầu, vua Cao Tôn kể chuyện Hoàng hậu dùng tà phép trù ếm ông, như vậy là không xứng đáng làm
bậc mẫu nghi trong thiên hạ nữa. Cần phải truất phế.
Toại Lương liền bước ra tâu:
- Xin Bệ hạ xét lại, Hoàng hậu là người do tiên đế chọn. Khi hấp hối, tiên đế có bảo với hạ thần: “Đây là con hiền,
dâu thảo của trẫm, nay trẫm gởi lại cho khanh”! chính Bệ hạ cũng đã nghe như vậy. Hoàng hậu là người tốt.
Không có bằng cớ gì để bắt tội trù ếm Bệ hạ. Tôi e rằng đây là một việc làm của kẻ xấu để vu oan.
Vua Cao Tôn bình tĩnh lấy ra một hình nhân bằng gỗ, nói:
- Khanh hãy xem đây.
Rồi vua đưa hình nhân cho mọi người xem.
Các quan thấy một chiếc đinh nhọn đóng ngay vào tim của hình nhân, trên thân hình nhân lại có ghi tên họ và
ngày sinh của nhà vua.
Toại Lương vẫn thản nhiên tâu:
- Sao Bệ hạ không điều tra? Chắc có nhiều người dính liếu đến việc này. Người đẽo tượng, các tòng phạm và một
tay phù thủy. Các thị nữ phải biết một trong những người đó. Cứ hỏi chúng là biết ngay. Sao Bệ hạ biết chắc là vụ
này không do tay người nào đó muốn vu hại Hoàng hậu?
Vua ngồi yên. Quan Trung Thư Lệnh tiến ra tiếp lời Toại Lương:
- Xin Bệ hạ tha tội cho những lời không phải của hạ thần. Thay đổi Hoàng hậu một cách khinh xuất rất có hại cho
xã tắc, hạ thần e rằng sẽ có nhiều xáo trộn trong triều đình cũng như ngoài dân chúng. Hạ thần đồng ý với quan Tả
Bộ Xa là không nên phế Hoàng hậu.

Khi Vô Kỵ toan bước ra tâu thêm thì vua tức giận quát lớn:
- Lui ra hết !
Thế là buổi chầu chấm dứt ngang.
Tối hôm đó, một số triều thần họp riêng tại tư dinh Vô Kỵ để trao đổi những biến cố vừa xảy ra.
Trong buổi họp, mọi người đều tỏ ý bất mãn và quyết định sẽ tiếp tục tranh đấu. Riêng Toại Lương có ý sẽ ra mặt
quyết liệt vào buổi chầu sáng hôm sau.
Sáng hôm sau, vua lâm triều. Lần này vua Cao Tôn mở lời trước bằng câu nói của Mạnh Tử:
- Trong các tội bất hiếu, tội nặng nhất là không có con để nối dõi. Vương hậu không có con trai, Mỵ Nương có hai
đứa. Vậy ý trẫm đã quyết.
Toại Lương thong thả bước ra, quì trước Bệ rồng, hai tay nâng tấm thẻ ngà là chiếc thẻ mà mỗi tôi thần phải cầm
nơi tay khi vào tầu vua, ông tâu:
- Muôn tâu Bệ hạ! Thần muốn nhắc nhở Bệ hạ. Nay Bệ hạ quyết ý như vậy thần cũng không còn gì để nói. Thần
xin hoàn lại tấm thẻ hầu trào này, xin Bệ hạ tha thứ cho tội vô lễ của hạ thần.
Dứt lời, Toại Lương đặt tấm thẻ bài trên bệ, rồi dập đầu xuống đất bình bịch tỏ ý phản đối.
Vua Cao Tôn rất kinh ngạc trước cử chỉ và lời nói của Toại Lương, nhưng chưa kịp nói gì thì một giọng nói trong
trẻo và lạnh lùng từ sau bức màn vọng ra:
- Đem tên khốn nạn đó ra ngoài giết đi.
Vô Kỵ vội tâu:
- Toại Lương can gián Bệ hạ chỉ vì bổn phận, không nên trách phạt.
Cao Tôn phán:
- Hãy đem nó ra ngoài.
Buổi chầu lại một lần nữa gián đoạn nữa chừng.
12


Toại Lương bị bãi chức Tả Bộ Xa và biến ra làm Thứ sử tại một quận miền rừng núi đất Quí Châu. Hình phạt này
thường áp dụng cho các đại thần phạm tội nghịch ý vua.
Toại Lương ra đi không ân hận điều gì. Ông chỉ buồn bã là không biết còn việc gì xảy ra nữa.
Mỵ Nương đã sử dụng vua Cao Tôn như một con bù nhìn làm cho nhà vua có những quyết định táo bạo, độc đoán,
không còn nghe lời can gián của triều thần nữa.

Vua Cao Tôn và Mỵ Nương thấy trong các buổi chầu vừa qua không đến dự có Lý Tích là kẻ có quyền năng,
nhưng không ở trong phe phái của các vị lão thần, nên gọi đến hỏi:
- Những ý kiến vừa rồi của các đại thần khanh nghĩ sao?
Lý Tích tâu:
- Đó là việc riêng trong gia đình của bệ ha, kẻ bề tôi không dám xen vào...
Vua nghe nói rất mừng, bèn xuống chiếu truất ngôi Vương hậu và phong cho Mỵ Nương làm Chánh cung Hoàng
hậu.
Tin này đồn ra ngoài làm cho dân chúng bất mãn, sau đó trở thành trò cười cho những kẻ châm biếm. Họ còn thêm
thắt cho câu chuyện trở thành một vụ bỉ ổi ghê gớm. Họ nói tân Hoàng hậu đã từng là vợ của vua cha, sau đó đi tu,
đáng lẽ bây giờ còn là bà vãi trong chùa Hưng Long, thế mà bà đã có con với vua từ lúc còn làm ni cô.v.v. Vậy bà
là một con đĩ. Khắp các trẻ đình, tửu điếm đâu đâu cũng có tiếng xầm xì.
Lúc này Vô Kỵ nằm bẹp ở nhà, nghiền ngẫm nỗi buồn của mình.
Ngày lễ tấn phong Hoàng hậu được định vào tháng mười một tức là sau đó một tháng. buổi lễ được cử hành cực
kỳ long trọng với đầy đủ nghi thức, hơn cả một lễ đăng quang của một vị Hoàng Đế, để chứng tỏ Võ Mỵ Nương là
một vị Hoàng hậu chính thức. Vả lại, những điều xa hoa lộng lẫy đều hợp tính với Mỵ Nương. Hứa Kỉnh Tôn
người đứng ra tổ chức phải lo cả hàng ngàn việc, trong vòng một tháng trời, nào lễ phục, xe ngựa, âm nhạc, vũ
công, người giúp vui, sửa soạn cho các vị Hoàng tử, Công chúa và các triều nghi.v.v.
Ngày lễ tới, trong tiếng nhạc tưng bừng, thị nữ đỡ Mỵ Nương lên xe, trông nàng lộng lẫy với chiếc vương miện
đầy châu ngọc và chiếc áo triều phụng rực rỡ. Từ cách ăn mặc đến cử chỉ trông nàng đúng là một Hoàng hậu.
Nàng rất điềm tĩnh và bình thản nhận lấy tử ấn do Lý Tích giao tận tay. Và sau đó, nàng bước lên ngôi Chánh Hậu.
Các đại thần đều đến chúc mừng.
Theo sự sắp xếp của Ban Tổ Chức, sau buổi lễ tại chánh điện, Võ Hậu sẽ ra mắt quần thần tại bảo tháp ngoài Tây
Môn. Chiếc xe ngựa đặc biệt dành cho Hoàng hậu vào những dịp đại lễ đã được sẵn sàng. Đây là một chiếc xe lớn,
thân xe màu xanh vàng, có tám cửa sổ lồng khung kính và màn che màu đỏ, quanh xe có cắm lông trĩ tượng trưng
cho Hoàng hậu. Những con ngựa kéo xe cũng được trang điểm rực rỡ. Chiếc xe được dẫn đường do một toán kỵ
binh ăn mặc rất đẹp.
Khi tới Tây Môn, Võ Hậu bước lên bảo tháp và đứng tại lan can. Bá quan văn võ và xứ thần các nước đều quì dưới
chân tháp. Tất cả đều mặc lễ phục.
Những người ở hàng đầu mặc lễ phục mày đỏ thẵm, dây lưng vàng là ngũ phẩm.
Còn những người mặc áo xanh lá cây, dây lưng bạc là lục và thất phẩm.v.v.

Võ Hậu mỉm cười để đáp lại cử chỉ cung kính của các bề tôi. Sau đó, bà trở về cung để chủ trì một buổi tiếp tân
đặc biệc dành cho các phu nhân của các quan và các sứ thần.
Các phu nhân đều phán phục phong thái và vẻ ung dung của Võ Hậu. Họ cố quên đi nguồn gốc của bà. Có người
nhận xét miệng bà hơi rộng, chứng tỏ bản lĩnh tham lam. Có người lại sợ ánh mắt của bà sắc sảo nhưng rất cương
quyết. Bà không bao giờ ngượng ngập, luôn luôn thích gặp và tiếp chuyện với mọi người và nhất là thích nghe mọi
người tâng bốc.
Ngày lễ hôm nay bà đã bỏ rất nhiều tục cũ.
Sau buổi tiếp tân, một tiệc yến dọn ra để tiếp khách, có các đoàn ca vũ tới trình diễn. Cuộc vui kéo dài đến khuya,
khiến vua càng mệt phờ ra.
LỜI BÀN
Một ông vua khi đã ly gián với triều thần thì không còn sáng suốt nữa, bởi lẽ những ý nghĩ của riêng mình chỉ là
quan điểm của cá nhân, mà cá nhân chỉ là sản phẩm của một bộ óc, dù sáng suốt đến đâu cũng không thể thu nhặt
hết mọi ưu tú trong mọi sự việc.
Ở đây, vấn đề càng nguy hiểm hơn nữa là bộ óc của vua đã không thể thu thập được những tinh vi của mọi người,
lại còn mù quáng vì sự mê hoặc của một kẻ âm mưu chiếm đoạt thiên hạ.
Sự mù quáng ấy đã che lấp lẽ phải, chỉ còn lại một ý thức tuân theo kẻ làm cho mình bị ham mê.
Nếu là một người thường bị mê hoặc thì tai hại bản thân không là bao, nhưng nếu một ông vua, trong tay có cả
một uy quyền thì khi sa vào sự mê hoặc thật là tay hại không sao lường được.
Kẻ mê hoặc người khác là kẻ lợi dụng, cho nên kẻ ấy luôn luôn tìm người có quyền thế để sai khiến. Còn kẻ bình
thường không sợ ai mê hoặc làm gì.
13


Hành động của Võ Hậu mê hoặc vua Cao Tôn là tấm gương cho những kẻ trong tay đang nắm quyền thế và không
biết nghe sự góp ý của người thân của mình, chỉ đeo đuổi vào kẻ mình thích nghe, tất nhiên phải bị kẻ ấy mê hoặc,
lôi cuốn để sai khiến trục lợi.
6. Sự hình thành quyền uy của Võ Tắc Thiên
Võ Hậu được tấn phong vào tháng 2 năm 655, khi bà được 30 tuổi và đã đạt được danh hiệu cao quý nhất của
người đàn bà. Nhưng tham vọng của bà không phải dừng tại đó, mà còn tìm đến chỗ cao xa hơn.
Không ai hiểu được đàn bà, trừ khi đã cưới họ về là vợ. Vua Cao Tôn nhận ra điều ấy rất sớm.

Chỉ một tháng sau khi chính thức tôn phong vào ngôi Chánh Hậu, vua Cao Tôn đã nhìn ra bản chất của Mỵ
Nương. Ông thấy Võ Hậu không chỉ là một món đồ chơi xinh đẹp như Triệu Phi mà bên trong còn có nhiều những
gì sâu xa khó hiểu. Ông bắt đầu suy xét về bà Hoàng hậu mà ông đã kết tội. Bỗng dưng ông cảm thấy tràn trề hối
hận. Nhưng dù sao ông cũng không dám để lộ cho Võ Hậu thấy những ý nghĩ đó.
Một hôm, Võ Hậu rời cung đi thăm vài người họ hàng, vua Cao Tôn quyết định đi thăm hai người đàn bà đáng
thương kia.
Ông đi thẫn thờ về phía lãnh cung, trong lòng nóng nảy và có cảm giác như kẻ phạm tội. Khi đến nơi ông thấy
lãnh cung cửa khóa rất kỹ, chỉ chừa một cái lỗ trống ở bên cạnh để đủ đưa cơm nước vào bên trong.
Thông thường khi các Hoàng hậu hay cung phi khi có tội đều bị giam tại lãnh cung, nhưng đâu đến nỗi phải nhốt
kín như vậy?
Vua cao tôn ghé miệng vaò lỗ hổng gọi lớn:
- AiÙ Hậu! AiÙ Phi! Hai khanh ở đâu?
Bên trong có tiếng đáp:
- Sao Bệ hạ lại gọi thiếp như vậy? Bọn thiếp đâu còn là Hoàng hậu hay Quí Phi nữa.
Ngừng một lát, Triệu Phi lại nói tiếp:
- Xin Bệ hạ hãy vì nghĩa cũ mà tha bọn thiếp ra. Chỉ cần ra khỏi trốn này thì bọn thiếp đội ơn bệ hạ muôn đời.
Cao Tôn cảm thấy bồi hồi xúc động, nên an ủi:
- Hai khanh đừng lo, trẫm sẽ liệu cách.
Cao Tôn quay về cung, tâm tư nặng trĩu và cảm thấy như hổ thẹn. Ông có biết đâu mấy đứa tâm phúc của Võ Hậu
theo hầu đã theo dõi và báo cáo với Võ Hậu tức khắc.
Võ Hậu đã thừa hiểu ông là người yếu đuối về mặt tình cảm nên bà đã bố trí một hệ thống gián điệp rất đắc lực, tai
mắt bà rải khắp nơi để đề phòng những chuyện bất ngờ.
Khi Cao Tôn về đến cung thì Võ Hậu đã chận trước. Bà gạn hỏi vua về việc đến thăm lãnh cung thăm Hoàng hậu
và Triệu Phi, nhưng vua một mực chối phăng. Cuối cùng, Võ Hậu nói:
- Nếu Bệ hạ không đi thăm họ thì hay lắm.
Võ Hậu không phải là người không thể chấp nhận việc vua đến thăm hai người đàn bà kia, mà bà ý muốn trả thù
hai người đàn bà xấu số ấy, đồng thời cảnh cáo tất cả cung phi mỹ nữ trong cung không được lân la với vua Cao
Tôn. Là đàn bà, bà biết rõ đàn bà nguy hiểm như thế nào.
Võ Hậu ra lệnh cho thuộc hạ đánh hai người đàn bà khốn khổ ấy mỗi người một trăm roi. Sau đó bà cho chặt hết
chân tay rồi ngâm trong nước rượu.

Vài ngày sau, hai người đều chết vì không chịu nổi sự hành hạ quá tàn nhẫn.
Tiếp đó, Võ Hậu còn chuyển tất cả họ hàng, thân thích của Vương hậu và Triệu Phi ra Quảng Đông, một miền đất
xa xôi ở phía nam. Võ Hậu còn bắt Cao Tôn phải cho người đào mả thân phụ của Vương hậu để bầm thây. Vua
thấy làm như vậy là quá bất nhân, nhưng cũng phải nghe theo.
Từ đó, Võ Hậu càng ngày càng độc ác, đánh giá một âm mưu chiến thắng trên xác chết của hai người đàn bà khác.
Còn vua Cao Tôn cảm giác rất rõ Võ Hậu có thân hình rất xinh đẹp, da thịt thơm tho, nhưng tất cả chỉ là nọc độc
giết người. Ông tự hỏi: ông là vua hay chỉ là một đứa ăn mày? Lương tâm ông bắt đầu nổi dậy chống lại người đàn
bà độc ác ấy, nhưng ông không nói gì. Chiến tranh lạnh bắt đầu.
Dần dần mọi người hiểu mục đích của Võ Hậu khi bà hành động như vậy: “Bà muốn trong nhà phải được quét dọn
sạch sẽ, hay nói cách khác chế độ đa thê phải chấm dứt, dù là vua cũng vậy. Nhiều thê thiếp quá, vua chỉ đuối sức
thêm. Vậy không cần cung phi, mỹ nữ gì nữa. Tuy vậy để vua khỏi mất mặt với các Vương hầu, bà sẽ giữ lại một
số cung nữ để phụ tá vua trong việc giữ gìn đạo đức và bảo vệ luân lý. Bà đặt ra hai chức phụ tá đạo đức thay bốn
cung phi và bốn chức giám sát tinh thần thay thế chín cung tần, để giúp vua và nhắc nhở vua khỏi lạc bước vào
cảnh mê sa tội lỗi.
Đàn ông sinh ra có người tự nhiên đạo đức, có người bị bắt phải đạo đức. Vua Cao Tôn ở trong đám người thứ hai.
Hành động của Võ Hậu khiến ông xa lánh mọi người. Ông sống trong cắn rứt và đau buồn. Tình yêu của ông đối
với Võ Hậu đã biến thành sự sợ hãi. Ông có cảm tưởng như rằng mình đã lấy phải một con beo gấm. Hình ảnh con
beo này luôn luôn theo ông vào giấc ngủ và tạo nên những giấc mơ hãi hùng.
Người ta không thể yêu đương một người đàn bà mà người ta sợ hãi. Tuy chưa già, mới hai mươi tám tuổi nhưng
vua cảm thấy bà vợ không còn kích thích ông nữa.
14


Điều đó làm ông xấu hổ và hối hận. Ngọn lửa ham muốn của ông đã bị Võ Hậu dập tắt. Đây là lý do mà mãi sáu
năm sau Võ Hậu mới sanh được người con thứ tư đặt tên là Đẩu và đó cũng là nguyên nhân đưa đẩy Võ Hậu vào
những cuộc ngoại tình liên miên.
Ngoài ba mươi tuổi, vua cao Tôn mắc bệnh thần kinh và một số các bệnh khác mà các quan Thái y không tìm ra.
Tóc ông bạc trắng, tính ông càng ngày càng nhút nhát, ghét việc triều chính, thường để mặc cho Võ Hậu thao túng.
Điều mong ước của ông lúc đó là hãy để cho ông yên.
LỜI BÀN

Khi Võ Hậu cầm quyền, khống chế được uy quyền của nhà vua thì lại hiểu rõ nguy cơ trong cung cấm. Đó là đàn
bà.
Thường tình, kẻ cầm quân ra trận, sử dụng gươm đao, nhưng khi đã chiến thắng kẻ thù thì thấy gươm đao là loại
vũ khí nguy hiểm.
Võ Hậu ở trong trạng thái ấy. Chính nàng đã dùng vũ khí ái tình để chinh phục đối phương, nhưng giờ đây nàng
cố dẹp bỏ hết thứ vũ khí tai hại đó.
Chính vì là đàn bà mà Võ Hậu thấy rõ được cái nguy cơ ấy, một sự hiểu biết mà người khác không thể nghĩ đến
trong chốn thâm cung.
Vua Cao Tôn đứng trước miếng mồi ngon của Võ Hậu chẳng khác nào một con cá, khi đã nuốt phải lưỡi câu vào
bụng rồi thì không còn cách nào để thoát được, đành phải ngậm hờn mà chịu chết. Dù có hối hận, đau khổ bao
nhiêu thì cũng là việc đã rồi.
Cuộc sống trong đời người phải luôn luôn tự kiểm lấy mình trong lúc sai lầm, nếu để đến lúc hối hận thì đã muộn.
7. Kế hoạch của Võ Hậu củng cố triều đình
Võ Tắc Thiên không chỉ là người chỉ thích được quần chúng tôn sùng, quần thần xem như một bà Hoàng hậu lộng
lẫy, xinh đẹp mà thôi, tham vọng của bà còn cao xa hơn nữa. Bà muốn mình phải là một bà Hoàng thật sự, một bà
Hoàng kinh thiên động địa, để cái tên Võ Tắc Thiên phải được in đậm trong sử sách mai sau.
Công việc đầu tiên bà cần phải làm là chỉnh đốn chính quyền. Theo ý nghĩ của bà thì bộ máy chính quyền chỉ hoạt
động mạnh mẽ khi mọi người tuyệt đối nghe lời một người duy nhất. Bà không bao giờ quên được bốn kẻ luôn phá
rối và cản bước của bà.
Hai tháng sau khi bà được tấn phong Hoàng hậu thì Thái tử Lý Trung con của Vương hậu bị phế, để Hoàng tử con
của Võ Hậu lên thay. Hứa Kỉnh Tôn là người được Võ Hậu tín nhiệm được phong làm Cấp Sự Trung, tối tối đến
Tây Môn để chờ lệnh Võ Hậu. Võ Hậu tin dùng Hứa Kỉnh Tôn vì ông này rất rành về pháp luật. Bà dùng ông ta
như chiếc roi để đập lên đầu các triều thần bắt họ làm việc cho đúng nguyên tắc. Theo bà, công việc là công việc
không thể xen tình cảm vào được.
Để thực hiện việc thống nhất chính quyền, bà thanh trừng những kẻ chống đối. Toại Lương đã bị đuổi đi xa, nhưng
Vô Kỵ, Hàn và Lai cũng không thực sự chống đối, họ chỉ là những lão thần quá thẳng thắn và cương nghị, nên
không chịu theo bà ngay, nhưng bà cũng không chấp nhận được. Bà không thích một triều đình lộn xộn, mỗi người
một ý riêng. Đã đến lúc bà củng cố thế lực mà mọi người phải tuân theo mệnh lệnh của bà.
Trong ba người đó, Võ Hậu thấy chỉ có Vô Kỵ là tay khó chịu nhất, vì ông là chỗ nương tựa của vua Cao Tôn, lại
là người có thế lực rất lớn. Bà quyết định sẽ không triệt ba người này mà chỉ chặt hết vây cánh của Vô Kỵ trước,

chờ đến khi ông ta cô thế bà mới ra tay.
Quyết định này chứng tỏ tài năng chính trị của Võ Hậu rất sâu sắc.
Hàn là người đầu tiên gây ra cớ để Võ Hậu triệt hạ. Ông đã dám xin tội cho Toại Lương bị chuyển đi xa, làm cho
lương tâm ông không lúc nào được yên.
Sau một năm chờ đợi, ông thấy đã đến lúc phải làm bổn phận của một người bạn và nhiệm vụ của một quan trào,
xóa bỏ sự bất công đối với Toại Lương. Là người thừa hưởng truyền thống bất khuất của người vua trước, ông
luôn luôn giữ vững lập trường, sẵn sàng chỉ trích vua và mất chức nếu cần.
Trong khi tranh đấu cho Toại Lương được trở về, ông đã vào chầu và đọc một bài sớ rất dài, nhắc nhở vua nguyên
tắc căn bản trong việc trị vì là phải trọng dụng các triều thần thẳng thắn, cương nghị. Ông nêu trong lịch sử những
trường hợp nước mất nhà tan chỉ vì sự ra đi của các bậc trung thần. Rồi ông kết luận: Dù Toại Lương có xúc phạm
đến Bệ hạ thì đã phải hình phạt trong suốt một năm, xin Bệ hạ hãy tha tội cho ông ta.
Khi đọc sớ, có lẽ là ông không biết Võ Hậu đang ngồi sau bức màn, hoặc ông biết mà không cần. Khi Cao Tôn
nghe sớ xong liền phán:
- Trẫm rất tôn trọng những lời của khanh vừa nêu ra, nhưng Trẫm nghĩ khanh chỉ làm cho sự việc thêm rắc rối.
Trẫm biết Toại Lương thẳng thắn, nhưng lại lỗ mãng quá sức, Trẫm trừng phạt như vậy không đúng sao?
Hàn trả lời:
- Tâu bệ hạ! Thần lại nghĩ khác. Để xây dựng một triều đình vững mạnh, công việc tiên quyết là phải chọn lựa và
trọng dụng các hiền thần. Vấn đề là Bệ hạ muốn dùng nhân tài hay kẻ nô lệ. Người ta thường nói: Một hạt cát có
15


thể làm ngưng chạy một bộ máy. Thần e rằng có vài cá nhân đang lợi dụng sơ hở để bôi nhọ và khai trừ các công
thần, phương hại đến toàn triều đình.
Những lời này đương nhiên phỉ báng Võ Hậu. Bà không nói gì trong suốt buổi chầu, nhưng sự yên lặng của bà
càng đáng sợ hơn. Số phận của Hàn từ đó được được quyết định.
Sự quyết định đó là âm mưu của Võ Hậu gán cho Hàn trong việc truất phế Thái tử Lý Trung lúc đó. Lý Trung chỉ
là con một cung tần tầm thường được Vương hậu đem về nuôi. Nay Vương hậu đã chết nên Lý Trung hết chỗ
nương tựa. Võ Hậu nghĩ ra một kế, phao tin Trung muốn cướp ngôi và bịa ra một âm mưu soán nghịch. Sau đó, bà
tiếp tục ghép những người chống đối hoặc làm vướng chân bà vào âm mưu tưởng tượng đó. Thế là mấy năm tiếp
theo, mũi dùi chính trị hướng vào cậu bé đáng thương mới mười bảy tuổi đầu này. Trung bị luôn luôn theo dõi và

sống trong phập phồng lo sợ.
Đầu tiên, Hán và Lai bị ghép vào tội phản nghịch vì đã kết bè đảng với Lý Trung, mưu đồ nổi dậy. Hàn bị đày ra
đảo Hải Nam, còn Lai thì đày ra miệt Triết Giang, tận bờ biển phía đông, để hai người có dịp suy ngẫm về những
lỗi lầm của mình.
Vì vua Cao Tôn cũng muốn tránh mặt mấy vị đại thần đó nên rất hài lòng về việc này.
Hứa Kỉnh Tôn, một tay sai đắc lực, ngang nhiên làm thủ tục đưa họ đi đày, không hề chứng minh tội trạng mà vua
cũng chẳng truy vấn. Giả thử âm mưu có thật thì Lý Trung và hai ông đã bị đưa ra xử trảm rồi. Hứa Kỉnh Tôn
không cần để ý đến chi tiết đó, vì Võ Hậu là chỗ dựa vững chắc, nếu có làm sai cũng chẳng tội lỗi gì.
Thế là Toại Lương, Hàn và Lai đã bị quật ngã, giờ đây chỉ còn lại một mình Vô Kỵ. Ông cảm thấy điều bất thường
sắp xảy ra, nên ông dành hết thì giờ để viết nên bộ sử về hai triều đại trước. Khi hoàn tất bộ sử gồm tám mươi tập,
ông được vua ban thưởng hai ngàn cây lụa.
Nhưng rồi việc gì tới phải tới...
Mùa Xuân năm 659, Hứa Kỉnh Tôn thấy đã đến lúc phải dùng mọi biện pháp để buộc tội Vô Kỵ. Hắn lại dùng
chiêu bài cuộc phản loạn của Lý Trung để hại ông.
Sự việc này do Vô Kỵ có một người bạn họ Vi. Một hôm Vi bị bắt về tội ăn hối lộ. Hứa Kỉnh Tôn bảo Vi nếu chịu
vu cáo cho Vô Kỵ thì sẽ được tha. Vi nhất định không chịu bán bạn cầu an nên bị Hứa Kỉnh Tôn tra tấn dã man.
Vi bèn tìm cách tự sát. Thấy Vi sắp chết, Hứa Kỉnh Tôn tâu báo là Vi đã cung khai Vô Kỵ mới là đầu não của
cuộc mưu phản, chứ không phải Toại Lương.
Được tin này, vua Cao Tôn rất xúc động. Vua ra lệnh cho một vị quan khác là Viên Công Hữa điều tra lại. Nhưng
Viên Công Hữa lại là một phe phái với Hứa Kỉnh Tôn, nên kết quả cuộc điều tra giống hệt như lời báo cáo của họ
Hứa.
Vua Cao Tôn vẫn không tin, nói:
- Báo cáo láo! Cậu ta không bao giờ lại làm việc đó. Làm như vậy ông có lợi gì?
Hứa Kỉnh Tôn đã sắp sẵn câu trả lời:
- Tâu Bệ hạ! Ngày trước chính Vô Kỵ là người đề nghị lập Lý Trung làm Thái tử, nay Trung bị truất, ông cảm
thấy địa vị mình bấp bênh nên phải tính kế. Vả lại ông là người chống đối Hoàng hậu, dĩ nhiên ông phải sợ mất
chức, ông mưu đồ đưa Trung lên ngôi là để bảo vệ địa vị hiện có.
Vua Cao Tôn rất buồn vì bãi chức Vô Kỵ là mất cánh tay phải, nên rất do dự, thở dài nói:
- Ta rất xấu hổ về việc này. Người trong gia đình mà phải bắt bớ nhau.
Kỉnh Tôn tâu thêm:

- Cần phải bắt Vô Kỵ ngay, vì ông thế lực rất lớn, nếu biết được việc này ông có thể hành động liều lĩnh.
Cao Tôn cũng cảm thấy không thể vì tình cảm mà không đề phòng mọi biến cố có thể xảy ra.
Tối hôm đó, trước mặt Võ Hậu, vua Cao Tôn đã phải ra lệnh chuyển Vô Kỵ ra đất Quí Châu. Vô Kỵ là người góp
phần vào việc tạo lập Nhà Đường. Tên ông gắn liền với Thái Tôn, vì vậy Cao Tôn cho phép ông giữ nguyên phẩm
tước và ra lệnh cho các quan địa phương phải tiếp đón ông như bậc đại thần của triều đình.
Năm sau, Hứa Kỉnh Tôn lại sai Viên Công Hữu ra Quí Châu buộc Vô Kỵ phải khai những đồng lõa trong việc
phản động để lấy cớ buộc tội những người bất phục mệnh lệnh của triều đình.
Vô Kỵ không thể làm việc bất công ấy và thấy đã hết chỗ dung thân, nên tự treo cổ tự vẫn.
Thế là ông không cung khai gì cả, nhưng Viên Công Hữu lại làm tờ khai giả mạo gởi về triều. Dĩ nhiên bọn Hứa
Kỉnh Tôn lợi dụng cái chết của ông để giả mạo lập tờ khai giả mạo vu cáo cho những kẻ không phục tùng.
Viên Công Hữu còn có nhiệm vụ ra đảo Hải Nam để hạch sách họ Hàn và ép ông này tự sát. Nhưng khi đến nơi
Hàn đã chết.
Sau đó gia đình Vô Kỵ và Hàn bị đuổi ra Quảng Đông để làm nô lệ.
Lúc đó Hoàng tử Lý Trung đã được 18 tuổi, đáng lẽ trong tuổi xuân tới tình cảm phải được tươi vui, nhưng trái lại,
chàng lúc nào cũng buồn bực, lo âu, khi thấy tên mình gắn liền với một âm mưu tưởng tượng, đã làm hại không
biết bao nhiêu trung thần. Chàng bị giáng xuống làm thứ dân, rồi lại bị đày đi Qúi Châu, nơi Vô Kỵ đã thở hơi
cuối cùng.
Qua một thời gian chứng kiến những thảm họa trong triều đình và những âm mưu sâu độc của người trong phe Võ
Hậu, Lý Trung cảm thấy mình lúc nào cũng sống trong đe dọa. Chàng thường ăn mặc giả gái và thay đổi chỗ ngủ
16


để tránh một cuộc ám sát có thể xảy ra.
Càng ngày chàng càng tiều tụy, cô độc, không ai dám nhắc đến. Tuy nhiên, Võ Hậu vẫn không đả động gì đến
chàng, vì thấy chàng còn có thể dùng được việc.
Qua năm năm, kể từ khi Võ Mỵ Nương lên ngôi Hoàng hậu, bốn đối thủ lớn nhất của bà đã bị triệt hạ. Đó là Toại
Lương, Vô Kỵ, Hàn và Lai. Riêng Lai không phải bị Võ Hậu giết, mà vì thất vọng nên đã tìm cách tử trận.
Giờ đây, Võ Hậu tự do thao túng triều đình, không còn ai ngăn trở. Mọi việc đều theo đúng ý bà.

LỜI BÀN

Từ âm mưu len lỏi vào cung để chinh phục quân vương, Võ Hậu trước tiên lộng quyền hãm hại đối thủ gần nhất là
Hoàng hậu và Vương Phi, sau đó khống chế và mua chuộc quần thần để kết thành phe đảng. Đó là một cuộc chiến
trong nội cung rất có mưu lược.
Tuy nhiên, ngoài việc chiếm uy quyền để sai khiến thiên hạ, Võ Hậu có một chủ trương độc quyền, phá bỏ ý thức
dân chủ, tự ý mình điều chỉnh chính sự, không chịu ai tham gia.
Chế độ độc quyền thì quyền hành chỉ ở trong tay một người, còn chế độ dân chủ thì được sự tham gia đóng góp
của những người để sàng lọc những cái hay đem ra áp dụng.
Cái mạnh của chế độ độc quyền là không bị rắc rối xáo trộn trong công tác điều hành, nhưng lại mù quáng, độc
ác, bởi lẽ muốn độc quyền tất nhiên phải tập trung quyền uy, mà tập trung quyền uy tất phải diệt trừ những kẻ
chống đối, nên trở thành một chế độ tàn nhẫn. Võ Hậu đã chọn lựa một chế độ độc tài nên hành động tàn nhẫn,
trái nhân đạo là chuyện đương nhiên.
Độc tài chỉ mạnh một lúc, còn dân chủ thì tồn tại lâu dài, vì độc tài chỉ làm thỏa mãn một người còn dân chủ thì
làm thỏa mãn được quần chúng.
Kinh nghiệm từ xưa, không có một chế độ độc tài nào mà tồn tại lâu dài được.
8. Kế hoạch tằm ăn lá dâu của của Võ Hậu
Lúc này vây cánh của vua Cao Tôn bị cắt đứt, nhưng Võ Hậu không cướp hẳn chính quyền mà cứ từ từ chiếm lãnh
từng mặt uy thế. Càng ngày bà càng tham dự nhiều hơn vào việc triều chính.
Sở dĩ bà đạt được lợi thế như vậy là vì tính bà có quan điểm dứt khoát và nghị lực theo đuổi mọi việc không chịu
bỏ dở. Bà đã thực sự giúp cho vua Cao Tôn rất nhiều nếu đứng về mặt cai trị thuần tuý.
Vua Cao Tôn cũng thừa nhận rằng triều thần nghe lời Võ Hậu nhiều hơn ông. Trong triều không ai dám đứng ra
bênh vực ông nữa. Guồng máy cai trị trở nên êm ả quá, không còn những lời phản kháng. Các gian thần như Hứa
Kĩnh Tôn, Viên Công Hữu tha hồ hoành hành, vơ vét của cải, chiếm vợ và tài sản của người khác. Lố bịch nhất là
họ Lý, hắn đã tổ chức đám tang của người mẹ dài hàng mười dặm, vậy mà Võ Hậu vẫn làm ngơ, chỉ vì nuôi dưỡng
trong lòng mọi người hễ ai vâng lệnh bà thì được chức trọng quyền cao. Chính bà là người duy nhất có quyền ban
cho những vinh dự ấy.
Nhưng có một chuyện khiến niềm vui của Võ Hậu không được trọn vẹn trong cuộc sống của bà. Đó là chuyện gia
đình thuở trước. Hồi còn nhỏ bà không được sung sướng gì, đến năm muời bốn tuổi bà được đưa vào cung và sống
xa nhà mấy năm liền. Thân phụ bà đã có hai người con trai trước khi cưới thân mẫu bà. Thân phụ bà tên Võ Song,
từng làm tướng dưới thời vua Thái Tôn nên bà cũng thuộc con nhà tướng.
Một hôm bà tổ chức một buổi họp trọng thể, mời tất cả thân quyền họ Võ của bà được vào nội cung. Hai người

con riêng của thân phụ bà cũng có mặt. Hai người này hiện là quan trong triều và là những cái gai trước mắt Võ
Hậu, vì tính tình không muốn a dua nịnh thần.
Thân mẫu Võ Hậu gọi là Dương Phu Nhân, hôm đó tỏ ra ngạo nghễ với hai người con riêng của chồng. Bà nói:
- Chắc các ngươi còn nhớ những ngày cũ? Và bây giờ thì sao?
Một người nói:
- Kể ra cũng hơi khó chịu. Em gái tôi bây giờ là Hoàng hậu, chắc mọi người tưởng lầm rằng chúng tôi có địa vị
hiện thời là nhờ em gái chứ không phải nhờ cha chúng tôi thưở trước.
Câu nói châm biếm đó làm Dương Phu Nhân giận tái người.
Bà nói với Võ Hậu:
- Không để chúng nó lân la trong triều chính.
Võ Hậu lập tức đuổi hai người ra làm quan ở những miền xa xôi hẻo lánh. Trong chiếu chỉ, Võ Hậu có ghi: “Làm
như vậy để chứng tỏ Hoàng hậu không thiên vị người nhà”.
Một người vừa ra tới Lũng Châu thì chết, còn một người cố sống, nhưng rồi cũng bị ghép tội và bị xử tử. Cái chết
của hai người không cần ai biết tới…

17


Vua Cao Tôn lúc này tánh nết trở nên bất thường. Ông phẫn uất vì có miệng mà nói không ra lời, nên thường cáu
kỉnh và buồn rầu. Khi ăn uống ông không còn cảm thấy ngon miệng nữa. Trái lại Võ Hậu thì ăn uống rất khỏe, nên
trong các bữa ăn vua thường ngồi đờ ra nhìn bà vợ ăn hết món này đến món khác.
Thấy vua không ăn, Võ Hậu hỏi:
- Bệ hạ không ăn sao?
Vua đáp:
- Không.
Vua Cao Tôn nhìn sự vật xung quanh với vẻ chán ghét kể cả những thức ăn cao lương mỹ vị nữa, lòng ông chứa
ẩn một mối hận triền miên. Chỉ những lúc hài hước ông mới mở miệng nói vài câu cho đỡ buồn, nhưng giọng nói
mỉa mai, chua chát đến cùng cực.
Hồi còn làm Chiêu Nghi, Võ Hậu có viết một đoạn văn, nhan đề: “Các đức tính của người vợ hiền”. Một hôm Cao
Tôn nói với bà:

- Tối hôm qua trẫm đọc lại đoạn văn của ái hậu, trẫm rất thích đoạn văn nói: “Việc quan trọng của người đàn bà là
giữ phận mình trong nhà. Người đàn bà phải gọn gàng sạch sẽ, ít nói và chăm chỉ may vá, thêu thùa, phải coi trọng
những ý thích của chồng và nhất là phải hiếu thuận với cha mẹ chồng và họ hàng nhà chồng để giữ được hòa khí
trong gia đình…”. Thật là một đoạn văn súc tích. Ái hậu có nghĩ như thế không?
Võ Hậu biết vua châm biếm mình, nhưng chỉ trả lời bằng cách im lặng.
Trong thời gian thành đạt trên quyền uy, có hai thứ mà Võ Hậu sợ nhất là cái chết của Vương hậu và mèo. Đã
nhiều lần, bà thấy bóng ma của Vương hậu và Triệu Phi hiện về và bà đâm ra sợ mèo khủng khiếp, vì người ta bảo
mèo là hiện thân của ma quỉ. Bà có cảm giác những hồn ma lởn vởn trong cung không rời. Có lần bà trông thấy
hai bóng ma xuất hiện ngoài hành lang, đầu tóc bù xù, chúng quơ hai bàn tay đã cụt hết ngón, máu chảy ròng ròng
tiến tới định chụp lấy người bà… Trong giấc ngủ, bà thường trông thấy một dòng sông nhuộm máu, nổi lềnh bềnh
hàng trăm bàn tay đỏ chói.
Sở dĩ Võ Hậu bị ám ảnh như vậy là vì lúc Vương hậu sắp chết chỉ buồn rầu nói:
- Đó là lỗi nơi tôi. Tôi đã tưởng lầm Võ Mị Nương là người bạn tốt. Khi chết tôi sẽ biến thành một con mèo. Lúc
con điếm đó ngủ tôi sẽ cắn cổ nó cho đến chết.
Những lời nói này được bọn thám tử thuật lại cho Võ Hậu nghe và cứ ám ảnh mãi trong tâm bà. Vì vậy bà ra lệnh
đuổi hết mèo ra khỏi cung điện. Thà bà chịu đựng hàng đàn chuột lúc nhúc còn hơn là trông thấy một con mèo.
Một hôm Võ Hậu nói với vua Cao Tôn:
- Thiếp đang tìm một vị ngự y để săn sóc Bệ hạ. Một người còn trẻ tuổi như Bệ hạ tại sao không thể…
Cao Tôn ngắt lời nói:
- Trẫm đâu có bệnh tật gì. À, phải rồi, trẫm đang nghĩ đến Triệu Phi và Vương hậu. Ta nhớ đến tình bạn khắng
khít giữa khanh và Vương hậu. Khanh đã dùng nàng làm phương tiện để tiến thân. Miệng khanh thơm tho mà
trong bụng rất độc. Khanh đã hại nàng. Nếu nàng không đem khanh ra khỏi cõi tu hành thì ngày nay khanh ra sao?
Một mình Triệu Phi giá trị gấp mười đứa… ni cô như khanh.
Võ Hậu nói:
- Hãy im miệng ngay! Bệ hạ không phải là người đàn ông. Đàn ông gì lại chỉ biết đỗ lỗi cho người khác.
Trong cung, Võ Hậu chỉ không thấy ma khi bà đi Lạc Dương để giải khuây, vì bà đoán chừng như những con ma
đó không theo bà đến Lạc Dương. Do đó, bà thường đi Lạc Dương và nghỉ ở đó thật lâu. Ví dụ như năm 657, bà đi
Lạc Dương ba lần vào tháng giêng, tháng bảy và tháng chạp. Bà có ý định biến nơi này thành Đông Đô.
Vào tháng hai năm 660, khoảng thời gian Vô Kỵ bị buộc phải tự sát, vua Cao Tôn bắt đầu ngã bệnh, không lúc nào
được khỏe khoắn trong người. Lợi dụng cơ hội ấy, Võ Hậu cho xây một cung điện mới gọi là Bồng Lai Điện, lấy

cớ là ngôi điện trước bị ẩm thấp, hại cho sức khỏe của vua, nhưng thật ra bà hy vọng đổi chỗ ở sẽ tránh khỏi
những hồn ma ám ảnh bà.
Tòa Bồng Lai Điện về sau đổi tên là Đại Minh Điện, rất rộng rãi, vô số phòng ốc và vườn thượng uyển. Xây cung
điện ngoài sức dân các quan văn võ đều phải đóng góp một tháng lương để giúp vào việc chi phí.
Nhưng không may, hồn ma lại xuất hiện trong cung điện mới. Việc này làm cho vua Cao Tôn và Võ Hậu xích
mích nhau hơn.
Bà làm cho vua Cao Tôn điên đầu về những ý tưởng kỳ lạ. Tháng tư năm 662 bà đổi tên cơ cấu chính quyền từ cao
xuống thấp, mãi tám năm sau mới được đổi lại tên cũ. Bà thích cái gì mới lạ, nặng về mê tín dị đoan.
Thời gian này có bà Hồ Lao, nữ Công Tước đất Hàn thường đến Hoàng cung chơi, vì là chị em ruột với Võ Hậu.
Bà được phép tự do ra vào cấm cung và ăn uống cùng bàn với vua và Hoàng hậu.
Mọi người thường thấy bà bên cạnh vua Cao Tôn. Bị Võ Hậu chế nhạo mình không phải đàn ông, vua Cao Tôn
bực mình thường cặp kè với bà Công Tước và người con gái chưa tới hai mươi của bà. Vua tìm thấy một sức lôi
cuốn ở bà này mà Võ Hậu không có.
Sự thân mật giữa vua Cao Tôn và bà Công Tước làm cho Võ Hậu ngứa mắt. Khi gần gũi bà Công Tước này vua có
vẻ yêu đời trở lại sau mấy năm sống gần Võ Hậu. Người khác thì có thể chấp nhận hai chị em sống chung một
chồng, nhưng Võ Hậu thì không chịu nổi. Bà quyết ra tay.
18


Một hôm, bà Công Tước bị chết co quắp sau bữa cơm tối. Hiển nhiên bà đã bị đầu độc. Người ta đã quá quen
thuộc với cảnh đàn ông trái ý Hoàng hậu bị đuổi đi xa rồi chết ngoài ngàn dặm còn đàn bà được lòng vua thì bị
trúng độc lăn ra chết ngay trong cung.
Võ Hậu tỏ ra rất thương xót bà chị, tổ chức đám tang rất linh đình.
Một lần nữa vẻ mặt vua Cao Tôn lại chứa đầy chán nản và thất vọng. Ông ngồi kiểm điểm lại những hành động
của Võ Hậu làm cho ông cảm thấy rùng mình, sợ hãi và khinh bỉ. Vương hậu, Triệu Phi rồi bà Công Tước, rồi đến
ai nữa đây? Bỗng dưng vua cảm thấy mình có lỗi.
Cao Tôn càng ngày càng thấy mình cô độc, bị giam trong bốn bức tường cao ngất, không biết ai trò chuyện. Ông
đã mất quyền cai trị bên ngoài lại còn mất cả tự do trong nhà. Mỗi bước đi của ông đều bị theo dõi, quản thúc. Ông
không thể đến gần một bóng hồng nào hết, vì bóng hồng và thuốc độc đã gắn liền nhau.
Vua Cao Tôn bề ngoài vẫn giữ vẻ bình thản với Võ Hậu, nhưng Võ Hậu linh cảm thấy ông rất thù hận bà. Vì vậy

bà muốn an ủi ông, dỗ dành ông như đứa trẻ. Bà đóng kịch rất khéo làm cho vua Cao Tôn có lúc mềm lòng tưởng
chừng như bà vẫn thương ông như tự thuở nào. Nhưng dù sao Cao Tôn vẫn không tìm thấy sự thoải mái, ông
thường nơm nớp sợ mình có điều gì sơ hở và bị Võ Hậu chộp lấy để khai thác.
Dần dần trong đầu vua Cao Tôn nghĩ phải trừ khử Võ Hậu. Ông ao ước được sống tự do, ông tưởng tượng cảnh
ông làm vua, có cung nữ hầu hạ ríu rít xung quanh, giờ đây không còn nữa, đến việc trị thiên hạ cũng vượt khỏi
tầm tay rồi. Xung quanh đầy nhóc những gian thần như Hứa Kỉnh Tôn. Còn các trung thần như Vô Kỵ, Toại
Lương, Hàn, Lai đều đã chết, chỉ còn có một Lý Tích còn sống nhưng đang chinh chiến tại Cao Ly.
Năm 663, sau khi tòa cung điện mới hoàn tất, Cao Tôn tìm thấy một cơ hội tốt. Võ Hậu cho xây dựng cung điện
mới này là để tránh những hồn ma, nhưng chúng vẫn theo đuổi bà. Điều này rất dễ hiểu vì hai tòa cung điện chỉ
cách nhau một khu vườn. Võ Hậu cho mời một tay pháp sư đến để trấn ếm. Thời gian trấn ếm kéo dài trong nhiều
đêm, khiến người ta phải nghi ngờ. Ai có thể biết được Võ Hậu và tên pháp sư đã làm những trò gì trong mấy đêm
đó.
Một hoạn quan cho Cao Tôn hay chuyện này. Nhà vua rất hồ nghi và quyết định đi xem thực tế việc này ra sau.
Tối hôm đó, Cao Tôn đi thẳng đến địa điểm. Sau khi đi hết dãy hành lang thì tới ngôi bảo tháp, nơi cầu đảo của tên
pháp sư, ông thoáng thấy một con tỳ nữ đứng canh chừng nơi góc vườn, vừa trông thấy vua, con tỳ nữ liền biến
mất. Sau đó, ông thấy bóng con tỳ nữ in trên khung cửa sổ sáng lờ mờ của ngôi cổ tháp. Ông vội chạy tới góc
vườn, nơi đây ông có thể thấy rõ bóng người từ tầng thứ hai ánh sáng chói lên. Nhưng ông phải làm gì bây giờ?
Xông vào bắt quả tang chăng? Chắc chúng đã được báo động vì ánh đèn tự nhiên tắt phụt. Biết đã chậm, vua lững
thững quay về phòng.
Ngày hôm sau Võ Hậu tìm cách giải thích:
- Tối hôm qua Bệ hạ làm gì mà lảng vảng ở ngôi cổ tháp vậy?
Vua Cao Tôn nói:
- Trẫm đi dạo mát cho khỏe đấy mà.
Võ Hậu nói:
- Sao Bệ hạ lại đi dạo nơi tối tăm đó? Sao bệ hạ không lên tháp để xem pháp sư trấn ếm?
Vua Cao Tôn nói:
- Trẫm lên đó để làm gì? Trẫm đâu có thích pháp sư!
Mấy ngày liền, vua Cao Tôn không nhắc nhở đến chuyện này cốt để Võ Hậu không đề phòng. Rồi một tối ông lại
đi rình xem hành động của hai người.
Rất may cho ông là lần này con tỳ nữ không trong thấy ông. Mãi đến khi đến chân tháp nó mới phát giác và lập

tức chạy lên lầu. Ông vội chạy theo để nó không kịp báo động.
Lên đến nơi, ông thấy hai người vừa buông nhau ra, tên pháp sư đang sửa lại dây lưng, còn Võ Hậu thì quần áo
xốc xếch, y như ông đã thấy nhiều lần trong phòng ngủ của ông. Hai ly rượu còn đặt trên sàn.
Võ Hậu có vẻ luống cuống:
- Bệ hạ đến xem pháp sư trấn ếm ư? Pháp sư vừa ngưng tay để nghỉ một lát thì Bệ hạ đến …
- Trẫm biết rồi.
Cao Tôn vừa nói vừa quay lưng trở xuống. Võ Hậu nói vói theo:
- Sao Bệ hạ không ở lại xem. Ở trên này cần phải tắt đèn thì mới yên lặng để trấn ếm được.
Cao Tôn nói:
- Tại sao trấn ếm lại phải có người đứng xem? Một mình hắn trấn ếm không được sao? Trẫm tưởng việc trấn ếm,
trừ khử tà ma thì phải làm ở ngoài trời, tại sao phải làm ở trong phòng kín và tắt đèn?
Nói xong, Cao Tôn bỏ xuống dưới, mặc cho hai người trong phòng đang ngồi thở hổn hển. Ông đã nhìn thấy tận
mắt như vậy là đủ rồi.
Cao Tôn đã khổ quá nhiều với cuộc sống với Võ Hậu, nay ông lại tìm ra một bằng cớ để truất phế Hoàng hậu. Giờ
đây ông chỉ còn cần đến can đảm là xong.
Một lúc sau, Võ Hậu lại vào phòng Cao Tôn nũng nịu:
- Sao Bệ hạ không ở lại. Cung điện này luôn luôn có ma, chắc Bệ hạ không biết thiếp ngày đêm sợ hãi dường nào.
Thiếp tin rằng tên pháp sư kia có thể trấn ếm được. Cuộc trấn ếm hấp dẫn lắm, sao Bệ hạ không ở lại xem?
19


Vua Cao Tôn nổi giận nói:
- Hừ! Đối với người khác thì ngươi là một Hoàng hậu còn đối với ta ngươi chỉ là một đứa đạo đức giả, một con
điếm.
Võ Hậu hết lời giải thích và năn nỉ, nhưng vô ích. Cuối cùng bà đứng dậy và nói:
- Thôi được! Thiếp ra ngoài để Bệ hạ có thời giờ để suy nghĩ. Bệ hạ sẽ thấy thiếp làm như vậy là phải.
Ngày hôm sau, Cao Tôn kể chuyện này và nói ý định mình cho quan Trung Thư Thị Lang là Thương Quan Nghị
nghe. Ông này là người duy nhất còn tại triều vua có thể tin cậy được.
Thương Quan nghị tâu:
- Xin bệ hạ giao cho thần soạn cho Bệ hạ một chiếu chỉ, nhưng Bệ hạ đừng cho ai biết. Trong chiếu chỉ thần sẽ

không nói đến chuyện ngoại tình, mà chỉ buộc tội Hoàng hậu đã dùng tà thuật trong cung và tội đã đầu độc bà
Công Tước, tội đã giết hại các công thần như Vô Kỵ, Toại Lương. Đại để nói là Hoàng hậu không còn xứng đáng
nữa nên phải truất phế.
Vua gật đầu nói:
- Được lắm! Khanh hãy về mà thảo chiếu. Nhớ giữ tuyệt đối bí mật.
Nhưng mọi việc không đơn giản như vua Cao Tôn nghĩ. Thực ra mọi việc làm của vua Cao Tôn đều được theo dõi
và được báo lại cho Võ Hậu biết.
Chiều hôm đó Cao Tôn đang ngồi đọc lại bản chiếu chỉ thì Võ Hậu bước vào. Bà nhìn cử chỉ vua Cao Tôn một
cách nghi ngờ, mắt bà như toé lửa, còn Cao Tôn thì mặt mày xanh như tàu lá.
Bà rít lên:
- Có đúng như vậy không?
Vua Cao Tôn hỏi:
- Đúng cái gì?
Võ Hậu nói:
- Bệ hạ đừng giả vờ nữa. Thiếp biết cả rồi. Đây là chiếu chỉ mà!
Bà đưa mắt nhìn tờ giấy vàng để trên bàn, làm cho Vua Cao Tôn lúng túng, nói:
- Không phải! Đây chỉ là một bản thảo.
Võ Hậu gầm lên:
- Đưa đây !
Như cái máy vua Cao Tôn đưa tờ chiếu cho Võ Hậu. Bà đọc qua một lần, rồi nghiến răng xé nát tờ chiếu ra làm
mảnh vụn, rồi hỏi:
- Ai viết tờ chiếu này?
Vua Cao Tôn ngồi yên.
Võ Hậu nói:
- Đây là nét bút của Thương Quan Nghị, có đúng không?
Cao Tôn gật đầu.
Võ Hậu nói:
- Chắc Bệ hạ không ngờ thiếp lại biết hồi trưa này Bệ hạ vào phòng Thương Quan Nghị và đóng kín cửa để bàn
luận. Trứơc khi đọc tờ chiếu thiếp đã biết nội dung nó ra sao rồi.
Cao Tôn vẫn yên lặng.

Võ Hậu ngồi xuống dịu giọng nói:
- Thiếp có vài lời ấp ủ từ lâu mà chưa có dịp nói với Bệ hạ. Nhân tiện đây thiếp xin tỏ bày. Thiếp mong Bệ hạ
đừng bao giờ nghe những lời dèm pha lếu láo. Thiếp cậy người đến trừ ma trong cung có gì mà Bệ hạ phải giận dữ
như vậy. Có bao giờ thiếp thiếu bổn phận với Bệ hạ đâu.
Vua Cao Tôn ngồi yên. Võ Hậu nói tiếp:
- Gần đây, thiếp thấy bệ hạ càng ngày càng phiền muộn và cáu kỉnh, thiếp nghĩ rằng Bệ hạ không khỏe nên không
nói gì. Thiếp còn bận bao nhiêu công chuyện cung điện mới, chuyện triều chính… Tại sao thiếp lại trằn trọc mỗi
đêm? Đó là vì mãi suy tính các việc phải làm, phác họa các kế hoạch, quyết định những vấn đề quan trọng về triều
thần và đường lối cai trị. Tất cả những việc đó là để giúp Bệ hạ muốn Bệ hạ được những công nghiệp vĩ đại. Nếu
có ai muốn thay thiếp lo cho Bệ hạ, thiếp sẵn sàng nhường ngay.
Vua Cao Tôn đang bối rối và nhức đầu. Ông không muốn bàn đến chính trị trong giờ phút này ông nói:
- Làm ơn để cho tôi yên.
Nhưng Võ Hậu vẫn cứ nói tiếp:
- Bệ hạ kém thông minh khi nghĩ rằng thiếp đã giết chị ruột thiếp, thiếp có những điều mờ ám trong đó. Hơn nữa
Bệ hạ nên nhớ rằng có những việc mình không muốn nhưng vẫn phải làm. Ví dụ như trường hợp Vô Kỵ và Toại
Lương. Bệ hạ yếu lòng quá nên mới tin được bọn họ. Bệ hạ tưởng tượng xem số phận của chúng ta sẽ ra sao khi
không ra tay trước?
Vua Cao Tôn bực bội nói:
- Khanh lúc nào cũng có lý.
Võ Hậu nói:
20


- Đúng như vậy. May mà thiếp phá vỡ âm mưu kịp thời. Nếu thiếp không cứng rắn thì giờ này Bệ hạ đâu còn ung
dung ngồi trên ngai vàng. Làm vua, Bệ hạ phải xử sự như một ông vua. Thiếp chỉ tiếp tay cho Bệ hạ mà thôi. Bệ
hạ có biết vì sao thiếp xây tòa cung điện này không? Đây cũng vì Bệ hạ. Thiếp luôn luôn bận rộn là để giúp Bệ hạ
trở thành ông vua vĩ đại. Bệ hạ hãy nhìn xem đất nước rộng lớn của chúng ta đã sai khiến bao nhiêu lân quốc.
Nước Cao Ly cũng trở thành chư hầu. Có bao việc bệ hạ phải làm, thiếp đang sắp đặt nhiều chương trình lớn lao
giúp Bệ hạ. Chúng ta sẽ xây thêm nhiều đền đài, cung điện thật hùng vĩ hơn các triều đại khác để tỏ ra mình là ông
vua có cơ nghiệp lớn. Bệ hạ đừng ngồi đây để nghe lời kẻ khác nói vào nói ra.

Qua lời thuyết dụ của Võ Hậu, Cao Tôn muốn xiêu lòng. Ông cảm thấy choáng váng vì bị xúc động. Cuối cùng
ông nói một cách buồn rầu:
- Ta biết khanh có thể tự mình cai trị, không cần đến trẫm.
Võ Hậu nói:
- Điều đó thiếp làm được, nhưng thiếp chỉ muốn giúp Bệ hạ. Có lẽ bệ hạ đang yếu trong người, vậy Bệ hạ nên đi
ngủ, đừng nghỉ ngợi vẩn vơ nữa.
Vua Cao Tôn thở dài, cam chịu số phận. Bao nhiêu hy vọng được tự do đã trở thành mây khói.
Với phản ứng nhanh nhẹn, Võ Hậu đã lật ngược tình thế. Bà càng nghĩ bao nhiêu bà càng căm giận kẻ đã âm mưu
truất phế ngôi Hoàng hậu của bà.
Võ Hậu biết mình luôn luôn có sẵn một con dao trong tay để cho các triều thần một bài học đầu tiên mà cũng là
cuối cùng trong ý thức chính trị. Bà cho gọi Hứa Kỉnh Tôn gắn cho Thượng Quan Nghị liên quan âm mưu phản
loạn của Lý Trung, rồi ra lệnh chém đầu ông. Gia đình ông ta bắt làm nô lệ tại các vùng xa.
Mỉa mai thay, ngày sau một đứa cháu gái của Thương Quan Nghị được đem vào cung và làm lũng đoạn triều đình
dưới thời vua Trung Tôn. Nhưng việc này chúng ta sẽ gặp lại cô bé ấy ở cuối truyện.
Những âm mưu tưởng tượng xung quanh việc Lý Trung đã được lợi dụng quá mức và trở nên cũ rích, Võ Hậu cảm
thấy không còn dùng vào việc gì nữa nên Võ Hậu cho phép vị Hoàng Tử này được treo cổ tự vận, khỏi bị xử tử
giữa công chúng. Lúc đó hoàng Tử Lý Trung mới hai mươi hai tuổi. Vua Cao Tôn biết việc đó nhưng không cứu
được đứa con của mình.
LỜI BÀN
Âm mưu chính trị là một con dao để tiêu diệt kẻ thù. Võ Hậu đang nắm con dao ấy trong tay.
Nhà chính trị nào lại không mưu đồ sự nghiệp của mình và tiêu diệt đối phương, nhưng khác nhau ở chỗ nhân đạo
hoặc vô nhân đạo mà thôi.
Kẻ vô nhân đạo khi cầm con dao ấy trong tay thì chỉ nghĩ đến quyền lợi mà không nghĩ đến tình người, còn kẻ có
lòng nhân thì mưu đồ cho hạnh phúc của thiên hạ.
Võ Hậu đã giết cả các trung thần, đến những người thân thích của mình nữa, chỉ vì tham vọng cá nhân. Tham
vọng cá nhân càng lớn thì sự tàn nhẫn càng to.
Sau khi ra tay tàn sát mọi người, Võ Hậu cũng bị lương tâm cắn rứt. Vì sự cắn rứt ấy mà sanh ra sợ hãi, mộng mị
triền miên. Ấy vậy dù lòng người tham vọng, tàn ác đến đâu cũng có lúc lương tâm trỗi dậy trừng phạt.
Đó là một tấm gương xử thế.
9. Khi một ông vua không làm vua

Từ ngày vua Cao Tôn mưu sự không thành, tình trạng ông trở nên bi đát. Chứng đau thần kinh hành hạ ghê gớm
làm cho ông đau nhức, tê liệt mình mẩy, lúc thì tỉnh táo, lúc thì thẩn thờ.
Ông thường lấy thú vui bằng tay chân để giải khuây. Ông cưa các hình gỗ để đánh bóng, có lúc lại bày những đồ
chơi trẻ con để vui với cô Sao San, con gái bà Công Tước đã qua đời. Cô này đã trở nên một thiếu nữ mười tám
tuổi rất xinh đẹp. Hiển nhiên ông không quan tâm gì đến việc triều chính, để giao cho Võ Hậu đảm đương.
Mấy năm tiếp theo, sức khoẻ ông bị nhiều khủng hoảng nên ông thường bãi bỏ các buổi chầu, vì ông có lâm trào,
các triều thần tâu gì ông cũng chẳng nghe. Do đó một thông lệ được đặt ra là trong mỗi buổi chầu Võ Hậu ngồi
phía sau một bức rèm giúp vua đối đáp với triều thần. Dần dần các quan vào chầu quen chờ nghe tiếng đàn bà hơn
tiếng đàn ông. Điều này chẳng hay ho gì, nhưng Võ Hậu viện cớ phải giúp vua trong lúc bệnh hoạn.
Người ta gọi chế độ này là là chế độ nhị thánh lâm trào.
Một Hoàng hậu hiếu động đã làm cho vua mệt nhoài. Trong lúc Cao Tôn chỉ thích thơ thẩn trong cung để cùng
Sao San ngắm những con cá vàng bơi lội thì Võ Hậu lại cứ bày trò bắt ông phải đi. Khi thì thăm cung điện nơi Lạc
Dương, lúc thì ra chơi tận Thiên Sơn, vừa đi vừa về phải mất sáu tháng. Nhất là bà bắt vua đi dự những nhũng
cuộc lễ tế thánh ở Phong Sơn và các lễ hành hương để kỷ niệm một triều đại mới.
Vua Cao Tôn nói:
- Trẫm có thể ủy nhiệm cho người khác không?
Võ Hậu nói:
- Bệ hạ phải đi vì đây là một trọng lễ.
Cao Tôn nói:
- Nhưng núi thánh ở gần Sơn Đông, cách đây cả ngàn dặm, làm sao trẫm đi nổi?
21


Võ Hậu nói:
- Bệ hạ đừng lo. Bệ hạ sẽ nghỉ nhiều lần ở dọc đường và có đủ mọi tiện nghi cho Bệ hạ.
Vua Cao Tôn thở dài nói:
- Mục đích tổ chức lễ Phong Sơn là để làm gì vậy?
Võ Hậu nói:
- Để cảm tạ Thượng đế đã cho chúng ta thái bình và thịnh trị. Ngày xưa các tiên đế cũng thường tổ chức đi lễ này.
Bệ hạ phải noi gương.

Vua Cao Tôn có vẻ bực bội, nói:
- Thái bình thịnh trị là gì? Vứt bỏ hết, trẫm mang theo mấy con dế được không?
Võ Hậu cau mày, nói:
- Thôi đừng nói xàm nữa.
Cao Tôn nói:
- Trẫm nói thực mà. Khanh phải chọn bốn đứa để trông dế cho trẫm. Có bao nhiêu người đi tất cả.
Võ Hậu nói:
- Khoảng mấy trăm người.
Cao Tôn nói:
- Trời đất! Các Thượng Thư và các triều thần đều muốn tháp tùng chúng ta trong chuyến ngự giá đặc biệt này, nếu
kể cả người hầu cũng phải trên một ngàn người mới đủ. Nhưng Sao San có đi theo đượckhông?
Võ Hậu hỏi:
- Nó đi để làm gì?
Cao Tôn nói:
- Vậy trẫm cũng không đi.
Sao San được phong làm nữ Công Tước sau khi mẹ nàng mất. Nàng là một cô bé vui tươi, quen sống trong nhung
lụa. Tánh nết vui tươi trước những trò chơi quí phái của đàn ông. Tâm hồn nàng còn ngây thơ đến nỗi có thể khóc
hu hu khi mất một con dế của nàng bị thua con dế của vua. Cao Tôn thấy vậy cũng làm bộ ôm mặt khóc theo, rồi
bất chợt hai người nhìn nhau cười xòa. Hai người vẫn tự hào là không ai hiểu được họ. Đã mấy năm nay, Sao San
ở trong cung mà không ai nói cho nàng hay về những điều mờ ám trong cái chết của mẹ nàng. Thực ra không ai
dám rước họa vào thân.
Còn nàng, tuy tận mắt chứng kiến mẹ nàng chết, nhưng chỉ cũng tưởng đó là một tai nạn ngẫu nhiên.
Vẻ hồn nhiên của Sao San làm cho Vua Cao Tôn thích thú.
Một hôm hai người đi dạo chơi trong vườn, nàng đưa tay ôm choàng qua người ông. Đối với nàng, Cao Tôn chỉ là
chồng của dì mình, nên cử chỉ nàng rất tự nhiên. Nhưng Cao Tôn vội nói:
- Đừng làm như vậy.
Sao San thụt tay lại, ngạc nhiên hỏi:
- Sao thế?
Cao Tôn ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Coi chừng dì cháu trông thấy.

Sao San càng ngạc nhiên:
- Trông thấy thì sao? Cháu không hiểu.
Cao Tôn hỏi lại:
- Cháu không hiểu thật sao?
Ông nhìn mặt cô bé một lát, rồi bất giác ông thở dài, đưa mắt nhìn về phía xa lẩm bẩm:
- Ta đã giết mẹ cháu. Thật ra ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của mẹ cháu. Vì ta quá thân mật với bà mà bà bị
giết.
Sao San có vẻ bàng hoàng. Những việc này vượt ra ngoài bộ óc ngây thơ của nàng.
Nhưng rồi Cao Tôn lại nói tiếp:
- Chuyện này rất bí mật. Mẹ cháu bị chết vì bị đầu độc. Dì cháu dám làm bất cứ điều gì, vì vậy ta bảo cháu phải
coi chừng, đừng bao giờ để lộ cho dì cháu biết là ta rất mến cháu. Nếu có việc gì xảy ra ta phải ân hận suốt đời.
Cao Tôn không nói những chi tiết bí mật, những nguyên nhân sâu xa của sự việc, vì ông không muốn đầu độc bộ
óc ngây thơ non trẻ của Sao San.
Sau đó, Sao San được theo Cao Tôn và Võ Hậu đi Thái Sơn.
Lễ Phong Sơn là một lễ lớn, tổ chức vào tháng tám vào dịp thật đặc biệt. Đó là một cuộc hành trình xa xôi, chậm
chạp, làm tê liệt guồng máy chính quyền trong hàng sáu tháng thời và ảnh hưởng đến các sinh hoạt địa phương,
những nơi mà vua ngự giá đi qua. Cuộc lễ lôi cuốn theo tất cả triều đình vời hàng chục ngàn người ngựa, xe, trâu,
các thị vệ của vua cũng như các vương hầu.
Lệnh triệu tập ban ra, tất cả các vương tước và đại thần trừ những người mắc việc quân binh, còn tất cả phải tập
trung nơi Lạc Dương. Gần đến ngày khởi hành ngoài đường luôn luôn tấp nập ngựa xe. Các đoàn người kéo dài
hơn bốn mươi dặm, chật ních xe cộ. Nói tóm lại, vùng đất của ba tỉnh lớn bị đảo lộn dưới gót chân của đoàn người
vĩ đại này.
22


Tháng mười hai, đoàn người tiến vào địa phận tỉnh Sơn Đông và nghỉ tại Tế Châu mười ngày trước khi đi Thái
Sơn.
Cuộc hành lễ dự định bắt đầu từ ngày mồng một tết.
Ngày mồng một tháng giêng lễ trời, ngày mồng hai lễ núi, ngày mồng ba lễ đất vua và các người dự lễ phải tẩy uế
và cữ sắc dục từ mấy ngày trước.

Một điều đặc biệt có vẻ khôi hài là trong buổi lễ lại có Võ Hậu. Theo cổ lệ, đàn bà không được dự lễ, nhưng lần
này Võ Hậu nói với vua là phải sửa đổi để bà tham dự. Vua biết làm như vậy là sai luật, phạm vào điều cấm kỵ của
tiền nhân nhưng cũng phải chấp thuận, vì nếu không, cuộc lễ cũng không thành.
Đoàn người đến Lạc Dương vào tháng tư. Vừa đi vừa về đúng sáu tháng. Chuyện đáng nói nhất trong chuyến đi
này là chuyện về Sao San, cô gái ngây thơ của bà Công Tước.
Đối với Võ Hậu, về bà con thân thuộc, không kể hai người anh cùng cha khác mẹ đã bị đày đi xa và chết vì tay bà,
thì còn có một số người khác như anh em họ và ba người chú.
Trong thời gian hành lễ tại Thái Sơn, hai người anh họ của bà là Vị Lương và Hoài Nguyên cũng có đến dự. Sao
San được gặp hai ông cậu, nên rất mừng vui. Trong lúc chuyện trò nàng không quên kể cho hai người nghe chuyện
Võ Hậu mưu hại hai người anh cùng cha khác mẹ của bà và chuyện bà đã giết mẹ nàng bằng thuốc độc. Không
may lúc ba người nói chuyện có kẻ rình nghe và báo lại cho Võ Hậu biết. Bà vẫn làm lơ như không để ý, ân cần
mời hai người anh họ về kinh đô chơi. Hai người này đang làm quan tại Sơn Đông.
Rồi một ngày kia, Vị Lương và Hoài Nguyên được mời cùng dự yến. Theo lời dặn của Võ Hậu, hai người lựa vài
món thổ sản thật ngon đem đến cùng ăn.
Trong khi chờ đợi Cao Tôn đến, Võ Hậu bảo thị nữ mang mấy thứ hai người mới mang tới để ăn thử. Sao San
cũng được chia phần, nhưng khi nàng vừa nuốt vào một lúc thì bụng quặn đau, mặt nàng tái nhợt. Một lúc sau,
máu từ mũi nàng trào ra mọi người sợ hãi đem nàng đi nằm. Có điều đáng chú ý là trừ nàng ra, không ai bị điều gì
cả.
Khi vua Cao Tôn tới, thấy cô bé đang lăn lộn, giống như những trường hợp ông đã thấy, nên ông đoán biết là cô ta
sẽ không khỏi chết. Cao Tôn nhớ lại trường hợp bà Công Tước trước đây cũng giống hệt như vậy.
Đêm hôm đó Sao San tắt thở. Nàng ra đi giữa tuổi tươi đẹp nhất của người con gái, làm cho Cao Tôn ruột gan tan
nát lòng ông lại trải qua những chua chát cay đắng đã từng nếm.
Đối với một cô bé ngây thơ, vô tội, người ta lại có thể tàn ác như vậy sao?
Anh em Vị Lương cũng rất kinh hoàng, còn Võ Hậu thì giả đò khóc lóc, than:
- Trời ơi! Cháu tôi! Chị tôi mất để lại có mình nó, bây giờ trời cũng bắt nó đi nữa sao? Cũng tại hai tên sát nhân
này. Thiếp biết chúng định giết Bệ hạ, nhưng không may Sao San ăn phải.
Thế là Vị Lương và Hoài Nguyên bị bắt quả tang về tội giết người, có Võ Hậu làm chứng. Hai người bị đem ra xử
tử.
Cả ba người biết nhiều về chuyện Võ Hậu đã trở thành những người kín miệng nhất.
LỜI BÀN

Tham vọng và lương tâm không thể tồn tại trong một con người Võ Hậu giết hại tất cả chị em, con cháu cũng chỉ
vì tham vọng đã thắng đạo nghĩa làm người.
Trong con người tham vọng nặng về cá nhân, lúc nào cũng muốn có người tâng bốc mình là kẻ lỗi lạc hơn kẻ
khác. Chính vì thế mà khi một người nào biết được cái xấu của mình thì Võ Hậu tiêu diệt không để tiết lộ ra ngoài,
dù người đó là chị em, con cháu.
Lòng vị kỷ con người xuất phát từ háo danh, tự cao, tự đại. Võ Hậu đã viết ra một tập sách dạy người đời phải
nhân từ, thế mà Võ Hậu lại không làm được điều mình nói.
Ấy vậy, giá trị con người căn cứ vào việc làm, không thể căn cứ vào lời nói. Lời nói chỉ là phương tiện để phỉnh
phờ, lừa gạt, còn hành động mới thực là giá trị chân chính của con người.
10. Những chấm đen trên ngày tàn ngôi báu
Vua Cao Tôn cảm thấy mình không khác gì một con chim bị nhốt trong lồng, khônng còn một con chim nào khác
để bầu bạn, đùa hót. Đã vậy, các cơn đau hành hạ triền miên, tóc ông đã bạc màu rất nhiều. Niềm an ủi của ông
hiện giờ là Thái tử Hoằng, một vị Thái tử có nhiều triển vọng khi nối ngôi.
Hoằng là một thành niên trẻ tuổi, hăng hái, luôn giữ tư cách của một Thái tử và là con trai đầu lòng của Võ Hậu, dĩ
nhiên không ai có thể mưu giết chàng.
Năm 673, vua hoàn toàn suy yếu, Thái tử phải thay vua lo việc trong các Bộ để vua và Hoàng hậu về nghỉ tại
Đông Đô ở Lạc Dương. Chỉ những việc quan trọng Thái tử mới hỏi ý kiến vua, hay nói đúng hơn là hỏi ý kiến của
Võ Hậu.
Nói tóm lại việc triều chính bây giờ có thể chia làm ba giai đoạn: Mười năm đầu, việc lâm trào thường xuyên do
vua Cao Tôn, thỉnh thoảng có Võ Hậu. Mười năm thứ nhì là giai đoạn Nhị Thánh, hai người cùng lâm trào nghị sự
23


và mười năm cuối cùng là giai đoạn Thánh Hậu, chỉ có Võ Hậu thường xuyên dự việc triều chính, còn vua Cao
Tôn thì nằm liệt giường..
Trong giai đoạn thứ ba, từ năm 674 trở đi, Võ Hậu toàn quyền hành động. Kỷ nguyên mới bắt đầu với một chương
trình hành động rất kêu. Võ Hậu khởi thảo ra một bức thư trình với vua Cao Tôn đường lối chính trị của mình và
công bố cho triều thần biết.
Trong bản thào có những điều cải tổ xã hội như sau:
1) Phát triển nông nghiệp và nghề tằm, tăng, giảm bớt công việc cho giới lao động.

2) Miễn thuế cho các tỉnh phía Tây Bắc.
3) Vãn hồi đạo đức để chung sống hòa bình.
4) Cấm xa hoa, lãng phí.
5) Giảm thiểu đến mức tối đa việc trưng tập binh lính.
6) Tự do phát biểu ý kiến.
7) Không chấp nhận những quan lại bất chính và những quan lại chỉ biết nghe lệnh một cách mù quáng.
8) Tất cả các quan lại và các bậc vương tôn, công tử đều phải học Đạo Đức Kinh của Lão Tử là người cùng họ Lý
với vua đời Đường.
9) Thời gian để tang cho mẹ là ba năm dù cha còn sống, tượng trưng sự bình đẳng giữa nam và nữ.
10) Những quan lại về hưu vẫn giữ nguyên chức hiệu và phẩm trật.
11) Các quan ở Kinh đô từ bát phẩm trở lên đếu được tăng luơng.
12) Các quan thâm niên đều được cứu xét và thăng trật nếu có công.
Ba điểm sau cùng giúp Võ Hậu được lòng nhiều người trong giới quan lại toàn quốc. Nói một cách tổng quát thì
các nhà chính trị có một cái nhìn chung không ai chê trách bảng kế hoạch hành động này, nhất là điểm vãn hồi đạo
đức để chung sống hoà bình.
Tuy vậy, những chuyện bực mình vẫn xảy ra, luôn luôn đeo đuổi vua Cao Tôn, để ông trở thành con người không
còn biết đâu là chân giả nữa.
Thái tử Hoằng là người có học thức, có chút lý tưởng và nhạy cảm giống như vua cha thuở còn trẻ, nên từ lúc còn
thơ ấu chàng đã tự rèn luyện để sau này làm người kế vị. Các học giả uyên bác được mời vào cung để chỉ dẫn
chàng tất cả các môn, kể cả làm quen với việc triều chính. Hiện chàng đã hai muơi ba tuổi và được trao quyền dần
dần. Trong hai năm 671 và 672 chàng đã giữ trọn quyền tại Trường An để vua cha dưỡng bệnh ở Lạc Dương.
Chàng cưới con gái một vị học giả, nên vị học giả này cùng các bạn của ông hết lòng phò tá chàng. Mọi việc tiến
triển rất tốt đẹp.
Trong thời gian nghiên cứu nghệ thuật cai trị, Hoằng đã học tập rất nhiêu đức tính của các tiên vương, tức là lòng
nhân ái và việc lo lắng cho dân. Chàng rất cảm thông đời sống cơ cực của đám binh lính, nhưng vì chưa lên ngôi
nên chưa có một cải cách nào để giúp họ. Chàng chê trách việc bắt vợ con các lính đào ngũ làm nô lệ. Tuy chế độ
này giúp quân đội Thái Tôn hùng mạnh, nhưng theo chàng biết có nhiều lính không đào ngũ mà lại bị ghép vào tội
đào ngũ. Vì sau một trận đánh luôn luôn có những kẻ thất lạc không về trình diện được vì lý do bất khả kháng như
người bơi qua sông bị chết đuối, người bị đau ốm bất ngờ, hay bị quân thù bắt v.v. Sẽ có sự lầm lẫn lớn nếu chỉ
kiểm điểm xác chết tại trận chiến và những người mất tích đều coi là đào ngũ và đem vợ con họ ra trừng trị.

Năm 672 – 673 trời làm hạn hán, nạn đói khắp nơi, khi đi viếng thăm binh lính, Thái tử Hoằng thấy họ chỉ ăn toàn
vỏ trái cây rừng, chàng bèn ra lệnh lấy gạo từ kho riêng ra để phân phát cho họ. Chàng còn xin phép vua cha chia
đất công cho họ cày cấy.
Những hàng động trên đưa Tháu tử Hoằng đến chỗ chống đối với mẫu hậu. Chàng tán thành việc thi hành kỷ luật,
nhưng phản đối gay gắt những hành vi tàn ác, tư thù vị kỷ.
Một hôm Hoằng đến Lạc Dương chơi và khám phá hai người con gái của Triệu Phi là Nghi Dương và Cao An
hiện đang sống cô độc nơi hậu cung. Họ đều đã luống tuổi mà chưa hề được tính chuyện chồng con. Thật ra họ bị
giam lỏng, không có cách gì đi lấy chồng được.
Thái tử Hoằng đi tìm Võ Hậu nói:
- Thưa mẹ! Trong sách thánh hiền con gái lớn lên phải đi lấy chồng, sao con thấy hai chị của con vẫn phải ở độc
thân. Họ không thể làm hại triều đình được đâu, xin mẹ hãy dung tha cho họ đi lầy chồng.
Võ Hậu không thể từ chối những lý lẽ hợp với nhân đạo này. Tuy nhiên, bà nghĩ rằng đối xử với hai người như
hiện thời cũng đã là dễ dãi rồi. Tất cả thân quyến của Triệu Phi đều phải bị đày xa xứ, nhưng bà để lại hai người
con ruột của Triệu Phi ở trong cung là để tránh tiếng dị nghị bên ngoài. Bà trả lời với Thái tử Hoằng là bà nhiều
việc quên mất hai người ấy và hứa sẽ cho họ đi lấy chồng. Sau đó bà đem hai ngườigã cho hai tên thị vệ. Hàng
động này có vẻ bỉ ổi, vì dù sao hai cô gái này cũng là con ruột của vua Cao Tôn. Võ Hậu làm những việc sai trái
như vậy, nhưng bà lại không muốn con bà đem sự việc ra phán đoán.
Cách một tháng sau, lại một chuyện nữa làm cho Thái tử giận điên người, và vợ chàng cũng rất buồn.
Đó là vợ Hoàng tử Triết là Đào Phi, một người đàn bà rất hiếu thuận. Mẹ của Đào Phi là Công Chúa Trường Lạc
hay ra vào nội cung và đã mấy lần Võ Hậu bắt gặp bà cặp kè với Cao Tôn. Võ Hậu giận lắm, nhưng không giết chỉ
đổi hai vợ chồng Công chúa đi xa và cấm lai vãng về triều. Dĩ nhiên việc này không dính dáng gì đến Đào Phi,
24


nhưng Võ Hậu cũng đem nàng nhốt vào một căn buồng và sai người ngày ngày đưa cơm cho nàng. Ít lâu sau
người ta phát hiện nàng đã chết trong buồng vì đói khát.
Thái tử Hoằng biết rõ Võ Hậu đã ra lệnh bỏ đói nàng. Hoàng tử Triết cũng biết vậy, nhưng không dám đến thăm
vợ, hoặc có ý kiến gì. Triết thì muốn im lặng, nhưng Hoằng nhất định phải nói và chàng đi tìm mẹ để phản đối.
Khi thấy chàng, Võ Hậu đã biết ý, bà giữ vẻ mặt rất nghiêm Thái tử đến trước mặt Hoàng hậu nói:
- Muôn tâu Mẫu Hậu! Hài nhi trộm nghĩ Mẫu hậu đã viết một cuốn sách tán dương những người đàn bà đạo đức,

vậy mà nay trong nhà mình lại có một người đàn bà bị bỏ chết đói thì thật là đáng buồn.
Câu nói như một tiếng sét đánh vào đầu Võ Hậu, làm cho bà giận run lên. Gã con trai của bà dám nói với bà như
vậy sao? Con bà muốn ám chỉ gì đây? Từ khi bà đuổi cha mẹ Đào Thị đi xa, Đào Thị tỏ ý bất mãn, mấy ngày liền
không mở miệng nói với bà một tiếng, cử chỉ như vậy không đáng tội sao? Một con dâu dám trái ý với mẹ chồng
đâu còn là đạo đức.
Võ Hậu nói với Thái tử Hoằng:
- Đứa con dâu vô lễ, ta trừng phạt như vậy không đáng hay sao? Còn nó muốn nhịn đói mà chết để phản đối ta thì
đó là quyền của nó. Đừng quên bổn phận làm con. Đừng lên mặt dạy ta.
Thái tử vẫn bình tỉnh nói:
- Vậy mà hài nhi tưởng Mẫu Hậu muốn nghe những lời thẳng thắn cởi mở. Nếu hài nhi không lầm thì tự do phát
biểu ý kiến là một trong mười hai điều mà Mẫu Hậu đã đưa ra để tránh bất công. Hài nhi vào đây chỉ muốn can
ngăn, giúp đỡ Mẫu Hậu.
Võ Hậu ngắt lời, giọng đầy vẻ hăm dọa:
- Đủ rồi, ngươi có thể lui ra.
Muời tám ngày sau Thái tử Hoằng chết trong một cuộc đi chơi cùng vua cha và Hoàng hậu. Chàng ăn phải một
món ăn khó tiêu nào đó, dù chàng là con ruột đầu lòng của Võ Hậu.
Thái tử Hoằng chết làm cho mọi người náo loạn. Ngay tối hôm đó, vua và Hoàng hậu trở về cung, Cao Tôn
thương Hoằng hơn tất cả mọi thứ trên đời. Ông lẩm bẩm tính những người bị giết trong gia đình: Vương hậu,
Triệu Phi, Bà Công Tước, Sao San, Đào Phi, Lý Trung và bây giờ là Hoằng.
Suốt đêm đó, Cao Tôn run rẩy bên xác con. Hôm sau, ông không chịu ăn cơm. Khi mọi người ép vào phòng ăn,
ông cũng chỉ ngồi vào bàn chứ không ăn. Trông ông thật tiều tụy, chỉ đăm đăm nhìn Võ Hậu với vẻ khác lạ.
Võ Hậu nói:
- Bệ hạ đừng buồn rầu thái quá. Nên ăn một chút cho khỏe.
Vua Cao Tôn bất bình, đứng vùng dậy, đưa tay gạt hết các món ăn trên bàn, rồi chỉ mặt Võ Hậu, với giọng nói
khàn khàn:
- Chính ngươi đã giết con ta.
Võ Hậu tái mặt. Vua Cao Tôn lẩm bẩm:
- Ta với ngươi đến đây là hết. Ngươi không thể tha thứ ai trên đời này. Tại sao ngươi lại bắt mẹ Đào Thị đi xa để
ta không được gặp bà. Tại sao ngươi lại bỏ đói Đào Thị cho chết.
Cao Tôn ngưng một chút rồi tiếp:

- Tại sao Sao San lại chết? Hãy nói cho ta biết, ngươi đã làm gì nó? Ngươi giết nó bởi vì nó biết nhiều chuyện của
ngươi làm phải không?
Mặt Võ Hậu bỗng xanh lè trông thật gớm ghiếc. Cao Tôn định đưa tay tát vào mặt Võ Hậu, nhưng chưa tát đã té
xỉu xuống đất, may có Hoàng tử Hiền chạy đến kịp đỡ lên. Chàng đưa vua vào phòng, nhưng mắt vua vẫn còn
đang toé lửa, hơi thở dồn dập. Võ Hậu bỏ ra ngoài không trở lại thăm Cao Tôn. Chưa bao giờ trong cung lại xảy ra
chuyện như vậy.
Hoàng tử Hiền ở lại săn sóc vua Cao Tôn và đêm đó vua Cao Tôn nói với chàng:
- Ta trao tất cả cho con đó. Ta không muốn làm vua nữa. Ta muốn được yên thân. Sơn hà xã tắc mà làm gì? Hãy
để ta yên.
Ngày hôm sau, Cao Tôn cho gọi một số triều thần vào và tỏ ý nhường ngôi lại cho Hiền, nhưng mọi người đều can
gián. Cao Tôn nghĩ lại và truy phong cho Hoằng làm Hoàng đế và ra lệnh tổ chức đám tang theo nghi thức của nhà
vua. Lăng Thái tử Hoằng được xây cất rất đồ sộ. Công việc xây cất rất công phu.
Một năm sau, vợ Hoằng cũng buồn rầu sinh bệnh mà chết.
LỜI BÀN
Tình mẫu tử là thiêng liêng, trời ban cho con người mối tình đó trong cõi sống. Không có người mẹ nào lại không
thương con, nhưng ở đây tình mẹ của Võ Hậu lại bị hủy diệt trước tham vọng quyền uy và danh lợi.
Võ Hậu đã xây dựng danh dự mình trên quyền uy mà quyền uy chỉ là cái địa vị hão huyền trong cuộc sống, còn
bản chất và giá trị con người lại là phẩm chất cao cả của con người.
Muốn có danh thơm tiếng tốt không phải chỉ củng cố địa vị, uy quyền, mà phải chú trọng đến bản chất con người.
Dù có quyền uy, địa vị cao đến đâu mà phẩm chất con người không xứng đáng thì danh vọng không ai kính nể.

25


×