Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tình hình công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý tại trung tâm viễn thông điện lực điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.37 KB, 69 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Đại học Phần mở đầu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện mục tiêu trên con người luôn là nhân tố
hàng đầu, nhân tố quan trọng nhất quyết định nhất. Con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự nghiệp cách mạng nói chung và của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước nói riêng.
Hiện nay, chúng ta tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
một lực lượng lao động đông đảo có đủ kiến thức, kỹ năng, nghề nghiệp, có phẩm chất
đạo đức để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế trong xu hướng cạnh tranh
và hoà nhập đang là đòi hỏi cấp thiết.
Lý luận cũng như thực tiễn chứng minh rõ, một trong những yếu tố quan trọng quyết
định chất lượng và trình độ của lực lượng lao động đặc biệt là các hoạt động tổ chức của doanh
nghiệp đó là trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý. Công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước yêu cầu đội ngũ cán bộ phải đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới cách
thức quản lý sao cho phù hợp tình hình thực tế và đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của công
cuộc hoà nhập kinh tế khu vực, kinh tế thế giới cũng như của địa phương, của đất nước.
Xuất phát từ thực trạng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý doanh
nghiệp trong những năm qua của Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên, trong tình
hình đổi mới đất nước với áp lực môi trường Viễn thông cạnh tranh ngày càng gay gắt
và công cuộc mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu cho thấy: Đa số cán bộ quản lý của
Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên chưa được đào tạo có hệ thống về quản lý,
làm việc dựa vào kinh nghiệm cá nhân là chính, tính chuyên nghiệp chưa cao. Năng lực
điều hành quản lý của một bộ phận cán bộ quản lý còn bất cập. Công tác tham mưu, xây
dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và thực thi công vụ còn nhiều khó khăn.
Kiến thức và pháp luật về tổ chức bộ máy, về quản lý nhân sự nhất là về quản lý tài
chính còn nhiều hạn chế, dẫn đến lúng túng trong thực thi trách nhiệm và thẩm quyền,
đặc biệt khi được nhà nước phân quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm. Phần lớn cán bộ
quản lý của Trung tâm còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ, kỹ năng sử dụng công nghệ


thông tin.Trong khi đó một số không ít bộ phận cán bộ quản lý trên địa bàn tỉnh Điên
Biên nói riêng và trong cả nước nói chung, còn hiện tượng chạy theo thành tích chưa
thực sự chuyên tâm với nghề nghiệp, chưa làm tròn trách nhiệm và nhiệm vụ được giao,
có nơi còn buông lỏng quản lý, không đấu tranh với tiêu cực thậm chí còn thoả hiệp
tham gia vào các hiện tượng tiêu cực tiếp tay cho những kẻ gian dối mất phẩm chất
trong công việc. Tệ tham ô, bòn rút của công, sách nhiễu, lãng phí vẫn còn tồn tại ở mức
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
1
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Phần mở đầu
độ và hình thức khác nhau trong bộ máy lãnh đạo, quản lý. Tình trạng suy thoái về
phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ Đảng viên làm cho nhân dân bất
bình lo lắng và giảm lòng tin. Đội ngũ cán bộ quản lý chưa được đổi mới căn bản vẫn
còn tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Trình độ năng lực mọi mặt của cán bộ quản lý còn có
sự hẫng hụt so với yêu cầu của công việc trong điều kiện, tình hình mới. Hiệu quả quản
lý và phục vụ nhân dân chưa thực sự đáp ứng được do yêu cầu công việc đổi mới đặt ra.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém, khuyết điểm nêu trên, cũng như
đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp đổi mới tránh nguy cơ tụt hậu thì một yêu
cầu đặt ra phải đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý của Trung tâm viễn
thông Điện lực Điện Biên , nhằm có một đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp có đủ số
lượng cũng như chất lượng đáp ứng được đòi hỏi của cơ chế thị trường Viễn thông cạnh
tranh cũng như thời kỳ cách mạng mới của đất nước.
2. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng của công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ
quản lý doanh nghiệp của Điện lực Điện Biên, Trung tâm viễn thông Điện lực Điện
Biên. Đề tài đề xuất biện pháp đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp Trung
tâm viễn thông Điện lực Điện Biên đáp ứng đòi hỏi của cơ chế thị trường Viễn thông
cạnh tranh đang diễn ra khá khốc liệt cũng như đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và tỉnh Điện Biên.
Để đạt được mục tiêu trên ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, khóa luận được kết cấu thành 3 chương

Chương 1 - Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý và công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp
Chương 2 – Tình hình công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý tại Trung tâm
Viễn Thông Điện lực Điện Biên
Chương 3 - Một số biện pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản
lý tại Trung Tâm Viễn Thông Điện lực Điện Biên
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁN BỘ QUẢN LÝ VÀ CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
1.1 ĐÀO TẠO CÁN BỘ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm về cán bộ quản lý doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế đều có cán bộ quản lý doanh nghiệp, phần
lớn cán bộ quản lý doanh nghiệp ở nước ta đều là những cán bộ giỏi, có kinh nghiệm
chuyên môn, nghiệp vụ, có uy tín với đồng nghiệp, được tín nhiệm và bổ nhiệm làm
công tác quản lý. Cán bộ quản lý các cấp ở doanh nghiệp đã phát huy được vai trò quản
lý, chỉ đạo góp phần ổn định và phát triển các doanh nghiệp đồng thời tham mưu tích
cực có hiệu quả nhằm phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy cán bộ quản lý doanh nghiệp chính là những cán bộ chỉ đạo và quản lý
trong doanh nghiệp nhất định, họ cùng chung mục đích tập hợp những biện pháp (tổ
chức, cán bộ, kế hoạch hoá, chỉ đạo sản xuất). Nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường
của doanh nghiệp, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống doanh nghiệp cả
số và chất lượng, họ làm theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh
thần. Họ quyết định sự thành bại của một tổ chức, cơ quan trong hệ thống doanh
nghiệp.
1.1.2 Khái niệm về đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp

Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của quản lý doanh nghiệp thì mỗi cán bộ
quản lý cần phải được đào tạo và bồi dưỡng, đây là công việc phải được tiến hành
thường xuyên nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác hoạt động của đội ngũ.
• Khái niệm về đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp
Từ điển tiếng Việt: “Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những
tiêu chuẩn nhất định (43-289)
Theo từ điển Hán Việt - Giáo sư Nguyễn Lân cho rằng: Đào tạo là giáo dục, bồi
dưỡng cho thành người. Ví dụ: Trường tốt, Thầy tốt, Cô tốt sẽ đào tạo nên những đứa
con xứng đáng sau này (Phạm Văn Đồng) ( 24-192)
Do vậy đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp được hiểu rằng: Là quá trình hoạt
động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo, thái độ để hoàn thiện nhân cách cho người cán bộ, tạo tiền đề cho họ có thể vào
đời hành nghề quản lý một cách năng suất và hiệu quả. Đào tạo cán bộ quản lý doanh
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
3
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
nghiệp cũng có thể được hiểu là hoạt động thiết yếu của nhà quản lý nó đảm bảo sự phối
hợp, sự nỗ lực của mỗi cá nhân trong tổ chức nhằm đạt được các mục đích của nhóm
trong điều kiện thời gian, công sức và kinh phí bỏ ra ít nhất nhưng đạt được hiệu quả
cao nhất.
• Khái niệm về bồi dưỡng cán bộ quản lý
Khái niệm bồi dưỡng có thể được hiểu như sau: “Bồi dưỡng là làm cho tăng
thêm năng lực hoặc phẩm chất (Từ điển tiếng Việt). Ví dụ: Bồi dưỡng thế hệ Cách
Mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần thiết (Hồ Chí Minh) (43-82)
Tổ chức giáo dục khoa học văn hoá liên hiệp quốc (UNESCO) định nghĩa: Bồi
dưỡng với ý nghĩa là nâng cao nghề nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ
chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân
nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp.

Lại có định nghĩa như sau: Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức
và kỹ năng còn thiếu hoặc lạc hậu trong một cấp học, bậc học và trường học xác nhận
bằng một chứng chỉ.
Trong doanh nghiệp việc bồi dưỡng là rất cần thiết cho đội ngũ cán bộ nói chung
và đội ngũ cán bộ quản lý nói riêng, một số đã có nhiều năm công tác, kinh nghiệm
quản lý nhiều nhưng kiến thức mới cần bổ xung lại rất thiếu, phần thiếu phải được tiếp
tục tích luỹ, đó là điều kiện bắt buộc để tránh khỏi tụt hậu. Vì vậy người quản lý cao
nhất doanh nghiệp phải có tầm nhìn chiến lược, phải coi trọng việc đầu tư trí tuệ cho đội
ngũ cán bộ quản lý, phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ bản chất giữa dùng người và
Bồi dưỡng người
Trong xu thế hiện nay, chúng ta đang hướng tới xã hội học tập, học tập suốt đời
thì việc bồi dưỡng lại càng vô cùng cần thiết, nó trở thành nhu cầu cần thiết của mỗi cá
nhân và nhất là đối với cán bộ quản lý của doanh nghiệp.
1.2 CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ YÊU CẦU CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
Đại hội VII giữa nhiệm kỳ và đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động của
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá
mới có thể xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chế độ mới . Công nghiệp hoá, hiện
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
4
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
đại hoá là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh,
giữ được ổn định chính trị, xã hội bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát
triển XHCN.

Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần không thể tách rời nhau. Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn
để giải phóng và phát triển sức sản xuất đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan
trọng. Chính sách này đã khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước
khai thác tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp có lợi
cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật,
không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh, cơ chế thị trường đòi hỏi phải
hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì
lợi ích phát triển của đất nước chứ không phải phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn
lực, thôn tính lẫn nhau. Tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh của
doanh nghiệp, các cơ quan chính quyền không can thiệp vào những việc thuộc chức
năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.
Do vậy một yêu cầu đòi hỏi của CNH-HĐH và phát triển kinh tế nhiều thành
phần đặt ra là phải nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của người
Việt Nam. Trong đó đặc biệt chú trọng tới đội ngũ cán bộ quản lý các doanh nghiệp bởi
vì đội ngũ cán bộ quản lý các doanh nghiệp được đào tạo bồi dưỡng nâng cao kiến thức
phù hợp với đòi hỏi của CNH- HĐH thì mới phát huy được vai trò quản lý, chỉ đạo,
mới góp phần ổn định và phát triển các doanh nghiệp điều đó cũng đồng nghĩa với việc
làm ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chỉ có qua đào tạo và bồi dưỡng
chúng ta mới khắc phục được những tồn tại, hạn chế, yếu kém, khuyết điểm của công
tác cán bộ quản lý doanh nghiệp có chất lượng và số lượng hợp lý, chuyên nghiệp hiện
đại, có đủ phẩm chất trình độ và năng lực để thi hành công vụ thực hiện có hiệu quả
quản lý doanh nghiệp, trong sạch, tận tuỵ phục vụ phát triển kinh tế của đất nước.
1.3 LÝ LUẬN MÁC LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ
1.3.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Trong bất cứ xã hội nào, sự thành công hay thất bại của sự nghiệp cách Mạng
đều do đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trong đó cán bộ giữ một vị trí vô
cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng Đảng và nhà nước, là người đại diện của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động để thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước

giao cho. Ở đâu có đội ngũ cán bộ có trình độ, tư tưởng chính trị và năng lực vững
vàng thì ở đó mọi đường lối chủ trương của Đảng đều đạt được hiệu quả cao nhất. Nói
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
5
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
về người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Lê-nin đã khẳng định họ như Ngọn đèn
pha soi sáng đường đi cho quần chúng.
Lãnh tụ là một người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, điều này đã được Lê nin chỉ rõ: Trong lịch sử chưa có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những
lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào.
Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng giành chính quyền và trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu không có cán bộ thì đường lối chính trị dù hay mấy cũng
không trở thành hiện thực được và nếu có lực lượng cán bộ hiểu về đường lối chính trị
và có năng lực công tác thì đường lối chính trị đó sẽ được thực hiện và thành công,
điều này được I. Stalin khẳng định rằng: Muốn áp dụng vào thực tiễn một đường lối
chính trị đúng, thì phải có cán bộ, phải có những người am hiểu đường lối chính trị của
Đảng, nhìn nhận đường lối đó, bảo vệ nó, đấu tranh để thực hiện nó.
Trong bất cứ phong trào cách mạng nào, người cán bộ cũng luôn gương mẫu
trong mọi lĩnh vực. Họ luôn đi đầu trong mọi công việc, sẵn sàng hy sinh cả tình riêng
tư để hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Nhiều phong trào cách mạng đã nẩy
sinh ra nhiều cán bộ cách mạng chuyên nghiệp, ưu tú, biến chủ trương của đảng, Nhà
nước thành hiện thực, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì vậy
mà người cán bộ và đường lối cách mạng luôn có mối quan hệ lẫn nhau, phong trào
cách mạng tạo ra những cán bộ cách mạng ưu tú và ngược lại những cán bộ ưu tú lại
làm cho phong trào ngày càng lớn mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của một

tổ chức trong hệ thống chính trị. Họ là những con người vĩ đại trong sự nghiệp cách
mạng và đã được Các-mác khẳng định: Mỗi thời đại xã hội đều có những con người vĩ
đại, và nếu không có những con người như thế thì như He -vê -xi-u-xơ đã nói, thời đại
sẽ sáng tạo ra con người như thế.
Sự nghiệp cách mạng thành công hay thất bại là do đường lối đúng đắn của
đảng, trong đó cán bộ cũng là yếu tố không thể thiếu được để góp phần vào thắng lợi
của cách mạng. Nếu lựa chọn và bố trí cán bộ đúng người, đúng việc, có năng lực thì
phong trào cách mạng sẽ đi lên. Ngược lại, nếu tuyển chọn cán bộ không đúng người,
đúng việc thì sẽ có hại cho phong trào cách mạng. mà phong trào cách mạng của quần
chúng công nông, trước hết là phong trào công nhân là nguồn rộng lớn cung cấp những
cán bộ cho đảng. Công nhân chính là lực lượng cách mạng rộng nhất, tiên phong nhất
trong mọi lĩnh vực. Lê nin khẳng định, công nhân có bản lĩnh giai cấp và có chí tiến
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
6
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
thủ, tích cực về chính trị, nên họ có thể nhanh chóng thành những người dân chủ kiên
định .
Trong quá trình đấu tranh cách mạng, cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Lê nin luôn đề cao vai trò của người cán bộ. Người cho rằng cán bộ được
tôi luyện và trưởng thành từ phong trào quần chúng sẽ trở thành các lãnh tụ trong các tổ
chức.
Các Mác - Ph. Ang ghen còn cho rằng người cán bộ phải là những người tiêu
biểu cho lý tưởng, cho lẽ sống, dám hy sinh vì sự nghiệp chung và tự nguyện tham gia
vào hàng ngũ của người cách mạng. Qua đấu tranh cách mạng họ đã trưởng thành và
trở thành người cán bộ lãnh đạo và là tấm gương cho thế hệ sau noi theo. Về vai trò
lãnh đạo Mác và Ph. Ang ghen chỉ ra để thực hiện lý tưởng cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn.
Trong bất cứ lĩnh vực nào của cuộc sống, cán bộ là những người luôn gương

mẫu, đi đầu trong mọi công việc, không sợ khó khăn gian khổ. Đúng như I.Stalin đã
nói: cán bộ là những người không sợ khó khăn, không lẩn tránh khó khăn và cứ tiến
thẳng tới khó khăn để khắc phục và chiến thắng.
Đối với cán bộ lãnh đạo cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực trí
tuệ, phải đáp ứng được đòi hỏi của tổ chức đề ra, có thế thì mới thực hiện được đường
lối chủ trương của Đảng. Đồng thời khi gặp khó khăn không nản chí mà phải biết phê
bình, tự phê bình, nghiêm khắc kiểm điểm rút kinh nghiệm.
Cán bộ luôn giữ vai trò quan trọng mọi tổ chức, thành công hay thất bại của bất
cứ công việc nào, trong đó người cán bộ cũng đóng góp một phần của yếu tố đó.
Bởi vậy dù ở trong bất cứ một hoàn cảnh nào, người cán bộ cũng luôn trau dồi
cho mình những kiến thức cơ bản về khoa học kỹ thuật, về trình độ lý luận chính trị.
Học tập và nâng cao trình độ là không thể thiếu được của người cán bộ, việc học tập
không phải chỉ diễn ra ở lớp học mà còn là cả quá trình tự rèn luyện, tu dưỡng trong
thực tế. Lê nin vẫn thường dạy chúng ta là: Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng tôi
hiện nay là học tập, học tập nữa, học tập mãi.
Quan điểm của Lê nin là: Người cán bộ phải có lập trường giai cấp, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tinh thần cách mạng triệt để, đồng thời là người có hiểu biết, có
học thức. Để có được những yếu tố trên, đòi hỏi người cán bộ phải trang bị cho mình lý
luận Mác - Lê nin, đây chính là vũ khí sắc bén, kim chỉ nam cho mọi hành động. Bên
cạnh đó việc nâng cao kiến thức về khoa học kỹ thuật, công nghệ là điều rất cần thiết
cho mỗi cán bộ. Có như vậy cán bộ mới thực sự trở thành nòng cốt trong bộ máy tổ
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
7
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
chức của Đảng và Nhà Nước, xứng đáng với niềm tin của nhân dân. Đúng như Lê nin
nói, nếu chúng ta không học tập từ đầu chúng ta không giải quyết được vấn đề kinh tế.
1.3.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và
công tác đào tạo cán bộ trong sự nghiệp cách mạng

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cũng như công cuộc xây
dựng đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề cán bộ và công tác
cán bộ. Đảng ta khẳng định rằng: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ.
Trong xây dựng Đảng thì công tác cán bộ là một lĩnh vực quan trọng nhất, là
khâu then chốt của vấn đề then chốt. Cán bộ là người mang chủ trương đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước tuyên truyền cho quần chúng hiểu rõ và thi hành. Cán bộ là
người tập hợp những vướng mắc của quần chúng sau khi thực hiện các chính sách đó để
đảng, Chính phủ xem xét và đề ra những chính sách cho đúng, cho phù hợp. Để hiểu rõ
tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, chúng ta cần nắm vững một số vấn đề
sau:
Muốn làm tốt công tác cán bộ phải đặt cán bộ trong các mối quan hệ sau:
 Công tác cán bộ với đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng
Công tác cán bộ với đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Đường lối nhiệm vụ chính trị của Đảng đúng thì sẽ đào tạo ra đội
ngũ cán bộ tốt. (Ví dụ: Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đường lối lãnh đạo
của đảng là rất đúng đắn, cho nên chúng ta có rất nhiều cán bộ tốt dẫn đến cách mạng đã
thành công). Và ngược lại khi có lãnh đạo tốt thì mới đề ra được đường lối và nhiệm vụ
chính trị đúng. Muốn làm tốt công tác cán bộ thì phải căn cứ vào đường lối của Đảng.
Đường lối của Đảng đổi mới thì sẽ tạo ra những cán bộ giỏi làm kinh tế, những cán bộ
biết sử dụng công nghệ mới, hiện đại. Bên cạnh đó cán bộ đóng vai trò then chốt trong
việc thực hiện các đường lối và nhiệm vụ chính trị được thực hiện tốt, nó đóng vai trò
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Các cấp các ngành, các cơ quan đơn vị cần xác định đúng nhiệm vụ chính trị cho
cơ quan, đơn vị và từng cán bộ. Nếu xác định rõ nhiệm vụ chính trị mỗi cán bộ mới có
thể phấn đấu để trở thành cán bộ tốt. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Hồ Chủ Tịch đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, việc lựa chọn cán bộ. Người cho
rằng vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp
cách mạng và sự nghiệp xây dựng Đảng. Hồ Chủ Tịch khẳng định cán bộ là cái gốc của
mọi công việc và bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công .

Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
8
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
Trong quá trình thực hiện đường lối và nhiệm vụ chính trị của đảng thì người cán
bộ thường xuyên được kiểm tra, giúp đỡ bồi dưỡng cán bộ ngày càng phát huy năng lực
của mình hơn.
 Công tác cán bộ với tổ chức và phong trào cách mạng quần chúng
Cán bộ là nhân tố quan trọng của tổ chức, cán bộ là người lập ra tổ chức và điều
hành tổ chức. Mục tiêu của tổ chức xuất phát và phù hợp với nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà Nước trong giai đoạn đó. Muốn có cán bộ tốt cần gắn cán bộ với công tác
tổ chức, chăm lo xây dựng tổ chức. Trên cơ sở xây dựng tổ chức, xác định cần bao
nhiêu cán bộ, tiêu chuẩn ra sao. Từ đó có thể đề ra những căn cứ để lựa chọn, bố trí cán
bộ cho phù hợp. Để làm sao tuyển chọn cán bộ phải đúng người đúng việc, làm cho cán
bộ luôn gắn bó với tổ chức. Tránh tình trạng không đúng ảnh hưởng đến tổ chức, đến
công việc.
Thông qua phong trào cách mạng rèn luyện và đào tạo cán bộ tốt, Những cán bộ
này được nâng cao trình độ và kinh nghiệm hoạt động trong các lĩnh vực. Họ nắm chắc
tâm tư nguyện vọng của quần chúng, đồng thời những cán bộ này cũng được quần
chúng theo dõi, giám sát, kiểm tra và đánh giá xem có thực sự là cán bộ tốt không. Vì
vậy giữa cán bộ và phong trào quần chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu cán
bộ tốt thì phong trào sẽ mạnh, sôi nổi. Nếu cán bộ yếu kém về năng lực thì phong trào
yếu, đơn vị đi xuống. Nếu cán bộ yếu về phẩm chất thì sẽ phá hoại phong trào của đơn
vị. Cần lựa chọn cán bộ trưởng thành từ phong trào cách mạng quần chúng để đào tạo,
bồi dưỡng, đề bạt vào các chức danh của tổ chức đó.
 Quan điểm đổi mới của Đảng về công tác cán bộ
Quan điểm đổi mới về công tác cán bộ, trước hết là việc kiện toàn cơ quan làm tổ
chức cán bộ. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ được tiến hành đồng thời với việc củng cố
tổ chức Đảng, bộ máy nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các đơn vị sản xuất kinh doanh,

sự nghiệp. Đổi mới cơ chế chính sách phương thức, lề lối làm việc, đặc biệt chú trọng
đổi mới, chỉnh đốn các tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ. Bởi vì đây là tổ chức trực
tiếp làm tham mưu cho các cấp uỷ, thủ trưởng cơ quan nắm và quản lý cán bộ và nhu
cầu về cán bộ.
Đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực trung
thành với sự nghiệp đổi mới của Đảng, là người trung thực công tâm, sâu sát, họ luôn là
những cán bộ am hiểu về khoa học tự nhiên, xã hội, tâm lý và kinh nghiệm làm công tác
tổ chức, có khả năng sử lý thông tin để định ra được mục tiêu công tác cán bộ tốt hơn.
Nếu những cán bộ yếu kém về phẩm chất, thiếu trung thực, không công tâm, sâu sát thì
không thể làm tốt công tác tổ chức cán bộ được.
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
9
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
Các cấp uỷ Đảng và đích thân người làm lãnh đạo cần chăm lo xây dựng, đổi
mới tổ chức và đội ngũ quản lý làm công tác cán bộ. Liên hệ mật thiết với cán bộ để tìm
hiểu tâm tư, năng lực và sở trường, ý thức chính trị của cán bộ, từng bước xây dựng
khoa học về công tác cán bộ.
Đổi mới việc đánh giá cán bộ: Khi đánh giá cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn
chung đối với cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài tiêu chuẩn chung, khi đánh giá cán bộ cần dựa trên tiêu chuẩn phù hợp với
công việc cụ thể trong đơn vị mình. Việc đánh giá cán bộ là một vấn đề quan trọng, là
cơ sở sắp xếp, bố trí đề bạt cán bộ. Vì vậy cần được tiến hành theo một quy trình chặt
chẽ, khách quan, công tâm.
 Đổi mới và hoàn thiện chính sách cán bộ
Hệ thống chính sách cán bộ là công cụ quan trọng để tạo ra động lực xây dựng
đội ngũ cán bộ. Quan điểm cơ bản trong chính sách cán bộ là khuyến khích vật chất đi
đôi với xây dựng lý tưởng, hoài bão cách mạng. Động viên khuyến khích mọi người làm
việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả. Cần đổi mới một số chính sách như:

 Chính sách đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ, đầu tư thích đáng cho việc đào tạo
những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt, ưu tiên các đối tượng thuộc các
gia đình chính sách, những người có công với cách mạng.
 Chính sách sử dụng và quản lý cán bộ: Việc bố trí sử dụng cán bộ đúng tiêu
chuẩn phù hợp sở trường. Mạnh dạn đề bạt những cán bộ có năng lực, triển
vọng vào các cương vị lãnh đạo quản lý. Chú ý đề bạt cán bộ đúng lúc, đúng
người, đúng việc. Trong tình hình hiện nay, bên cạnh những cán bộ vững vàng
về chính trị, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, cần sử dụng cán bộ có
tư duy mới, có phong cách làm mới mang lại nhiều lợi ích cho đất nước.
Có chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ. Các cấp uỷ, thủ trưởng các cơ quan
nắm chắc từng cán bộ, cả về đức, tài và tình trạng sức khoẻ. Trên cơ sở đó có kế hoạch
sử dụng và đề bạt, khen thưởng và kỷ luật.
 Chính sách về đảm bảo vật chất và động viên tinh thần
Trên cơ sở tính toán khoa học, thực hiện tinh giảm biên chế, nâng cao năng suất
lao động, chống tham nhũng và lãng phí, mở rộng bảo hiểm xã hội, tăng tỷ lệ, động viên
thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước. Đổi mới cơ bản chính sách đảm bảo lợi ích
vật chất cho từng cán bộ, trước hết là chế độ tiền lương, nhà ở và phương tiện đi lại.
Tiền lương phải thực sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của người cán bộ, đảm
bảo tái sản xuất sức lao động. Thực hiện tiếp việc tiền tệ hoá tiền lương, biểu dương
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
10
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
khen thưởng kịp thời những người có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, trong
phát minh sáng chế khoa học và công nghệ, trong quản lý và công tác. Đi đôi với việc
khuyến khích vật chất, chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho cán bộ. Mục tiêu lý
tưởng cách mạng là động lực lớn nhất để thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán
bộ.
Đổi mới tư duy người làm công tác cán bộ. Người làm công tác cán bộ về mặt

phẩm chất có những tiêu chuẩn cao. Họ được thử thách và rèn luyện trên nhiều mặt, có
quan điểm lịch sử cụ thể, toàn diện và phát triển, có cách nhìn mới mẻ về sự vật, trung
thực, công tâm sâu sát, gần gũi quần chúng. Tất cả những phẩm chất này không phải tự
nhiên mà có, nó đòi hỏi người cán bộ phải rèn luyện và phấn đấu. Đồng thời tổ chức
đưa ra những tiêu chuẩn và phẩm chất cần thiết của người làm công tác cán bộ trên cơ
sở đổi mới tư duy một cách toàn diện. Trong điều kiện của đất nước hiện nay với sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, với chính sách mở cửa thì yêu cầu
rèn luyện của người làm công tác cán bộ là một đòi hỏi tất yếu khách quan với chất
lượng ngày càng cao. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: toàn Đảng phải
hết sức chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng
đủ bản lĩnh về các mặt.
1.3.3 Quan điểm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý tại Trung tâm viễn thông
Điện lực Điện Biên.
1. Sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý của Trung tâm viễn thông
Không phải bàn cãi là chúng ta muốn hay có nên đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản
lý Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên hay không mà phải khẳng định rằng :Đào
tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý là vấn đề cấp bách và sống còn của Trung tâm viễn thông
nói riêng và của Điện ực Điện Biên nói chung bởi vì trong một doanh nghiệp sức lao
động là một tài nguyên vô cùng quí giá ,đó là những tài năng của CBCNV thể hiện qua
trình độ lành nghề của họ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh . Để có thể đáp ứng
được các yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại và sự tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ cũng như đảm bảo sản xuất - kinh doanh có hiệu quả nhất thì Điện
lực Điện Biên và Trung tâm viễn thông Điện lực phải biết thường xuyên đào tạo và phát
triển trình độ nghề nghiệp cho nguồn nhân lực mình thông qua đội ngũ cán bộ quản lý
của Điện lực và của Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên.
Về mặt xã hội người ta khẳng định rằng : Nếu chúng ta không bỏ tiền đầu tư cho
lực lượng lao động có tay nghề cao hơn thì sẽ thấy ngay rằng xã hội có rất nhiều người
thất nghiệp.
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
11

Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
Qua thực tế cho thấy với một doanh nghiệp mới thành lập như Trung tâm viễn
thông Điện lực Điện Biên thì nhu cầu đào tạo nhân viên là một nhiệm vụ quan trọng và
cấp bách nhất bởi vì người lao động không được đào tạo không có trình độ thì dù hệ
thống máy móc và thiết bị có tinh vi hiện đại đến đâu đi nữa cũng trở thành vô nghĩa ,để
có được điều này thì đội ngũ cán bộ quản lý là những người tiên phong ,là những đầu
tầu về kiến thức do vậy họ phải được đào tạo ,bồi dưỡng kiến thức thật cơ bản và sâu
rộng để đáp ứng các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Một số quan niệm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý ở Trung tâm viễn thông
Điện lực Điện Biên.
- Trình độ lành nghề của cán bộ quản lý trong Trung tâm viễn thông Điện lực
được thể hiện ở mặt chất lượng sức lao động của người đó ,tức là nắm vững lý thuyết kỹ
thuật cũng như kỹ năng thực hành để hoàn thành những công việc có mức độ phức tạp
nhất định thuộc về tay nghề hay một chuyên môn nào đó .Trình độ lành nghề của CBQL
của Trung tâm viễn thông Điện lực có liên quan chặt chẽ với mức độ lao động phức
tạp,Lao động phức tạp thì trình độ lành nghề càng cao,trình độ lành nghề biểu hiện ở
tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ quản lý.
Để người CBQL Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên nói riêng và nguồn
nhân lực nói chung đạt tới một trình độ nhất định, trước hết phải bồi dưỡng nâng cao
trình độ lành nghề cho họ.
Đào tạo CBQL Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên nói chung là tổng hợp
những hoạt động nhằm nâng cao trình độ học vấn trình độ nghề nghiệp và chuyên môn
cho CBQL, Bồi dưỡng nâng cao trình độ lành nghề cho CBQL Trung tâm viễn thông là
hoàn thiện những hiểu biết và những kỹ năng cao hơn ,làm việc có hiệu suất và chất
lượng hơn.
3. Ý nghĩa của đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho CBQ Trung tâm viễn thông
Điện lực Điện Biên.
Đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người CBQL là một tất yếu khách

quan đối với Trung tâm viễn thông Điện lực, đối với người CBQL cũng như với xã hội.
• Đối với Trung tâm viễn thông Điện Lực
Đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho CBQL sẽ đảm bảo cho nguồn nhân
lực của Trung tâm có thể thích ứng và theo sát kịp thời sự tiến hóa và phát triển khoa
học kỹ thuật công nghệ,đảm bảo Trung tâm viễn thông có một lực lượng lao động giỏi
hoàn thành thắng lợi các mục tiêu của Trung tâm đặt ra ,đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay khi thế giới đã tiến tới một phương thức sản xuất mới ,hùng hậu nhiều hơn so với
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
12
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
trước đây “phương thức của kỷ nguyên điện tử - tin học - sản xuất theo chương trình
hóa – rô bớt hóa - vật liệu mới” nền kinh tế càng mở cửa và thị trường cạnh tranh làm
cho các doanh nghiệp Viễn thông trong đó có Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên
muốn tồn tại thì phải thích ứng với môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế,phải
thay đổi cách tư duy và hành động trong một điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ
hết .
• Đối với CBQL Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên
Trong điều kiện khoa học và kỹ thuật phát triển như vũ bão ,với các công nghệ
tiên tiến và hiện đại,người lao động phải luôn nâng cao trình độ văn hóa và nghề nghiệp
chuyên môn,quản lý để không bị tụt hậu.
• Đối với nền kinh tế
trong tương lai nền kinh tế vẫn phải chấp nhận một tình trạng thất nghiệp bởi vì
những thanh niên mới lớn và những người lao động không được học tập đào tạo liên tục
thì nguy cơ không theo kịp sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật càng phát triển .Con
người càng có ít cơ hội tìm được việc làm nếu như không biết chuẩn bị cho mình một
trình độ học vấn, một trình độ nghề nghiệp nhất định.
Hay nói một cách khác tóm tắt hơn, lợi ích của đào tạo bồi dưỡng CBQL đối
với TTVT như sau:

- Đối với Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên: Cải thiện được kiến thức
nghề nghiệp và kỹ năng của nguồn nhân lực doanh nghiệp,từ đó họ sẽ phấn khởi vì
được phát triển ,có điều kiện nhận thức tốt hơn mục tiêu của doanh nghiệp ,có khả năng
thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình cũng như của doanh nghiệp (Giảm được chi phí
sản xuất) nâng cao năng suất lao đông và nâng cao hiệu quả kinh doanh...Cải thiện được
mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, xóa bỏ được sự thiếu hiểu biết nhau,sự tranh
chấp ,ngăn chặn sự căng thẳng mâu thuẫn tạo bầu không khí tâm lý tốt,đoàn kết ,thân ái
cùng phấn đấu và phát triển...
- Đối với cán bộ quản lý TTVT Điện lực Điện Biên: Nhờ nâng cao trình độ nên
CBQL tự tin hơn,ra quyết định tốt hơn,làm việc hiệu quả hơn:Người CBQL tăng sự thỏa
mãn đối với công việc,phát triển trí tuệ và trình độ của mình,thích ứng được với kỹ
thuật mới,bớt lo lắng khi nhận việc mới.
- Đối với mối quan hệ con người và xã hội: Có thêm các kiến thức mới,hiểu biết
thêm về luật pháp và cơ hội,bình đẳng về lao động,tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau như
phát triển và hợp tác ,cải thiện được thông tin giữa các nhóm và cá nhân trong Trung
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
13
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 1: Một số vấn đề chung về cán bộ quản lý
và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý doanh nghiệp
tâm viễn thông Điện lực Điện Biên cũng như trong xã hội,làm cho TTVT có vị thế tốt
hơn trong xã hội.
4. Mục tiêu của đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý của Trung tâm viễn thông Điện
lực Điện Biên.
Dựa vào nhu cầu về quản lý dự kiến nguồn nhân lực, và các nhu cầu đào tạo từ
những mong muốn của các nhân viên trong Trung tâm viễn thông Điện lực Điện
Biên.Người phụ trách đào tạo và các lãnh đạo của Trung tâm cần xác định các mục tiêu
cần đạt tới theo các mức độ sau đây:
a- Có hiểu biết (savoir): Ở mức độ này người CBQL có một sự tổng hợp các kiến
thức lý thuyết thuyết và khả năng làm chủ về ngôn ngữ của một khoa học - kỹ thuật nào

đó.
b- Có hiểu biết và làm (savoir-faire): Ở mức độ này người CBQL đã biết áp
dụng các kiến thức của mình vào thực tế sản xuất ,đã biết làm chủ các công cụ ,trang bị
và các điều kiện kỹ thuật cụ thể,đã có kinh nghiệm để giải quyết công việc...
c- Biết ứng xử (savoir-être): Ở mức độ này người CBQL đã thể hiện được các tài
năng của mình qua thái độ và hành vi làm việc rất khéo léo ,hợp lý và có hiệu quả (Biết
làm biết ứng xử,biết tổ chức ,biết quyết định...)
d- Biết tiến hóa (savoir-évoluer): Ở mức độ này người CBQL có những khả năng
tiến bộ trong nghề nghiệp, biết thích ứng hoặc biết chuyển hướng hợp lý mỗi khi có sự
biến động và tiến hóa của môi trường bên ngoài.
Từ các mục tiêu đã xác định đó ,người phụ trách đào tạo của Trung tâm viễn
thông Điện lực Điện Biên sẽ xây dựng các chương trình và lựa chọn các phương pháp
đào tạo thích hợp để phù hợp với tình hình thực tế của trung tâm.
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
14
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN
LÝ TẠI TRUNG TÂM VIỄN THÔNG ĐIỆN LỰC ĐIỆN BIÊN
2.1 ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH ĐIỆN BIÊN
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên và dân cư
Điện Biên là một tỉnh miền núi Tây bắc Việt Nam mới được chia tách và thành
lập từ Tỉnh Lai Châu cũ. Tỉnh chính thức đi vào hoạt động từ 01/01/2004 với diện tích
tự nhiên rộng 9.554,1km2, phía Bắc giáp tỉnh Lai Châu và nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào, phía Đông giáp tỉnh Sơn La và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phía
Nam giáp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phía Tây giáp nước CHDCND Lào
và Trung Quốc
Điện Biên có 398,5km biên giới đường bộ tiếp giáp với hai tỉnh Phongxaly và

Luôngfabang của Lào, 360km tiếp giáp với huyện Giang Thành và tỉnh Vân Nam Trung
Quốc, 38,5km địa hình hiểm trở.
Tỉnh Điện Biên có hai đường quốc lộ chạy qua, trục đường quốc lộ 6 Hà Nội -
Sơn La - Điện Biên cách Hà Nội 550km, trục đường quốc lộ 12 Lào Cai - Lai Châu -
Điện Biên cách Lai Châu 203km. Là một tỉnh nằm sâu trong nội địa, có cửa khẩu Quốc
gia với nước bạn Lào (Tây Trang) vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý nghĩa chính trị. Điện
Biên có độ cao trung bình 650-750m so với mặt nước biển, địa hình chia cắt sâu và
mạnh.
Điện Biên có 9 đơn vị hành chính thuộc tỉnh gồm: 1 thành phố, 1 thị xã và 7
huyện, 13 phường thị trấn, dân số 450.030 người với 21 dân tộc anh em sinh sống. Dân
cư phân bố không đều, tại thành phố Điện Biên Phủ mật độ khoảng 1.200 người/km2,
huyện Mường Nhé chỉ khoảng 10 người/km2. Điện Biên có 29/88 xã, phường diện tích
một xã trên 100km2, xã Mường Toong 690km
2
.
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
15
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
2.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội
Điện Biên là một tỉnh miền núi có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho phát triển
ngành chăn nuôi, trồng trọt và xây dựng các nhà máy thuỷ điện vừa và nhỏ.
Trong những năm qua, nhất là sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội IX và gần
một năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI Điện Biên đã phấn đấu
giành được nhiều thành tựu quan trọng, tạo những bước chuyển biến tích cực và sâu sắc
trên nhiều lĩnh vực trong đó có vấn đề phát triển các doanh nghiệp. Bước vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điện Biên có những thuận lợi cơ
bản song cũng đứng trước những khó khăn thách thức gay gắt như: trình độ dân trí còn
thấp và không đồng đều, đời sống vật chất tinh thần nhất là của đồng bào vùng cao

vùng biên giới còn gặp nhiều khó khăn, toàn tỉnh có 67% số xã phường là biên giới đặc
biệt khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao (đến 2003: 28,5%) Còn nhiều chỉ số đạt thấp so với
yêu cầu phát triển so các tỉnh bạn. Điều đó đòi hỏi phải có sự phấn đấu vượt bậc, phải
tập trung lãnh đạo chỉ đạo nhằm phát huy tối đa các nguồn lực và lợi thế cho sự phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh, đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao
hiệu quả các lĩnh vực hoạt động, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội,
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
 Về tăng trưởng kinh tế
Kinh tế tăng trưởng khá tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Năm
2005, năm cuối của kế hoạch 5 năm 2001-2005, năm triển khai thực hiện nghị quyết số
37 của bộ chính trị, thực hiện dự án di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La trên diện rộng,
qua kết quả thực hiện nhiệm vụ tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2005 đạt 10,2%. Như
vậy bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 9,3% cao hơn 1,4 lần so với bình quân giai đoạn
5 năm trước (Bình quân giai đoạn 1996-2000 là 6,57%) trong đó: Khu vực nông lâm
nghiệp tăng 5,59%/ năm; công nghiệp xây dựng tăng 15,6%/ năm; dịch vụ tăng
9,2%/năm. GDP bình quân đầu người đạt 4,33 triệu đồng/năm (263USD).
Tăng trưởng ở tất cả các khu vực kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
nâng cao chất lượng sản phẩm.
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
16
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
• Khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp tiếp tục có bước phát triển vững chắc,
giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp tăng bình quân 7,39% trong đó nông nghiệp
tăng 7,18%. Lâm nghiệp tăng 7,53%, thuỷ sản tăng 16,18%. Năm 2009 tỷ
trọng giá trị nông lâm nghiệp trong GDP chiếm 35,7%.
• Sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt mức tăng trưởng cao so với 5 năm
trước. Giá trị sản xuất khu vực công nghiệp - xây dựng đạt mức tăng bình

quân 18,3%/ năm trong đó công nghiệp tăng 15,06%/năm xây dựng tăng
20,81%/năm. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng năm 2009 chiếm 29,5%.
• Các ngành dịch vụ có bước phát triển khá với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế, nhất là ngành dịch vụ thương mại và du lịch. Tuy nhiên nhịp độ
phát triển giai đoạn từ 2001-2005 của lĩnh vực này chậm hơn so với tốc độ
tăng trưởng kinh tế nên cơ cấu GDP có xu hướng giảm. Trong năm 2004 và
năm 2005 với các hoạt động kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện biên
phủ và năm du lịch Điện Biên đã tạo bước phát triển mới trong thu hút đầu
tư và phát triển du lịch, tỷ trọng dịch vụ năm 2009 đạt 34,8%.
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tăng khá cao so với giai đoạn
trước, trong 5 năm 2001-2005 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển đạt khoảng 4.920 tỷ
tăng gấp hơn 2 lần so với thời kỳ 5 năm trước (Tổng vốn đầu tư trên địa bàn của tỉnh
Lai Châu cũ 2.200 tỷ đồng)
Hệ số vốn đầu tư cho một đơn vị giá trị tăng trung bình trong 5 năm qua là 4,8.
Tỷ lệ đầu tư so với GDP năm 2009 đạt 68,7% so với mức 37% trung bình toàn quốc).
Trong đó vốn do địa phương quản lý 2.896 tỷ đồng chiếm 58,87%, vốn do các bộ ngành
và doanh nghiệp trung ương đầu tư trên địa bàn 1.780 tỷ đồng chiếm 49,5%. Đáng chú ý
là bên cạnh sự tăng cường hỗ trợ đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội nguồn vốn đầu tư từ khu vực dân cư, các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và các doanh nghiệp trung ương đầu tư trên có xu hướng tăng khá, tập trung vào
các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ góp phần quan trọng vào tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khá, đặc biệt
là các dự án về nâng cấp các tuyến quốc lộ, kiên cố hoá các phòng học tạm đã đem lại
cho hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của tỉnh diện mạo mới, đáp ứng ngày càng tốt
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
17
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
hơn yêu cầu phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh trên đại bàn tỉnh. Thu ngân sách nhà

nước trên địa bàn tỉnh tăng bình quân 13,5%. Năm 2008 đạt 94 tỷ đồng. Tỷ lệ huy động
trong GDP đạt 4,8% thu tại địa bàn đáp ứng được 8% dự toán chi cân đối ngân sách địa
phương trong năm.
Hoạt động tài chính tiền tệ có nhiều tiến bộ, đã huy động được đáng kể nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư để phục vụ cho nhu cầu đầu tư của các thành phần kinh tế. An
toàn tín dụng được bảo đảm, tỷ lệ nợ giảm.
 Về đời sống dân cư, xoá đói giảm nghèo
Với việc thực hiện lồng ghép các chương trình dự án và các chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất nên xoá đói giảm nghèo của nhà nước và của tỉnh, đời sống nhân dân
các dân tộc đã cải thiện căn bản. GDP bình quân đầu người năm 2008 đạt 263USD/năm
tuy thấp hơn so với mức 600 USD bình quân chung của cả nước song đã tăng 1,8 lần so
với năm 2000 dự báo đến hết năm 2009 tỉ lệ đói nghèo còn 14,2% (theo tiêu chuẩn mới
còn 44%) hàng năm giải quyết việc làm cho 5 ngàn lao động.
 Về giáo dục - đào tạo
Được sự quan tâm đầu tư mở rộng cả ngành học và bậc học, đã duy trì củng cố
được kết quả phổ cập tiểu học và xoá mù chữ. Chương trình phổ cập THCS được triển
khai thực hiện trên diện rộng, đến năm 2009 có 37/93 xã. Giáo dục mầm non được chú
trọng phát triển, đến năm học 2005 - 2009 đã có 52 trường, số trẻ vào mẫu giáo đạt
13.323 cháu, số trẻ trong độ tuổi đi học đạt tỉ lệ 45%, tăng 18 trường và gần 7 ngàn học
sinh so với năm học 2000 - 2001.
Giai đoạn từ năm 2001 - 2009 mở mới 94 trường phổ thông, trong đó 31 trường
tiểu học (cả cấp 1&2) 53 trường THCS và 10 trường THPT, số lượng học sinh tăng bình
quân 12,6%/năm, tỉ lệ trẻ trong độ tuổi đến trường tăng 11,84% so với năm 2000.
Về đào tạo: Toàn tỉnh hiện có 01 trường dạy nghề, 01 trường CĐSP và 2 trường
TH Chuyên nghiệp (Trường Trung cấp Y và Trường KT Kỹ thuật Tổng hợp) hoạt động
đào tạo nghề có nhiều tiến bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu về lao động được đào tạo. Tỉ
lệ lao động được đào tạo năm 2009 đạt 16,4% tăng 9,4% so với năm 2000.
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
18
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng

cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
Các loại hình đào tạo được mở rộng, các trường đã liên kết đào tạo mở các lớp
đạo tạo tại chức, đào tạo từ xa tại địa phương. Tổng số học sinh theo học các trường TH
chuyên nghiệp và CĐ hiện có 5.120 người tăng 3.163 người so với năm 2003, đã cơ bản
đáp ứng yêu cầu về giáo viên cán bộ y tế cho mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục, y
tế và nâng cao trình độ cán bộ cơ sở.
2.2 QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, TRƯỞNG THÀNH CỦA ĐIỆN LỰC ĐIỆN BIÊN VÀ
CỦA TRUNG TÂM VIỄN THÔNG ĐIỆN LỰC ĐIỆN BIÊN
Ngày 01/04/1990 Điện lực Lai Châu cũ (nay là Điện lực Điện Biên) được thành
lập trực thuộc công ty điện lực I quản lý và điều hành. Trên cơ sở sáp nhập xí nghiệp
điện Lai Châu với các xí nghiệp Nông cụ điện các huyện và xí nghiệp xây lắp đường
điện Thác Bay. Ngày 01/04/2004 Điện lực Điện Biên được thành lập trên cơ sở chia
tách từ Điện lực Lai Châu cũ thành hai là Điện lực Điện Biên đứng chân trên địa bàn
tỉnh Điện Biên và Điện lực Lai Châu đứng chân trên địa bàn tỉnh Lai Châu mới.
Được sự quan tâm của tỉnh ủy ,HĐND,UBND tỉnh Điện Biên cùng sự chỉ đạo
trực tiếp và đầu tư có hiệu quả của Tập đoàn Điện lực Việt Nam,Công ty Điện lực 1.
Với sự nỗ lực bền bỉ và phấn đấu không ngừng của toàn thể CBCNV Điện lực Điện
Biên, 6 năm qua Điện lực Điện Biên đã kế thừa, phát huy và đã đạt được những kết quả
nhất định trong quá trình xây dựng và phát triển ngành điện,góp phần đáng kể vào sự
nghiệp xây dựng kinh tế - xã hội ổn định chính trị ,an ninh quốc phòng của tỉnh Điện
Biên.
2.2.1 Công tác phát triển lưới điện và kinh doanh điện năng
1. Công tác phát triển và vận hành an toàn lưới điện.
Nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ đã đề ra “Tập trung
đầu tư mở rộng lưới điện quốc gia, xây dựng lưới điện hạ thế tới các xã ,xây dựng thủy
điện nhỏ ở vùng sâu, vùng xa”. 6 năm qua, Điện lực Điện Biên đã có nhiều cố gắng
trong việc triển khai thực hiện các dự án đưa điện về nông thôn vùng sâu, vùng xa,và đã
đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa đặc biệt, góp phần đắc lực vào việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn,cải thiện đời sống vật chất văn hóa tinh thần

cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh .
Trong 5 năm qua đã đầu tư xây dựng .
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
19
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
- Hệ thống đường dây trung thế : 779 km
- Tổng số trạm biến áp : 218 trạm có dung lượng 15.320 kva
- Tổng số đường dây hạ thế: 750 km
- Tổng số công tơ đã lắp đặt : 32.250 bộ
- Với tổng số vốn đầu tư : 390 tỷ đồng
Trong đó
+ Vốn của dư án WBI đợt 1+2+3 là: 177 tỷ đồng
+ Vốn KHCB của ngành điện : 175 tỷ đồng
+ Vốn 135 đầu tư hỗ trợ xã nghèo của ngành điện : 23 tỷ đồng
+ Vốn địa phương + nhân dân đóng góp : 19 tỷ đồng (là vốn đầu tư xây dựng
lưới điện hạ áp theo quyết định 799 của tỉnh và vốn đền bù GPMB dự án WB)
Điện lực Điện Biên đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện tốt công tác quản
lý vận hành theo đúng qui trình ,qui phạm như:kiểm tra định kỳ ngày đêm,đột xuất
,kiểm tra sự cố ,kiểm tra kỹ thuật nhằm theo dõi thiết bị,định kỳ bảo dưỡng thiết
bị,đường dây.Nhằm xử lý kịp thời các khiếm khuyết,ngăn chặn sự cố,giảm suất sự cố
theo chủ trương của Công ty Điện lực 1, thường xuyên đảm bảo chỉ tiêu suất sự cố
bằng và nhỏ hơn mức công ty quy định . Triển khai thực hiện mô hình quản lý chi
nhánh điện và mô hình khoán quản đường dây và thiết bị đạt hiệu quả cao, đường dây
110 kv Điện Biên - Tuần Giáo được Công ty công nhận là tuyến đường dây kiểu mẫu
năm 2004.
Trong những năm qua công tác an toàn và bảo hộ lao động luôn luôn được quan
tâm chú trọng, duy trì hoạt động có nề nếp và hiệu quả, 5 năm liên tục được Công Ty
Điện lực 1 xếp loại đơn vị “Đảm bảo an toàn vệ sinh lao động” xuất sắc của công ty,

được thể hiện như sau:
Tổ chức khám sức khỏe định kỳ hàng năm cho 100% CBCNV, qua đó phát hiện
bệnh tật và phân loại sức khỏe của từng người để theo dõi và bố trí công việc cho phù
hợp,với kinh phí bình quân hàng năm là 32 triệu đồng.
Tổ chức mua bảo hiểm y tế bắt buộc cho 100% CBCNV
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
20
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
Trong 5 năm qua đã tổ chức cho CBCNV đi nhỉ mát, nghỉ điều dưỡng phục hồi
sức khỏe cho trên 300 lượt người.
Để đảm bảo tốt công tác an toàn, bảo hộ lao động trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, hàng năm Điện lực Điện Biên đã tổ chức các lớp bồi huấn, kiểm tra sát hạch an
toàn đối với 100% các đơn vị trực thuộc, qua 13 lớp bồi huấn sát hạch với tổng số 514
lượt người có 100% đạt yêu cầu trong đó có 420 đạt khá giỏi/tổ chức cho 100%
CBCNV được học tập bộ luật lao động.
Phong trào thi đua an toàn phòng chống cháy nổ đã được triển khai rộng rãi trong
các đơn vị và tổ đội sản xuất ,mở 5 lớp tập nghiệp vụ PCCC cho 115 lượt người đạt kết
quả tốt, hàng năm Điện lực đều cử các đội tuyển tham gia hội thi toàn tỉnh về PCCC
thường đợt thi nào cũng đạt giải cao.Chính nhờ làm tốt các mặt công tác trên mà trong 5
năm qua Điện lực Điện Biên đã không để xẩy ra tai nạn lao động, không có vụ việc
cháy nổ gây thiệt hại về con người và thiết bị,không có CBCNV mắc bệnh nghề nghiệp.
2. Công tác kinh doanh điện năng
- Chỉ tiêu điện thương phẩm :
Năm 2005 đạt 28.774.506 Kwh đến năm 2009 48.376.141 Kwh, tăng 168% tốc
độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 13,6%
- Tỷ lệ tổn thất điện năng:
- Tỷ lệ tổn thất năm 2001 : 8,4% đến năm 2005 đạt 6,5% tỷ lệ tổn thất giảm bình
quân hàng năm 0,3%.

- Giá bán bình quân : Năm 2005 590,21 đồng/Kwh đến năm 2009 : 927,25 đồng /
Kwh,giá bán bình quân hàng năm tăng 37,6 đồng /Kwh
-Tổng doanh thu: năm 2005 đạt 18,7 tỷ đồng ,năm 2009 :62,609 tỷ đồng tăng 3,4
lần tốc độ tăng bình quân năm 56%.
Trong 6 năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp ủy Đảng ,chính
quyền từ trung ương đến địa phương cùng sự với sự quan tâm của tập đoàn Điện lực
Việt Nam và công ty điện lực 1 đã tạo điều kiện về cơ chế chính sách và nguồn vốn đầu
tư để xây dựng hệ thống lưới điện . Đặc biệt lưới điện nông thôn của tỉnh ngày càng
phát triển đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa đặc biệt, góp phần đắc lực vào
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
21
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, cải thiện đời sống vật chất văn
hóa ,tinh thần cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh, xóa đói giảm nghèo tạo tiền đề cho
việc thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn của tỉnh .
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa theo
chủ trương lớn của Đảng và nhà nước. Đảng ủy, Ban giám đốc điện lực Điện Biên đã
bám sát các chương trình mục tiêu quy hoạch phát triển và vận hành kinh doanh hệ
thống lưới điện của tỉnh từng giai đoạn,qua đó lãnh đạo ,chỉ đạo thực hiện hoàn thành
nhiệm vụ phát triển hệ thống lưới điện.Đặc biệt là hệ thống lưới điện nông thôn của tỉnh
trong từng giai đoạn.Đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hóa xã hội,an ninh quốc
phòng trên địa bàn thực hiện tốt các chỉ tiêu mà nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng Bộ đã đề
ra. Tính đến hết tháng 9 năm 2009, đã đưa điện lưới quốc gia đến:
- 9/9 huyện thi đạt 100%
- 77/106 xã, phường, thị trấn đạt tỷ lệ : 72, 64%
- 55.914/86694 hộ có điện đạt tỷ lệ: 64, 5%
- 63/92 xã có điện đạt tỷ lệ : 68, 5%
6 năm qua đã đầu tư xây dựng đưa điện về xã với 37.787 hộ nông thôn được sử

dụng điện lưới Quốc gia trực tiếp đưa tổng số hộ nông thôn cá điện đạt tỷ lệ 55, 79%.
3. Công tác tổ chức hoạt động xã hội
- Công tác tổ chức lao động, đào tạo, tiền lương, đời sống: Trong vài năm gần
đây Điện lực Điện Biên đã thực hiện nghiêm túc việc tiết giảm lao động từ 10 – 20%
theo quyết định của Công ty Điện lực 1, đồng thời đã không ngừng nâng cao trình độ
của cán bộ công nhân viên đơn vị đã đưa đi đào tạo:
+Đào tạo cao cấp lý luận = 6 người
+ Đào tạo kỹ sư đại học = 42 người
+ Đào tạo cao đẳng = 20 người
+ Đào tạo công nhân kỹ thuật =157 người
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
22
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
Thường xuyên chăm lo đời sống cho CBCNV, luôn quan tâm đến cơ sở vật chất,
tạo điều kiện thuận lợi về môi trường cho người lao động và đã ổn định việc làm, đảm
bảo thu nhập bình quân năm sau cao hơn năm trước cụ thể:
Năm 2005 đạt 1.900.000đ/tháng, năm 2009 đạt 2.500.000đ/tháng
Đơn vị đã tổ chức xây dựng quỹ tương trợ ngay từ những ngày đầu thành lập
bằng nguồn vốn tự nguyện của cán bộ công nhân viên đóng góp hàng năm, được giao
cho công đoàn cơ sở quản lý theo dõi để hỗ trợ kịp thời cho người lao động khi có hoàn
cảnh rủi ro, bệnh tật và khi nghỉ chế độ.
Song song với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh,Điện lực điện biên thường xuyên
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của một doanh nghiệp nhà nước tại địa phương.Cụ thể
là: chỉ đạo 100% các đơn vị tổ chức phương án đảm bảo cấp điện an toàn liên tục cho
các sự kiện lớn của cả nước và địa phương diễn ra trên địa bàn .Điện lực Điện Biên đã
thường xuyên phối hợp với lực lượng công an thực hiện tốt qui chế phối hợp liên ngành
trong công tác giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ an toàn tài sản của ngành Điện ,trong
những năm qua đã phát hiện ngăn chặn kịp thời nhiều vụ trộm cắp ,phá hoại các công

trình Điện lực ,bắt giữ đề nghị cơ quan pháp luật xử lý 5 đối tượng thu hồi tài sản cho
đơn vị,đã được bộ công an tặng bằng khen.
Trong năm vừa qua toàn Điện lực đã trích và vận động CBCNV tham gia hưởng
ứng phong trào ủng hộ các quỹ và tổ chức từ thiện tại địa phương với tổng số tiền là
346 triệu đồng được thủ tướng chính phủ tặng bằng khen về thành tích đền ơn đáp
nghĩa tại địa phương.Để ghi nhận thành tích của CBCNV trong giai đoạn
2001-2005,Điện lực Điện Biên đã vinh dự được trao tặng Huân chương Lao động hạng
nhì cho tập thể ,1 huân chương Lao động hạng Ba cho cá nhân và 02 bằng khen của thủ
tướng Chính phủ ,03 bằng khen của bộ ,ngành ,1 cờ chuyên đề của Tổng liên đoàn,05
bằng khen của UBND cho tập thể và 50 bằng khen cho cá nhân.
2.2.2 Tình hình xây dựng, triển khai và phát triển Trung tâm viễn thông Điện lực
Điện Biên
1. Đặc điểm tình hình.
Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên gồm cơ quan Trung tâm và 8 đơn vị
hoạt động trải khắp trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Tại cơ quan Trung tâm có 3 phòng ban
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
23
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
gồm phòng kinh doanh viễn thông, phòng kỹ thuật viễn thông, phòng tổng hợp viễn
thông, tại các đơn vị biên chế thành tổ điều hành viễn thông vì vậy việc giám sát kiểm
tra tình hình thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh viễn thông tại các đơn vị đòi hỏi
khối lượng công việc rất lớn nhất là các đơn vị ở vùng sâu vùng xa vùng biên giới như
Tủa Chùa, Điện Biên Đông.
- Các công việc trong dây chuyền sản xuất kinh doanh viễn thông của Trung tâm
liên quan mật thiết với nhau từ trên Công ty Điện lực 1 qua Trung tâm viễn thông Điện
lực Điện Biên chỉ đạo xuống các đơn vị Chi nhánh điện, thống nhất quán triệt thực hiện
đòi hỏi phải phải có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi cho khách
hàng mang lại lợi nhuận trong kinh doanh và chi phí sản xuất kinh doanh giảm.

- Quản lý phức tạp vì Viễn thông là ngành dịch vụ công cộng mục đích kinh
doanh và xã hội, liên quan đến mọi thành phần kinh tế, xã hội và mọi tầng lớp nhân dân.
Số liệu xử lý trong quản lý kinh doanh lớn liên quan đến cơ sở vật chất trải rộng khắp
các huyện thị trong tỉnh, số lượng nhân viên thực hiện nhiều để đáp ứng được số lượng
khách hàng rất lớn ngày một gia tăng.
- Sự đa dạng các dịch vụ gia tăng giá trị cũng như các loại hình dịch vụ trong
viễn thông công cộng với những qui mô khác nhau nên việc quản lý ngày càng phức tạp.
- Công tác kinh doanh phải tuân thủ pháp luật nhà nước sự chỉ đạo của
EVNTelecom, Công ty điện lực 1, của Điện lực Điện Biên và chính quyền địa phương.
2.Triển khai và định hướng phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông tại Trung tâm
viễn thông Điện lực Điện Biên.
Công tác Viễn thông tại Điện lực Điện Biên mới chính thức triển khai từ tháng
10 năm 2006 nên việc đầu tư và khai thác còn rất mới mẻ.Là một lĩnh vực kinh doanh
“sinh sau đẻ muộn”,mọi việc đều bỡ ngỡ song Trung tâm viễn thông Điện lực Điện
Biên đã thể hiện được vị thế của mình.Thời gian đầu mọi việc vừa xây dựng nền
móng,vừa phát triển đi lên với lưng vốn còn rất hạn chế ,cung cấp thiết bị đầu cuối phân
bổ chậm,mẫu mã nghèo nàn,phụ tùng thay thế không có (như pin xạc); cơ sở hạ tầng và
chất lượng mạng còn hạn chế đầu năm 2006 chỉ xây dựng được 5 BTS tới năm 2009
phát triển được 18 BTS giai đoạn 6 chưa được đầu tư. Bên cạnh đó thường xuyên cắt
điện giảm tải, một số vùng lõm sóng yếu dẫn đến lỗi kỹ thuật ảnh hưởng việc chăm sóc
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
24
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Chương 2: Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ quản lý tại Trung tâm Viễn thông
Điện lực Điện Biên
khách hàng ... điều đó tất yếu dẫn đến kết quả kinh doanh viễn thông còn khiêm tốn so
với yêu cầu kế hoạch được giao.
Để tạo thế và lực, Trung tâm viễn thông Điện lực Điện Biên đã khuyến khích
CBCNV của ngành sử dụng dịch vụ EVNTelecom, lực lượng này vừa là khách hàng sử
dụng sản phẩm Viễn thông,vừa là tuyên truyền viên ,cộng tác viên tích cực.để thu hút

khách hàng tham gia. Trung tâm đã chỉ đạo thành lập mỗi chi nhánh điện tối thiểu phải
có một cửa hàng giao dịch cũng như mở rộng các địa lý, cộng tác viên và phát triển
mạnh các kênh bán hàng để thu hút khách hàng tham gia. Do phát động kịp thời được
các phong trào nên ở một số các đơn vị chi nhánh điện đã có những cách làm sáng tạo
trong việc thiết lập các mối quan hệ giữa lãnh đạo địa phương với các cơ quan doanh
nghiệp, tuyên truyền, giới thiệu sử dụng dịch vụ viễn thông Điện lực .hiện nay chất
lượng mạng dần dần được cải thiện và ổn định, số lượng thuê bao và doanh thu từ dịch
vụ Viễn thông năm 2009 đã có mức tăng trưởng khá. Đến thời điểm này, dịch vụ Viễn
thông của Điện lực Điện Biên ước đạt cả năm là 23.000 thuê bao trong đó máy cố định
không dây E-Com 18.000 thuê bao, di động nội tỉnh Ephone 3.000 thuê bao, di động
thuê bao ngoại tỉnh là 4.000 thuê bao.Tổng doanh thu ước thực hiện gần 10 tỷ đồng, đạt
93%.Hiện đang triển khai lắp đặt thêm 09 trạm BTS của hệ thống mạng 3G, đang vận
hành và phủ sóng 8/9 huyện thi, thành phố.
Qua việc cung cấp dịch vụ và kiểm tra việc sử dụng dịch vụ Viễn thông Điện lực
ở các xã ,thôn bản ,vùng sâu vùng xa và các đồn biên phòng ( nơi có điện lưới quốc gia
và có trạm BTS được phủ sóng) là rất tiện lợi,hữu ích .Điện thoại cố định không dây của
Điện lực đã phát huy hiệu quả ,tạo điều kiện cho khách hàng trao đổi thông tin 2 chiều
thuận tiện mà không cần phải lắp đặt đường dây thông tin đến tận nhà. Dịch vụ Viễn
thông Điện lực đã tạo điều kiện để người dân vùng sâu, vùng xa trong tỉnh tiếp cận, học
hỏi và sử dụng máy Viễn thông hiện đại. Ở một số xã, huyện vùng cao như: Tủa
Chùa,Mường Nhà(Điện Biên);xã Mường Mơn,Sa Lông(Mường Chà);Thủy điện Nậm
Mức (Tuần Giáo )....gần như 100% cán bộ xã sử dụng máy di động Ephone nội tỉnh và
điện thoại cố định không dây E-Com.Nhiều hộ dân khi đi làm nương còn mang theo
máy cố định không dây để liên lạc .Ông trưởng bản xã Mường nhà là một trong những
khách hàng của Trung tâm cho biết “Chứng kiến những cuộc nói chuyện con em của
đồng bào các dân tộc vùng cao đi học ở dưới xuôi ,gọi điện về trao đổi thông tin cùng
Phạm Văn Lanh – Lớp TCB207ĐL1
25

×