Tải bản đầy đủ (.ppt) (95 trang)

lịch sử triết học phương tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.16 MB, 95 trang )

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. Nguyễn Đăng Dũng, Lịch sử Triết
học Phương Tây, nxb Tổng hợp, 2006.
2. PGS. Đinh Ngọc Thạch, Lịch sử Triết học
Phương Tây, nxb Tổng hợp, 2006.
3. GS. Hà Thúc Minh, Triết học cổ đại Hy
Lạp, nxb Mũi Cà Mau, 2000.
4. Dương Ngọc Dũng, Đường vào Triết học,
nxb Tổng hợp Tp.HCM, 2006


1. Những mầm mống của tư duy triết học
xuất hiện trong xã hội loài người
2. Ngữ nguyên của thuật ngữ “triết học”
3. Các yếu tố cấu thành triết học.
4. Tính thời đại của tri thức triết học qua
các giai đoạn lịch sử
5. Tính quy luật của sự ra đời , phát triển tư
tưởng triết học
6. Tính tất yếu của sự thay đổi các chủ đề tư
tưởng triết học


Tư duy triết học xuất hiện vào khoảng TK thứ
VI - BC ở cả phương Đông lẫn phương Tây.
Giải thích thế giới qua các câu chuyện hay
những trường ca thần thoại chứa đựng tư duy
triết học mang tính trừu tượng, những thắc
mắc về vũ trụ, bản nguyên thế giới, sự vận
động biến đổi của vạn vật…rất sơ khai, mộc
mạc đơn giản.


Nhìn chung, những tư duy triết học đầu tiên
này mang tính trực quan, rời rạc, chưa có hệ
thống và là sản phẩm thuần túy của tư duy


Phương Đông: minh triết → tri hành
hợp nhất. Đó là quá trình tu chứng trải
nghiệm tự thân và đạt đến sự thông
thái về tri thức cũng như hành động.
Phương Tây:Triết học → tiếng Hy Lạp
“philosophia” (φιλοσοφία), sự hợp nhất
của “yêu mến”, “yêu thích”, “khát
vọng” (φιλεω, hoặc φιλία) và “sự thông
thái”. Tiếng Anh: philosophy, tiếng
Pháp: philosophie.


Nghĩa hẹp: yêu mến sự thông thái, khát khao
vươn đến tri thức.
Nghĩa rộng: tri thức phổ quát, tri thức chung
nhất về vấn đề tồn tại và tư duy, thời cổ đại,
tri thức triết học là tri thức bao trùm, cho nên
nó được xem là “khoa học của các khoa học”.
Nghĩa chung nhất: triết học là khoa học
nghiên cứu về thế giới và con người trên cơ sở
thực tại để hướng đến chân lý giải thích khởi
nguyên cũng như các mối liên hệ giữa các sự
vật hiện tượng và con người trong vũ trụ.



Gồm có 5 yếu tố cơ bản như sau:
Siêu hình học
Đạo đức học
Logic học
Luận lý học
Mỹ học ( thẩm mỹ học)


Tùy theo từng giai đoạn lịch sử mà tri thức
triết học thể hiện tính thời đại riêng biệt.
Tri thức triết học thần thoại: thể hiện tính thời
đại nguyên thủy cổ xưa còn thô sơ, ngây thơ,
chất phác. (TK VI – V TCN)
Tri thức triết học kinh viện - tôn giáo: giải
thích thế giới và con người do đấng Thượng đế
tạo ra, “triết học là nô lệ thần học” → thời kỳ
Trung cổ với sự phát triển của Cơ Đốc giáo
(sau này Kitô Giáo là một nhánh của nó)(TK
VIII – XIV SCN).


Tri thức triết học với thông điệp “lấy con
người làm trung tâm của vũ trụ” khôi phục
các giá trị nhân bản nhân văn → thời đại phục
hưng (thế kỷ XV – XVI)
Những tri thức triết học chuyên biệt phản ánh
rõ ràng sâu sắc quan điểm của từng lĩnh vực
khoa học chuyên môn như chính trị, y học, mỹ
học, nghệ thuật…đề cao những giá trị khai
mở, sáng tạo , thành quả của cuộc cách mạng

khoa học kỹ thuật tri thức chuyên
ngành→thời đại khai sáng thế kỷ XVII –
XVIII.


Triết học với những tri thức nghiên cứu
thế giới và con người trên quan điểm muốn
phục hưng lại giá trị chuẩn mực làm mô
thức cho sự đánh giá sáng tạo. Các nhà
nhân văn phục hưng khi hướng về thế giới
Hy Lạp cổ xưa với những giá trị chuẩn
mực, họ lấy Hy Lạp – La Mã làm hệ quy
chiếu của mình và đã đẩy triết học phương
Tây lên đến đỉnh cao, khép lại một chặng
đường dài suốt mấy ngàn năm → thời đại
“triết học cổ điển” (TK XIX).


Triết học với sự phát triển của các trào
lưu tư tưởng hiện đại, giải thích một cách
khách quan, khoa học nội dung và thực
chất của chúng góp phần làm sáng tỏ
những đặc điểm của thời đại, dự báo xu
hướng vận động của lịch sử→ sự chuyển
mình của triết học đảm bảo phù hợp với
một thời kỳ phát triển mới của lịch sử
(triết học phi cổ điển và triết học hiện đại
TK XX).



* Tóm lại, từ nét đặc thù của tri thức
triết học thể hiện qua các giai đoạn lịch
sử khác nhau như vậy, chúng ta có thể
khẳng định rằng: “triết học chính là tinh
hoa của cuộc sống”, như C.Mác đã phát
biểu: “… mọi triết học chân chính đều là
tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại
mình”.


Và, triết học chân chính là thứ triết học
được sinh ra bởi thời đại, được tạo
nguồn năng lượng sống bằng chính thực
tiễn phong phú của thời đại, và về phần
mình, góp phần vào sự phát triển của
thời đại thông qua thiên chức cao cả của
mình.


Quy luật hình thành – tồn tại và phát
triển của triết học: triết học là “con đẻ”
hay là sản phẩm của chính xã hội loài người,
nó được sinh ra, nuôi dưỡng, thẩm định bởi
thời đại; không có thứ triết học bất biến,
tuyệt đích cho mọi thời đại mà bản thân
triết học luôn thay đổi để thích ứng với từng
giai đoạn lịch sử cụ thể tùy theo tư duy
chung của chính xã hội đó tạo nên.



Quy luật vận động và hỗ tương: Triết
học luôn biến đổi theo từng sát na và tồn
tại trong mối quan hệ tương giao lẫn nhau
giữa các yếu tố cấu thành triết học, hoặc
giữa triết học và các khoa học chuyên biệt,
tùy theo từng quan điểm của mỗi triết gia
trong mỗi hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của
tiến trình lịch sử xã hội loài người.


Quy luật tất yếu của sự sàng lọc – kế thừa
và phát huy các giá trị tư tưởng triết học:
những tư tưởng triết học được viết lên từ hiện
thực cuộc sống, nó nối liền từ quá khứ đến hiện
tại và kéo dài đến tương lai. Chính vì thế chắc
chắn sẽ có sự sàng lọc – kế thừa và phát huy
những tinh túy (di sản) của chính bản thân mình
để triết học tồn tại sống động mãi với thời gian
và con người.
=> Các chủ đề tư tưởng triết học tất yếu sẽ phải
có sự thay đổi.


Đây là một đặc tính quan trọng trong triết học
phương Tây. Triết học là “linh hồn sống” của
xã hội, phản ánh hiện thực sinh động của xã
hội tùy theo sự vận động của bối cảnh lịch sử xã hội.
→ tất yếu các chủ đề tư tưởng triết học phải
thay đổi để nó kịp thời thích ứng với chính sự
thay đổi đó, đồng thời, nó góp phần làm sáng

tỏ những đặc điểm của thời đại, dự báo xu
hướng vận động của tiến trình lịch sử trong
mối liên hệ quá khứ - hiện tại và tương lai .


•Ba nguyên tắc khi nghiên cứu triết học:
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể:
“ bản chất – linh hồn sống của triết học muốn
tồn tại và phát triển phải dựa trên không gian
xác định – thời gian cụ thể - sự kiện sống
động”
Nguyên tắc xác định đối tượng nghiên cứu :
mỗi bức tranh xã hội có nhiều dòng tư tưởng
triết học đan xen, trong đó sẽ có dòng tư tưởng
chủ đạo, cốt lõi, mang tính định hướng chung
cho sự phát triển của toàn xã hội.


•Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan, tính
toàn diện của triết học:
Với tư cách là khoa học lý thuyết thể hiện sự
thông thái về tri thức đồng thời là khoa học
ứng dụng được rút ra từ những giá trị , kinh
nghiệm thực hành của con người trong cuộc
sống lao động, trong mỗi lĩnh vực cũng như
tổng hợp toàn bộ các lĩnh vực…→đòi hỏi tri
thức triết học đảm bảo tính khách quan, tính
đảng, tính toàn diện về mặt thế giới quan và
phương pháp luận của triết học.




1. Khái quát bối cảnh văn hóa chính trị
xã hội Hy Lạp – La Mã cổ đại
2. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp


Hy Lạp cổ đại – là quốc gia chiếm hữu nô lệ
rộng lớn ( miền Nam bán đảo Balcan, ven biển
Tiểu Á và các đảo ở biển Egieé) có điều kiện
tự nhiên thuận lợi nên sớm xây dựng một nền
kinh tế công & thương nghiệp phát triển, một
nền văn hóa tinh thần phong phú – cơ sở nền
văn minh phương Tây hiện đại.
Sự đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy sự hình
thành tầng lớp tri thức, họ đã sử dụng tư duy
lý luận để nghiên cứu thế giới và xây dựng
nên một triết học và khoa học đồ sộ, sâu sắc.


Sự sự tích lũy tư hữu, phát triển quan hệ
hàng hóa, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối
kháng giữa các lực lượng xã hội→ thiết chế
xã hội mới ra đời.
Sự chuyển tiếp từ xã hội công xã nguyên
thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ diễn ra
cùng với những biến đổi căn bản trong ý
thức, trước hết là nhu cầu lý giải nghiêm
túc những vấn đề tự nhiên, xã hội và con
người.



Sự tiến bộ từ tư duy thần thoại đến triết
học, là con đường từ hình thức diễn đạt
thông qua biểu tượng đến hình thức diễn
đạt bằng khái niệm. Triết học ra đời không
có nghĩa thần thoại mất đi, mà tiếp tục tồn
tại trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương,
nhưng được xem xét ở bình diện khác bình diện giá trị. Đằng sau những câu
chuyện thần thoại là cả một triết lý sống,
thể hiện những chuẩn mực, những giá trị,
những bài học đạo đức, nhân văn.


Ảnh hưởng của văn hoá phương Đông đến
sự hình thành tư duy triết học và khoa học
Hy Lạp : tiếp thu chữ viết tượng hình của
văn minh Lưỡng Hà, các thành quả khoa
học và phép tính lịch của người Babilon, yếu
tố huyền học (occultism) ở các nền văn minh
phương Đông, nhất là vùng Trung Cận Đông
và Bắc Phi. Tri thức ở phương Đông như
toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo
lường, các mầm mống của y học, các khoa
học về sự sống đáp ứng phần nào khát vọng
khám phá của người Hy Lạp.


Triết học thời sơ khai, còn gọi là thời kỳ
Tiền Socrates, gắn với sự hình thành các

trường phái triết học đầu tiên tại Hy Lạp
(thế kỷ VI - V TCN).
Triết học thời cực thịnh (thế kỷ V - thế
kỷ IV TCN).
Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa, khủng
hoảng và suy tàn, hay thời Hy Lạp – La
Mã bắt đầu từ thế kỷ III TCN đến thế kỷ
V SCN.


×