Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Câu hỏi ôn thi đường lối có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.1 KB, 18 trang )

1) Tình hình các giai cấp trong xã hội Việt
Nam thuộc địa nữa phong kiến?
Sự phân hoá của các giai cấp trong xã hội Việt Nam là kết quả của
chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi
đặt ách thống trị lên nước ta chúng bắt tay ngay vào khai thác thuộc
địa nước ta. Chính vì thế chúng cần một lượng lớn nhân công lao động
do đó giai cấp công nhân đã ra đời. Ngay sau đó các giai cấp khác
cũng lần lượt ra đời đó là giai cấp tư bản, giai cấp tiểu tư sản điều này
đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa hết sức sâu sắc. Mỗi giai
cấp lại có một đặc điểm riêng biệt việc xác định giai cấp lãnh đạo cách
mạng là rất quan trọng.
Địa chủ phong kiến:♣
Giai cấp địa chủ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử từ
địa vị là giai cấp thống trị nay trở thành tay sai cho thực dân Pháp câu
kết với thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta. Giai cấp địa chủ được chia
thành:
+ Đại địa chủ: có nhiều ruộng đất, câu kết với thực dân Pháp bóc lột
nhân dân ta
+ Trung địa chủ
+ Tiểu địa chủ
- Những địa chủ phong kiến phản cách mạng được thực dân Pháp
dung dưỡng và nuôi béo vì vậy đây chính là đối tượng của cách mạng
- Những địa chủ phong kiến bị đế quốc chèn ép có tinh thần dân tộc và
tinh thần cách mạng. Tuy nhiên cũng không trở thành lực lượng lãnh
đạo cách mạng.
Giai cấp nông dân♣
- Chiếm 90% trong xã hội phong kiến thực dân Việt Nam bao gồm:
Phú nông, trung nông, bần nông, cố nông
- Giai cấp nông dân bị địa chủ phong kiến và đế quốc bóc lột nặng nề,
đế quốc bóc lột nhân dân bằng sưu cao thuế nặng, địa chủ bóc lột nhân
dân bằng cướp đoạt ruộng đất, địa tô, cướp đoạt ruộng đất dẫn đến giai


cấp nông dân bị đẩy vào đường cùng.
- Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất và hăng hái nhất có vai
trò quyết định đến cuộc giải phóng dân tộc, bị đế quốc và địa chủ chèn


ép mâu thuẫn đặc biệt với đế quốc thực dân và phong kiến tay sai phản
động vừa có mâu thuẫn về dân tộc vừa có mâu thuẫn về giai cấp trong
đó mâu thuẫn dân tộc là lớn nhất. Tuy nhiên giai cấp nông dân cũng
không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng do trình độ văn hoá
thấp.
Giai cấp công nhân♣
- Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ngay từ
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
- Giai cấp công nhân Việt Nam còn rất trẻ chiếm 1% dân số, trình độ
văn hoá kỹ thuật rất thấp.
- Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: Ngoài những đặc điểm
chung với giai cấp công nhân thế giới giai cấp công nhân Việt Nam
còn có những đặc điểm riêng biệt khác so với giai cấp công nhân thế
giới.
* Đặc điểm riêng của giai cấp công nhân Việt Nam
- Chịu 3 tầng áp bức bóc lột (Đế quốc, tư bản trong nước, địa chủ
phong kiến).
- Phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân cho nên họ gắn bó với dân
tộc có mới quan hệ gần gũi với nhân dân và có mối thâm thù với thực
dân Pháp.
- Ra đời trước tư sản lực lượng đồng nhất không bị phân tán về lực
lượng và sức mạnh.
- Kế thừa truyền thống yêu nước đấu tranh của dân tộc.
- Do ra đời muộn giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu được ảnh
hưởng của phong trào cách mạng thế giới, ảnh hưởng của chủ nghĩa

Mác-Lênin và cách mạng tháng Mười Nga.
- Giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành một lực lượng chính
trị độc lập, có đủ điều kiện và năng lực để lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tư sản♣
- Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến
tranh thế giới thứ nhất họ đã trở thành một giai cấp rõ rệt trước đó họ
chỉ được gọi là một tầng lớp.
- Tư sản mại bản là những tư bản hoạt động trong lĩnh vực thầu khoán,
công nghiệp và xây dựng có quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp trở


thành đối tượng của cách mạng.
- Tư sản dân tộc là những nhà tư sản vừa và nhỏ có xu hướng kinh
doanh độc lập bị tư sản Pháp chèn ép nên họ có tinh thần dân tộc
chống thực dân Pháp, chống phong kiến. Giai cấp này có tư tưởng dao
động do đó cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tiểu tư sản♣
- Hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau
chiến tranh thế giới thứ nhất bao gồm: Trí thức, học sinh-sinh viên,
công chức, tiểu thương, tiểu chủ, dân nghèo thành thị. Họ sống chủ
yếu ở thành thị và khu công nghiệp bị thực dân Pháp chèn ép dễ bị rơi
vào tình trạng thất nghiệp.
- Giai cấp tiểu tư sản cũng rất hăng hái tham gia cách mạng và là một
trong những động lực đáng kể của cách mạng, họ là đồng minh của
giai cấp công nhân có thể đi với giai cấp công nhân đến xã hội chủ
nghĩa.Tuy nhiên tư tưởng của họ rất dao động do đó cũng không thể
trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.

Tóm lại sự phân hoá các giai cấp trong xã hội Việt Nam là kết quả của
quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trong đó sự xuất hiện

của giai cấp công nhân giai cấp mang sứ mạng lịch sử là đoàn kết và
lãnh đạo các giai cấp khác đứng lên đấu tranh chống đế quốc Pháp giải
phóng dân tộc. Ngoài ra các giai cấp nông dân có lực lượng đông đảo
có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng. Các giai cấp khác
nếu đi theo cách mạng cần phải lôi kéo về phía cách mạng, còn lực
lượng nào chống đối cách mạng sẽ là đối tượng của cách mạng.

2) Công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với cuộc
vận động thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam?
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc:
- Ngày 5 - 6 - 1911, từ cảng Nhà Rồng, Nguyễn Ái Quốc làm phụ bếp
trên tàu Đô đốc Trêvin và bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm, hòa mình


vào cuộc sống lao động Pháp để tìm đường cứu nước. Từ 1911 đến
1917, Người đã đến nhà nước châu Âu, châu Phi và châu Mĩ. Cuối
năm 1917, Người trở lại Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng
Pháp: Tự do, Bình đẳng và Bác ái.
- Ngày 18 - 6 - 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội
nghị Véc-xai Bản yêu sách của nhân dân An Nam.
- Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-Nin. Từ đây người tìm ra
con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
* Nguyễn Ái Quốc truyền bá CN Mác-Lênin chuẩn bị thành lập đảng:
- Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của An-giê-ri, Ma-rốc,
Tuy-ni-di,... Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc
địa ở Pa-ri để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực
dân.

- Tháng 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô
dự Hội nghị Quốc tế Nông dân ( 10 - 1923 ) và được bầu vào Ban
chấp hành Hội. Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên cứu, học tập, viết bài
cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp chí Thư tín Quốc tế
của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V
( 1924 ), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường quan điểm của mình về
vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ
giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp
nông dân ở các nước thuộc địa.
- Ngày 11 - 11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu ( Trung
Quốc ) để trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng,
truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Người
đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây và
chọn một số thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm tâm xã, mở các
lớp huấn luyện chính trị ngắn hạn để đào tạo họ thành cán bộ cách
mạng đưa về nước hoạt động.


- Nhờ hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, phong trào cách mạng ở trong nước ngày càng phát
triển sôi nổi, khuynh hướng các mạng vô sản dần dần chiếm ưu thế
trong phong trào dân tộc. Đến năm 1929, Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên đã xây dựng cơ sở ở khắp ba kì.Những hoạt động của
Người từ 1911 đến 1929 có tác dụng quyết định trong việc chuẩn bị về
tư tưởng, chính trị và đạo đức cho việc thành lập chính đảng của giai
cấp vô sản Việt Nam.
* Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất 3 đảng:
- Sau một thời gian dài hoạt động có hiệu quả, tổ chức Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên dần dần mất vai trò lịch sử. Sự phát triển mạnh

mẽ của phong trào cách mạng trong nước đòi hỏi phải có một đảng
cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong trào tiếp
tục ......... Để đáp ứng nhu cầu đó, từ giữa đến cuối năm 1929, ở Việt
Nam đã lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng
sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên
đoàn.
- Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu sự phát triển
vượt bậc của phong trào cách mạng nước ta. Tuy nhiên trong quá trình
hoạt động, các tổ chức này đã đả kích lẫn nhau, làm giảm uy tín của
các tổ chức cộng sản và gây ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào cách
mạng đang lên.
- Từ 3 - 2 đến 7 - 2 - 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để hợp
nhất các tổ chức cộng sản tại Hương Cảng ( Trung Quốc ). Người chủ
trì hội nghị và đã phân tích những hoạt động bè phái, chia rẽ của ba tổ
chức cộng sản và tác hại của nó. Do yêu cầu cấp thiết của cách mạng
Việt Nam và uy tín đức độ của Người nên đã đã thống nhất được các
tổ chức cộng sản. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt
Nam thành đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Thành lập ĐCSVN:
- Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo đã vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản cho cách
mạng Việt Nam ( đây chính là bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của


Đảng Cộng sản Việt Nam ).
=>Hai thập niên đầu thể kỉ XX, với những hoạt động cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác-LêNin vào Việt Nam,
chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Đồng thời, Người đã thành công trong việc hợp nhất các tổ chức cộng
sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam.


3) Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam: thời kì đấu tranh giành
độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được những nhu
cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các
tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc trong
sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ
chức cách mạng tiên phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế
tắc về con đường cứu nước: “Từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên
đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống chủ nghĩa thực
dân. Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần Vư¬ơng, phong trào
yêu n¬ớc ba mư¬ơi năm đầu thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng, từ
khởi nghĩa Yên Thế và các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa
Thục, Duy Tân đến khởi nghĩa Yên Bái… như¬ng không thành công
vì thiếu một đư¬ờng lối đúng”. “Năm 1930, kế thừa “Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên” và các tổ chức cộng sản tiền thân, Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời, đánh dấu b¬ước ngoặt của cách mạng Việt
Nam”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Điều đó nói lên quy luật ra đời của Đảng và cũng chứng tỏ
giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đã
trưởng thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để khẳng định sự đảm
nhiệm vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính



trị đầu tiên của Đảng đánh dấu bước phát triển vế chất của cách mạng
Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường
đi lên của dân tộc Việt Nam từ 1930 là con đường cách mạng vô sản.
Đó là sự lựa chọn của chính nhân dân Việt Nam, chính lịch sử dân tộc
Việt Nam trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc.
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó
cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài
mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin chân
chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở lý luận
vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng
đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc
phát triển của đất nước.
- Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cư¬ơng lĩnh đư¬ợc thông
qua ở Hội nghị thành lập Đảng, từ năm 1930 cách mạng Việt Nam có
đư¬ợc đư¬ờng lối chính trị toàn diện đề ra mục tiêu và ph¬ương pháp
đấu tranh thích hợp, giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản của xã
hội, đồng thời có đư¬ợc tổ chức Đảng cách mạng để lãnh đạo và tổ
chức phong trào cách mạng. Sự ra đời của Đảng đã tạo những tiền đề
và điều kiện để đ¬ưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc
và xây dựng đất nước được, mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận
khăng khít của cách mạng thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Việt Nam tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu

tranh cách mạng của nhân dân thế giới.
- Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định
bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và


xây dựng đất nước quá độ đi lên CNXH của dân tộc ta từ khi Đảng ra
đời và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu "dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".

4) Nội dung cơ bản của Luận cương Chính
trị tháng 10/1930?
“Luận cương chính trị tháng 10– 1930” Hoàn cảnh ra đời Từ 14- 30/10/1930
hội nghị BCH TW họp lần thứ nhất tại Hương Cảng, do Trần Phú chủ trì.
Nội dung của hội nghị gồm: Thảo luận Luận cương chính trị, quyết định đổi
tên Đảng từ Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương,
trong hội nghị các đại biểu cũng nhất trí bầu đồng chí Trần Phú làm tổng bí
thư. •Năm 1930: Tháng 4-1930 Trần Phú sau thời gian học tập ở Liên Xô
đượcquốc tế cộng sản cử về nước. Đến tháng 7-1930 đợc bổ sung vào BCH
TWĐảng.
* Nội dung cơ bản của Luận cương:
- Về mâu thuẫn xã hội: "Một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao
khổ, một bên là địa chủ phong kiến, tư bản và chủ nghĩa đế quốc".
- Về tính chất và mục tiêu chiến lược của cách mạng Đông Dương: Lúc đầu
là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế. "Tư
sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi
cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời
kỳ tư bản mà đi thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa"
- Về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền: Đấu tranh để đánh đổ các di tích
phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất; đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho

Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó liên lạc mật thiết với
nhau nhưng " vấn đề thuộc địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền".
-Về lực lượng của cách mạng :
+Công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, trong đó giai
cấp công nhân là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng;
nông dân là một động lực đông đảo và mạnh của cách mạng


+Tư Sản thương nghiệp thì đứng về đế quốc chống Cộng sản. Tư sản công
nghiệp thì đứng về quốc gia cải lương, khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ
đứng về đế quốc.
+Trong giai cấp tiểu tư sản: bộ phận thủ công nghiệp thì do dự, thành phần
thương gia thì không tán thành cách mạng, trí thức thì có xu hướng quốc gia
chỉ hăng hái trong thời kì đầu, chỉ các phần tử lao khổ mới theo cách mạng
mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng: Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên
võ trang bạo động để giành chính quyền.
- Về mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới: cách
mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện
cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Muốn vậy:
+ Đảng phải có đường lối đúng đắn, gắn bó với giai cấp, lấy chủ nghĩa MácLênin làm nền tảng
+Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho chính
quyền lợi của giai cấp công nhân, đấu tranh cho mục tiêu chủ nghĩa cộng
sản.
+Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô
sản Pháp.
=>Như vậy, hội nghị Trung ương 10/1930 đã có một số quyết định rất quan
trọng về đường lối cách mạng Việt Nam. Hội nghị cũng đã bầu ban chấp
hành trung ương chính thức do đồng chí Trần Phú là Tổng bí thư.


5) Nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng 8
năm 1945?
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam bước vào
một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh của mình. Đảng ta trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền
trong cả nước. Nước ta từ một nước thuộc địa và nửa phong kiến trở
thành một nước độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam châu Á.


NN khách quan
- Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận
lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phátxít Nhật đã bị Liên Xô và
Đồng minh đánh bại, quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần
chiến đấu, chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. Đảng Cộng sản Đông
Dương đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy nên đã giành
được thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.
NN chủ quan:
- Cách mạng tháng 8 là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian
khổ của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua
3 cao trào cách mạng rộng lớn: Cao trào cách mạng 1930-1931, cao
trào 1936-1939 và cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Quần chúng
cách mạng được Đảng tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện bằng thực tiễn
đấu tranh đã trở thành lực lượng hùng hậu, có lực lượng vũ trang nhân
dân làm nòng cốt.
- Cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh của
dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua cao trào
36 - 39 và cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Quần

chúng cách mạng đã được tổ chức lãnh đạo và rèn luyện bằng thực
tiễn đấu tranh và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, có lực lượng
vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
- Cách mạng tháng Tám thành công là do Đảng ta chuẩn bị được lực
lượng vĩ đại toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ
sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Đảng là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng tháng Tám, vì Đảng có
đường lối cách mạng đúng đắn, dày dặn kinh nghiệm đấu tranh, nắm
đúng thời cơ và chỉ đạo, kiên quyết khôn khéo tạo nên sức mạnh tổng
hợp áp đảo kẻ thù.
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định, chủ yếu của cách mạng
tháng Tám.


6) Ý nghĩa thắng lợi cách mạng tháng 8 năm
1945?
* Đối với dân tộc:
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng
lợi ở một nước thuộc địa. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám,
nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc
trong gần một thế kỷ trên đất nước ta, chấm dứt sự tồn tại của chế độ
quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
- Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu một trang sử vẻ vang của
dân tộc ta, đánh dấu sự đổi đời của một dân tộc. Cách mạng Tháng
Tám đã đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập
dân chủ, đưa Đảng ta từ một Đảng không hợp pháp trở thành một
Đảng nắm chính quyền, đưa dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên phong
trên thế giới.

- Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới cho cách mạng
nước ta- kỷ nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng
Cộng sản. Đây là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa MácLênin ở một nước thuộc địa.
- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, "Chẳng những giai cấp lao
động mà nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là
lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công,
đã nắm chính quyền toàn quốc"

* Đối với quốc tế:
- Cách mạng Tháng Tám đã nâng cao vị thế quốc tế của dân tộc Việt


Nam. Lần đầu tiên một dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách
đế quốc thực dân.
-Cách mạng Tháng Tám đã phá tan một mắt xích quan trọng của chủ
nghĩa đế quốc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Mở
đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực
dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa
thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành
độc lập. Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do
của Hồ Chí Minh và đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo
của Đảng. Nó chứng tỏ rằng: ở thời đại chúng ta, một cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả

năng thắng lợi ở một nước thuộc địa. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật
thiết với cách mạng vô sản ở "chính quốc", nhưng không lệ thuộc vào
cách mạng ở "chính quốc". Trái lại, nó có thể giành được thắng lợi
trước khi giai cấp công nhân "chính quốc" lên nắm chính quyền.

7) Nguyên nhân thắng lợi của cách mạng chống
thực dân Pháp xâm lược?
Thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp
của nhân dân ta là do các nhân tố cơ bản sau đây:
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh với đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài
và dựa vào sức mình là chính, có sức mạnh động viên và tổ chức toàn
dân đánh giặc.
- Có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi - Mặt trận Liên Việt - được xây dựng trên nền tảng
khối liên minh công nông và trí thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo
ngày càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí là lực
lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm


lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được
giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân
kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào,
Campuchia cùng chống một kẻ thù chung; có sự đồng tình, giúp đỡ
của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc
yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.
Với ý chí "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất

định không chịu làm nô lệ", nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
chiến đấu kiên cường và chiến thắng ngày càng to lớn, tiêu biểu là
chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ. Chúng ta đã bảo vệ được chính
quyền cách mạng, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, giải phóng hoàn toàn
miền Bắc, tạo điều kiện tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ trên phạm vi cả nước.

8) Ý nghĩa thắng lợi của cuộc khắng chiến chống Pháp xâm lược?
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi đã khẳng
định sức mạnh và truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta. Sức
mạnh của ý chí tự lực tự cường của một dân tộc có truyền thống văn
hiến đã đánh thắng một trong những cường quốc của thế giới hiện đại.
Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam đã được phát huy trong thời đại mới, thời đại CM giải
phóng dân tộc gắn liền vời chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi này là hiện thực hóa đầy sáng tạo đường lối CM của Đảng,
cũng như thiên tài của chủ tịch HCM. Trước những sóng gió của lịch
sử chủ tịch HCM cùng với Đảng ta đã chèo lái con thuyền cm vượt
qua khó khăn đi tới thắng lợi từ thực tế sinh động đó, đường lối kháng
chiến được phát triển bổ sung phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn
trong suốt cuộc kháng chiến
Thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ đã nói lên sức sống
mãnh liệt và một tiềm năng to lớn của một chế độ xã hội mơi, một thể


chế chính trị tiến bộ trong lịch sử tiến bộ của dân tộc Việt Nam.Thành
quả của CMT8 được bảo vệ và phát triển.Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa trẻ tuổi đã đứng vững trước những thử thách của lịch sử
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã giải phóng

hoàn toàn miền Bắc, tạo căn cứ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất tổ quốc.Đây là tiền đề to lớn nhất cho sự nghiệp cách mạng
của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kì mới, thời kì cả nước đồng thời
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng trên 2 miền đất nước,
tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù được coi là sen đầm
của thế giới hiện đại.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa 2 hệ thống,
báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi thế giới.
Việt Nam- Điện Biên Phủ-Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng của
chủ nghĩa anh hùng CM,mang lại niềm tin mạnh mẽ cho các dân tộc
nhỏ bé đang đấu tranh cho độc lập dân tộc,dân chủ và tiến bộ xã hội
trong thế giới ngày nay.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng
chiến dịch Điện biên Phủ lịch sử và hiệp định Gionever là thời đại Hồ
CHí Minh. Chiến thắng này đặt cơ sở vững chắc cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ và những thắng lợi của CM Việt nam sau này.

9) Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước?
1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố
quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam .
Đảng ta nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp,
trước dân tộc và phong trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng
mình vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, theo đúng
nguyên lý xây dựng đảng mácxít-lêninnít. Do vậy, đã đáp ứng ngày
càng đầy đủ những yêu cầu rất khắt khe về sức mạnh tiền phong chiến
đấu của một đảng giữ vai trò quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo
chủ nhhĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa



ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời
kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu, con đường, nhiệm
vụ cách mạng đặt ra.
Đảng ta đã đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, hiểu rõ những
thuận lợi cơ bản cùng những khó khăn của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến vĩ đại để định rõ bước đi, đánh bại kẻ thù rất mạnh và vô
cùng xảo quyệt. Trong cuộc đọ sức với đế quốc Mỹ, Đảng ta là Bộ
tham mưu của giai cấp, của dân tộc, lãnh đạo toàn dân và toàn quân
tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh trên mọi trận tuyến.
Đảng ta coi trọng nguyên tắc “Tập trung dân chủ” và vận dụng đúng
đắn, sáng tạo nguyên tắc đó trong điều kiện chiến tranh. Trong quá
trình cuộc kháng chiến đầy biến động, toàn Đảng từ Trung ương đến
chi bộ, dù ở miền Nam hay miền Bắc, là một khối thống nhất vững
chắc, toàn Đảng một ý chí, một quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
BCHTW Đảng, Bộ Chính trị đã đưa ra những quyết định chính xác,
kịp thời, đúng thời cơ, tạo nên những chuyển biến căn bản, đưa cuộc
kháng chiến giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn.
2. Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã phát huy truyền
thống yêu nước của dân tộc, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ,
chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con
người
Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan
cường, bền bỉ và anh dũng; thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ của nhân
dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong cả nước, của hàng
chục triệu đồng bào yêu nước trên tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm
gương kiên cường, bất khuất. Người trước ngã, người sau tiến lên đạp
bằng mọi chông gai thử thách, quyết tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà

diệt. Đồng bào, chiến sĩ miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt,
động viên con em lên đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, lao
động quên mình, tạo ra cơ sở vật chất xây dựng CNXH, thực sự là hậu
phương lớn chi viện toàn diện, liên tục cho cuộc kháng chiến ở miền
Nam. Đồng thời trực tiếp đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân của địch, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.


Các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã phát huy truyền thống quyết
chiến, quyết thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã
không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, mưu trí sáng tạo, dũng cảm
chiến đấu, góp phần cùng toàn dân đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm
lược.
3. Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một
lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đứng trước những khó
khăn thử thách, truyền thống quý báu đó càng được phát huy cao độ.
Trong Đảng, đoàn kết thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng
nâng cao lòng tin của toàn dân với Đảng và trở thành động lực xây
dựng khối đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong chiến đấu,
lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, thiếu thốn, thống nhất về
chính trị, về nhận thức và hành động, trên cơ sở tình cảm giai cấp, tình
đồng chí, nghĩa đồng bào.
Điểm nổi bật về sự đoàn kết thống nhất là tình đoàn kết Bắc - Nam.
Mỹ - nguỵ tìm trăm phương ngàn kế chia rẽ Bắc - Nam hòng cô lập
cách mạng miền Nam, nhưng Bắc - Nam luôn là một nhà, là anh em
ruột thịt. Cả miền Bắc ngày đêm hướng về miền Nam, dốc hết sức
người, sức của cho cách mạng miền Nam. Cả miền Nam hướng về
miền Bắc và Thủ đô Hà Nội với niềm tin lớn lao, chỗ dựa vững chắc

cả về vật chất và tinh thần. Sự đoàn kết thống nhất giữa nhân dân với
quân đội được tăng cường. Nhân dân sẵn sàng giúp đỡ bộ đội. Bộ đội
chiến đấu quên mình vì dân tạo nên sự gắn bó máu thịt với nhân dân.
Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở
thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược.
4. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành
sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ra sức
tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của


đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh
ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần
tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt
trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ
Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Trong đó, các nước XHCN và phong
trào cộng sản quốc tế là nòng cốt, đặc biệt sự giúp đỡ to lớn có hiệu
quả của Liên Xô, Trung Quốc, tạo ra một tập hợp lực lượng mạnh mẽ
bao vây cô lập và tiến công đế quốc Mỹ từ mọi phía.
5. Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân
Campuchia
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó với nhau từ xa xưa,
Đảng và nhân dân ta đã chủ động đoàn kết, liên minh chiến đấu với
nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Sự đoàn kết liên minh đó được
thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi
nước, cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc lập chủ
quyền quốc gia cho cả ba dân tộc; thể hiện sự hiệp đồng chiến đấu của
quân đội ta với quân đội Lào, Campuchia, cho nên đã tạo ra thế chiến
lược tiến công chung cho cả 3 nước, đánh bại từng kế hoạch, từng biện

pháp chiến lược lớn của địch trên toàn Đông Dương, giải phóng ba
nước trong cùng một thời gian tương đối gần nhau (Campuchia:
17/4/1975; Việt Nam: 30/4/1975; Lào: 2/12/1975), mở đường cho
từng nước bước vào giai đoạn lịch sử mới.

10) Đường lối công nghiệp hóa của đảng trong
giai đoạn 1976-1985?
- Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976), trên cơ sở phân tích toàn diện
tình hình trong nước và quốc tế, đề ra đường lối công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế
nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông
nghiệp trong cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây
dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp
kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất”.


- Bắt đàu từ đại hội TW 6 khóa 6(1979) đã có những điều chỉnh như
sau:khuyến khích sản xuất nông-lâm-ngư-nghiệp,hàng tiêu dùng,hàng
xuất khẩu.Chuyển trọng tâm vốn từ công nghiệp nặng sang sản xuất
hàng tiêu dùng,xuất khẩu…và các lĩnh vực được ưu tiên.Chú trọng sản
xuất kinh doanh,coi trọng sự hài hòa giữa 3 lợi ích:nhà nước,tập thể và
người lao động.Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế tập chunng quan liêu
sang hoạch toán kinh doanh XHCN.
- Đại hội V của Đảng (tháng 3/1982):
+ Đảng đã xác định CNH phải thực hiện theo từng chặng đường, trước
mắt là 81- 85 và kéo dài đến 1990

Rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải
xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu
và khả năng của mỗi chặng đường. Nội dung chính của công nghiệp
hóa trong chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ là lấy nông
nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong
giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực,
có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
+ Đánh giá về đường lối: Đường lối CNH trong giai đoạn 76- 85 là
đường lối toàn diện, đầy đủ về các mặt kinh tế, chính trị , xa hội…
Đảng đã vạch ra những chủ trương, đường lối, mục tiêu và nhiệm vụ
phải thực hiện trong giai đoạn trên. Và Đảng cũng thừa nhận tồn tại
nhiều thành phần kinh tế trong thời gian nhất định ở MIền Nam (Quốc
Doanh, Tập thể, cá nhân, tư bản, tư doanh, hợp doanh) và Đảng đã đưa
ra biện pháp để sửa chữa và khác phục những sai lầm.



×