Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

phân tích một số chỉ tiêu kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi cá tra (pangasianodon hypophthalmus, 1878) trong ao đất ở tỉnh vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.69 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

ĐOÀN TRÍ QUANG

PHÂN TÍCH MỘT SỐ CHỈ TIÊU KỸ THUẬT
VÀ TÀI CHÍNH CỦA MÔ HÌNH NUÔI CÁ TRA
(Pangasianodon Hypophthalmus, 1878)
TRONG AO ĐẤT Ở TỈNH VĨNH LONG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH KINH TẾ THỦY SẢN

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
ThS. NGUYỄN THANH TOÀN
ThS. NGUYỄN THỊ KIM QUYÊN

2014


PHÂN TÍCH MỘT SỐ CHỈ TIÊU KỸ THUẬT VÀ TÀI CHÍNH CỦA MÔ HÌNH NUÔI
CÁ TRA (Pangasianodon Hypophthalmus, 1878) TRONG AO ĐẤT
Ở TỈNH VĨNH LONG
Đoàn Trí Quang, Nguyễn Thị Kim Quyên và Nguyễn Thanh Toàn
Bộ môn Kinh tế và Quản lý nghề cá, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Email:
ABSTRACT
The study was carried out from Sept 2014 to Oct 2014 aiming to analyse some technical and financial
targets of catfish feeding in Tra On and Mang Thit districts, Vinh Long province. Total of 33 Striped
catfish farmer were randomly questionnaires interviewed. The results showed that average stocking
density in pont was 50.9 fingerlings/m2, stocking size was 1.81 cm and harvest size 747 gram with


stocking duration for 1 crop was 190 days. Average amount of feed was 485 ton/ha/crop, the yield of
322 ton/ha/crop, spent about 6.62 bil. VND/ha/crop and earned a net income of 831 mil. VND/ha/crop.
The fish yield in the grow- out farms was significantly affected by the stocking duration, the depth of
water and the actors experience. Earnings from catfish was significantly affected by amount of feed,
saleprice at pond and costs of chemicals/drugs.
Keywords: Striped catfish, Pangasianodon hypophthalmus,Vinh Long, the fish yield in the growout farms, earnings.
Title: Analysing some technical and financial targets of pond catfish (Pangasianodon
hypophthalmus) feeding models in Vinh Long province.
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm phân tích các chỉ tiêu kỹ thuật và tài chính trong nuôi cá tra ở các huyện Trà Ôn
và Mang Thít thuộc tỉnh Vĩnh Long. Nghiên cứu được thực hiện bằng việc phỏng vấn 33 hộ nuôi cá tra
tại 2 huyện Trà Ôn và Mang Thít thông qua bảng phỏng vấn được soạn sẵn. Kết quả thu được cho thấy
mật độ thả nuôi cá trung bình là 50,9 con/m2, kích thước con giống trung bình là 1,81 cm và kích cỡ cá
thu hoạch là 747 g với thời gian nuôi cho 1 vụ là 190 ngày. Tổng lượng thức ăn bình quân cho 1 vụ là
485 tấn/ha/vụ, năng suất cá đạt 322 tấn/ha/vụ với mức chi phí cho 1 vụ là 6,62 tỷ đồng/ha/vụ, thu được
lợi nhuận 831 tr.đ/ha/vụ. Năng suất cá tra chịu tác động bởi các yếu tố: thời gian nuôi, kích cỡ thu
hoạch, độ sâu ao nuôi và số năm kinh nghiệm. Lợi nhuận từ nuôi cá tra bị tác động bởi những yếu tố
sau: lượng thức ăn, giá bán tại ao và chi phí thuốc hóa chất.
Từ khóa: Nuôi cá tra, Vĩnh Long, năng suất cá, lợi nhuận.
1 GIỚI THIỆU
Từ năm 2000, cá tra và cá basa đã trở thành đối tượng nuôi quan trọng và xuất khẩu chủ lực thứ hai ở
Việt Nam, sau tôm sú. Theo Tổng cục Thủy sản (2014), diện tích nuôi cá tra 8 tháng đạt 3.842 ha
(bằng 96,1% so với cùng kỳ), sản lượng thu hoạch là 631.018 tấn (bằng 82,8% so với cùng kỳ); giá trị
xuất khẩu cá tra đạt 1,04 tỷ USD, giảm nhẹ ở mức 1,4% so với cùng kỳ năm 2013. Nằm ở vị trí được

1


bao bọc bởi sông Tiền và sông Hậu, với hệ thống sông ngòi chằng chịt, tỉnh Vĩnh Long đã khai thác tối
đa lợi thế sẵn có để nuôi trồng và khai thác thủy sản đặc biệt là con cá tra. Năm 2013, diện tích nuôi

trồng thủy sản (NTTS) toàn tỉnh đạt 2.613,07 ha, trong đó diện tích mặt nước nuôi cá tra thâm canh là
423,17 ha tăng 0,14% (0,61 ha) so với cùng kỳ năm 2012 (Chi cục Thủy sản Vĩnh Long, 2013). Tuy
nhiên, sản xuất và tiêu thụ cá tra đang gặp một số khó khăn nhất định như: giá các nguyên liệu đầu vào
tăng cao, giá cá nguyên liệu đang ở mức thấp, dịch bệnh hay diễn ra và thị trường tiêu thụ chưa ổn
định. Trước một vài khó khăn nêu trên đề tài “Phân tích một số chỉ tiêu kỹ thuật và tài chính của mô
hình nuôi cá tra trong ao đất ở tỉnh Vĩnh Long” được thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng sản xuất
hiện nay và đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả về kỹ thuật và tài chính cho người
nuôi trong địa bàn tỉnh khảo sát.
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Số liệu thứ cấp được tổng hợp từ các báo cáo của Sở và Phòng NN & PTNT của tỉnh khảo sát, các cơ
quan ban ngành địa phương cấp huyện trên địa bàn nghiên cứu, tạp chí chuyên ngành, luận văn tốt

nghiệp cao học. Bài báo, các website chuyên ngành và một số tài liệu có liên quan.
Tổng số 33 hộ nuôi cá tra trong ao đất tại 2 huyện Trà Ôn và Mang Thít tỉnh Vĩnh Long được phỏng
vấn trực tiếp thông qua bảng phỏng vấn được soạn sẵn. Các số liệu sơ cấp sau khi thu thập đã được
kiểm tra, nhập và xử lý. Phương pháp phân tích thống kê mô tả, thống kê nhiều chọn lựa và phân tích
hồi qui đa biến.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Thông tin chung về các hộ nuôi cá tra
Số lượng lao động chính cho nghề nuôi cá tra ở tỉnh Vĩnh Long có độ tuổi trung bình của các chủ hộ là
50,3±9,35 tuổi, thấp nhất 35 tuổi và cao nhất là 77 tuổi. Qua khảo sát cho thấy, chủ hộ quản lý ao nuôi
cá tra 100% là nam. Do tính chất công việc nên việc quản lý ao nuôi phù hợp với nam hơn so với nữ.
Bảng 1: Thông tin chung về nông hộ
Diễn giải
1. Độ tuổi
2. Số năm kinh nghiệm
3. Trình độ học vấn
- Cấp 1
- Cấp 2
- Cấp 3

- Trung cấp
- Cao Đẳng/ Đại Học
4. Lao động
- Lao động gia đình
- Lao động thuê mướn

Đvt
tuổi
năm
%
%
%
%
%
%
n
người/hộ
người/hộ

Trung bình
50,3±9,35
8,29±1,97
100
15
33
37
6
9
33
2,37±1,11

4,40±4,33

Qua kết quả thu được cho thấy trình độ học vấn của các hộ nuôi chủ yếu là cấp 2 và cấp 3 (33% và
37%) . Độ tuổi trung bình ở mức khá cao nên số năm kinh nghiêm cũng tương đối cao, cụ thể số năm
kinh nghiệm trung bình là 8,29±1,97 năm, trong đó thấp nhất là 5 năm và cao nhất là 14 năm. Số năm
2


kinh nghiệm và trình độ học vấn càng cao đồng nghĩa với việc người nuôi có kinh nghiệm, kỹ thuật
nuôi và quản lý ao nuôi tốt hơn cũng như khả năng tiếp thu được nguồn thông tin khoa học tốt hơn,
ứng dụng các kỹ thuật mới nhanh hơn, hiệu quả hơn, do đó chất lượng nuôi sẽ tốt hơn.
Kết quả điều tra cho thấy đối với các hộ nuôi với quy mô nhỏ họ đều tận dụng nguồn lao động trong
gia đình là chính nhằm giảm bớt chi phí thuê mướn. Lao động gia đình tham gia trung bình là 2,37
người/ hộ. Tùy vào quy mô và mức độ đầu tư của hộ mà có số lượng lao thuê mướn khác nhau có đến
30,3% hộ thuê mướn thêm lao động, trung bình là 4,40 người/hộ thuê mướn (Bảng 1).
Bảng 2: Nguồn thông tin kinh nghiệm nuôi cá tra
Đvt
%
%
%
%
%
%

Nguồn thông tin kinh nghiệm
Kinh nghiệm
Tập huấn
Từ nông dân khác
Từ tài liệu tạp chí
Từ truyền thông

Nguồn thông tin khác

Giá trị
100
93,9
15,2
51,5
6,06
12,1

Đề giảm chi phí, tăng thu nhập và nâng cao hiệu quả trong nuôi cá tra thì việc tiếp cận các nguồn
nguồn thông tin khoa học kỹ thuật là một vấn đề thiết yếu. Có rất nhiều cách để cập nhật nguồn thông
tin, phổ biến nhất là tự đúc kết qua quá trình nuôi, các lớp tập huấn, đọc các tài liệu tạp chí liên quan
đến ngành, hay hỏi những người nuôi, phương tiện truyền thông hay từ các nguồn khác.
Qua kết quả phân tích cho thấy có 3 nguồn thông tin được người nuôi đưa ra nhiều nhất là kinh nghiệm
tự có (100%), tập huấn (93,9%) và từ tài liệu tạp chí (51,5%) (Bảng 2).
3.2 Hiệu quả kỹ thuật- tài chính của mô hình nuôi cá tra trong ao đất
3.2.1 Khía cạnh kỹ thuật
Con giống
Chất lượng con giống là một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của một chu kỳ nuôi,
việc chọn lựa nguồn gốc cá bố mẹ là một trong những vấn đề quan trọng. Theo kết quả thu được từ các
hộ nuôi thì nguồn giống tự nhiên hiện nay không còn đủ để đáp ứng nhu cầu người nuôi. Con giống
hiện nay được sản xuất nhân tạo từ các cơ sở sản xuất giống trong tỉnh và các tỉnh khác tại đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL).
Tuy nhiên, khi con giống được mua từ tỉnh khác sẽ làm tăng chi phí con giống do có chi phí phát sinh
thêm trong quá trình vận chuyển, khả năng hao hụt con giống sẽ cao hơn cũng như khả năng lây lan
bệnh mới về vùng nuôi cao hơn so với khi mua con giống từ địa phương hoặc tự sản xuất. Người nuôi
nên chọn các cơ sở sản xuất giống có uy tín, khi chọn cá cần chọn cá có kích thước đồng đều, hoạt
động mạnh, không bị xây xát và không có dấu hiệu bị nhiễm bệnh.
Kết quả khảo sát có 3% hộ có khả năng tự sản xuất giống, 45,5% hộ mua giống tại địa phương, 39,4%

hộ mua từ tỉnh khác và còn lại là mua tại địa phương và tỉnh khác. Chất lượng con giống ở phân tích
này được đánh giá chưa cao chỉ ở mức khá tốt (60,6%), còn lại 39,4% ở mức trung bình (Bảng 3).

3


Bảng 3: Nơi cung cấp con giống và chất lượng giống
Diễn giải
Đvt
Nơi cung cấp con giống
n
1. Tự sản xuất
%
2. Địa phương
%
3. Tỉnh khác
%
4. Địa phương & tỉnh khác
%
Chất lượng con giống
n
- Khá tốt
%
- Trung bình
%

Hộ nuôi
33
3
45,5

39,4
12,1
33
60,6
39,4

Diện tích, độ sâu, kích cỡ, mật độ và thức ăn
Kết quả bảng 4, cho thấy diện tích mặt nước trung bình ở mức 0,423±0,213 ha/ao và độ sâu ao nuôi
3,92±0,321 m trong đó có ao sâu đến 4,5 m. Kết quả phân tích tương đối phù hợp so với các nghiên
cứu trước đây, theo Lê Lệ Hiền (2008), diện tích ao nuôi cá tra bình quân ở ĐBSCL là 0,4 ha/ao; mức
nước trong ao là 3,7 m. Đánh giá của Trần Xuân Điếu (2009), diện tích mỗi ao nuôi là 0,43 ha và độ
sâu mực nước nuôi trung bình của các tỉnh ĐBSCL là 3,7 m.
Bảng 4: Một số thông tin kỹ thuật về nuôi cá tra trong ao đất
Diễn giải
Đvt
Thấp nhất
Cao nhất
Diện tích mặt nước
ha/ao
0,10
1
Độ sâu mực nước
m
3,50
4,50
Mật độ
con/m2
25
80
Kích cỡ con giống

cm
1,50
2,50
Lượng thức ăn
tấn/ha/vụ
200
833
FCR
lần
1,30
1,80

Trung bình
0,423±0,213
3,92±0,321
50,9±15,3
1,81±0,249
485±138
1,50±0,107

Mật độ thả nuôi của các hộ nuôi được khảo sát trung bình là 50,9 con/m2, thấp nhất 25 con/m2 và cao
nhất là 80 con/m2 với kích thước con giống là 1,81±0,249 cm. Theo Lâm Trường Ân (2010), mật độ cá
tra nuôi ở ĐBSCL là 48±23,9 con/m2, kích cỡ cá giống dao động từ 1,5 - 1,9 cm, còn ở một báo cáo
khác mật độ thả nuôi là 49,5±2 con/m2 với kích cỡ con giống là 1,79±0,03 cm (Phạm Thị Kim Oanh và
Trương Hoàng Minh, 2011). Qua đó cho thấy kích thước con giống khi thả và mật độ thả cá không có
khác biệt nhiều và phù hợp so với các nghiên cứu trước đó.
Kết quả phân tích cho biết có đến 97% hộ sử dụng thức ăn công nghiệp (TACN), còn lại 3% số hộ sử
dụng TACN kết hợp với thức ăn tự chế (TATC), việc người nuôi sử dụng TACN nhiều là để dễ quản
lý thức ăn và quản lý môi trường ao nuôi.
Tổng lượng thức ăn được sử dụng trong nuôi cá tra của các hộ được khảo sát là 485±138 tấn/ha/vụ và

hệ số FCR chỉ ở mức 1,50±0,107 lần thấp hơn so với nghiên cứu gần đây, theo Phạm Thị Kim Oanh và
Trương Hoàng Minh (2011) tổng lượng thức ăn là 553±18,1 tấn/ha/vụ với hệ số FCR là 1,65±0,02 lần.
Mùa vụ, thời gian nuôi, kích cỡ thu hoạch, tỷ lệ sống và năng suất nuôi cá tra
Trung bình các hộ nuôi nuôi trung bình 1,6 vụ, thấp nhất là 1 vụ và cao nhất là 2 vụ trong năm. Thời
gian nuôi cá tra trung bình là 6 tháng, trong đó cao nhất là 8 tháng và thấp nhất là 5 tháng. Các nghiên
4


cứu khác cho thấy, thời gian nuôi kéo dài từ 7 - 9 tháng/vụ (Lâm Trường Ân, 2010) và theo Trần Xuân
Điếu (2009) thời gian nuôi cá trung bình là 6,7 tháng/vụ. Thời gian nuôi phụ thuộc vào kích cỡ thả
giống cũng như tùy thuộc vào giá bán mà người nuôi có thể quyết định.
Tỷ lệ sống của cá đạt khá cao ở mức trung bình là 74,5%, kết quả này tương tự các kết quả của những
nghiên cứu trước đó, Lâm Trường Ân (2010) từ 70 - 80% và 75,8±0,9% (Phạm Thị Kim Oanh và
Trường Hoàng Minh, 2011).
Năng suất bình quân đạt 322 ±89,2 tấn/ha/vụ trong đó năng suất cáo nhất đạt 533 tấn/ha/vụ và thấp
nhất là 140 tấn/ha/vụ với kích cỡ thu hoạch là 747±59,9 g, thấp hơn so với nghiên cứu của Lê Lệ Hiền
(2008) cụ thể năng suất cá tra nuôi ao ở ĐBSCL trung bình là 370 tấn/ha/vụ. Theo báo cáo của Phạm
Thị Kim Oanh và Trường Hoàng Minh (2011) thì năng suất nuôi đạt 337±11,2 tấn/ha/vụ.
Bảng 5: Mùa vụ, thời gian nuôi, kích cỡ thu hoạch, tỷ lệ sống và năng suất nuôi cá tra
Diễn giải
Đvt
Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Số vụ nuôi
vụ/năm
1
2
1,60±0,446
Thời gian nuôi

tháng/vụ
5
8
6,36±0,628
Kích cỡ thu hoạch
g
600
900
747±59,9
Tỷ lệ sống
%
60
90
74,5±7,00
Năng suất
tấn/ha/vụ
140
533
322±89,2
Tiêu thụ cá thịt hiện nay phần lớn do các nhà máy chế biến đến ký hợp đồng thu mua. Có 100% hộ
bán cho nhà máy chế biến thủy sản (NMCB). Việc bán cá thịt cho NMCB sẽ đảm bảo cho người nuôi
về khả năng thu lại tiền bán cá từ NMCB cao hơn rất nhiều so với khi bán với hình thức khác.
Quản lý nguồn nước trong nuôi cá tra
Chất lượng nước là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến tỷ lệ sống của cá, do đó việc sử
dụng nước trong nuôi cá tra đang là vấn đề đáng quan tâm. Nhìn chung nguồn nước nuôi được lấy chủ
yếu từ sông chính (72,7%), nước được thay liên tục suốt quá trình nuôi bằng cách bơm từ sông hoặc
thay nước theo thủy triều. Hầu hết các hộ nuôi thường lấy nước cấp vào ao nuôi mà không qua xử lý do
đó rủi ro về tình trạng cá bị nhiễm bệnh là khá cao.
Bảng 6: Thông tin về quản lý nước trong nuôi cá tra
Diễn giải

Đvt
1. Nguồn nước nuôi
n
- Sông chính
%
- Sông nhánh
%
2. Cách thay nước
n
- Bơm
%
- Thủy triều
%
- Bơm & thủy triều
%
3. Tần suất thay nước
n
- Trung bình
lần/ngày
- Độ lệch chuẩn
lần/ngày
4. Tỷ lệ thay nước
%

5

Giá trị
33
72,7
27,3

33
12,1
60,6
27,3
33
1,8
0,5
37±10


Có đến 60,6% hộ nuôi thay nước bằng cách dựa vào thủy triều trung bình từ 1 - 2 lần trong ngày tùy
thuộc vào chế độ con nước. Lượng nước được thay 1 lần khoảng 37% lượng nước trong ao, tần suất
thay nước có liên hệ chặc chẽ với giai đoạn phát triển và độ trắng của thịt cá, khi cá đạt khối lượng cao
thì tần suất thay nước tăng theo.
Kết quả này tương đối phù hợp với nghiên cứu của Lê Lệ Hiền (2008), tần suất thay nước 1,5 lần/ ngày
với tỷ lệ lượng nước 34,9%.
Tình hình bệnh
Tình hình bệnh trong nuôi cá tra hiện nay đang diễn biến phức tạp, nguyên nhân chủ yếu là do: chất
lượng nước (57,6%), chất lượng con giống không tốt (21,2%), chất lượng thức ăn không tốt (18,2%),
cũng như điều kiện thời tiết ở nước ta không ổn định (51,5%). Nhiều bệnh xuất hiện trong nuôi cá tra
như: xuất huyết, gan thận mủ, trắng da trắng mang, phù đầu và trắng gan. Trong đó bệnh xuất hiện
nhiều nhất là xuất huyết (84,8%) và gan thận mủ (66,6%) (Bảng 7).
Như vậy, người nuôi cần phải chọn lựa chọn con giống cũng như loại thức ăn có chất lượng tốt nhằm
hạn chế cá mắc bệnh. Khi cá mắc bệnh cần theo dõi thường xuyên để có biện pháp xử lý kịp thời đồng
thời không nên thay nước thường xuyên vì có thể ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ sống của cá cũng như ảnh
hưởng đến các ao xung quanh.
Bảng 7: Nguyên nhân và các bệnh thường gặp
Diễn giải
Nguyên nhân cá mắc bệnh
- Môi trường nước ô nhiễm

- Chất lượng con giống không tốt
- Thời tiết thất thường
- Chất lượng thức ăn không tốt
Các bệnh thường gặp
1. Xuất huyết
2. Gan thận mủ
3. Trắng da trắng mang
4. Phù đầu
5. Trắng gan

Đvt
n
%
%
%
%
n
%
%
%
%
%

Số hộ
33
57,6
21,2
51,5
18,2
33

84,8
66,6
18,2
3,03
3,03

3.2.2 Khía cạnh tài chính
3.2.2.1 Chi phí trong nuôi cá tra
Tổng chi phí bao gồm chi phí biến đổi và chi phí cố định. Tổng chi phí bình quân là 6.624±1.764
tr.đ/ha/vụ, cao hơn so với báo cáo trước đây, theo Lê Lệ Hiền (2008) tổng chi phí bình quân
3.807±1.632 tr.đ/ha/vụ. Điều này cho thấy tổng chi phí nuôi ngày càng cao, nguyên nhân do giá các
yếu tố đầu vào ngày càng tăng như thức ăn, con giống, nguyên nhiên liệu.
Chi phí cố định trung bình là 23,6±26,8 tr.đ/ha/vụ chiếm 0,4% trong tổng chi phí, bao gồm các khoản
khấu hao công trình, máy móc và tiền thuê mướn đất. Trong đó, chi phí xây dựng công trình chiếm tỷ
lệ cao nhất (65,4%) bao gồm những chi phí ban đầu xây dựng ao nuôi, ao lắng, ao xử lý (nếu có). Kế
đến là chi phí thuê mướn đất chiếm 25,8%, còn lại là chi phí cho phương tiện sản xuất như máy bom,
ghe xuồng chiếm không đáng kể 8,8%. Theo nghiên cứu của Lê Lệ Hiền (2008) chi phí cố định trung
6


bình là 29,9±26,7 tr.đ/ha/vụ và cơ cấu chi phí cố định gồm: chi phí công trình 55,3%, chi phí thuê
mướn đất (22,2%), chi phí máy móc thiết bị (22,5%). Như vậy, tổng chi phí cố định ở nghiên cứu này
phù hợp với nghiên cứu trước đó.
Bảng 8: Các chỉ tiêu chi phí
Diễn giải
1. Tổng chi phí
- Trung bình (ha/vụ)
- Cao nhất (ha/vụ)
- Thấp nhất (ha/vụ)
Tổng cơ cấu chi phí

- Chi phí cố định
- Chi phí biến đổi
2. Chi phí cố định
- Trung bình (ha/vụ)
- Cao nhất (ha/vụ)
- Thấp nhất (ha/vụ)
Cơ cấu chi phí cố định
- Xây dựng công trình
- Phương tiện sản xuất
- Thuê đất
3. Chi phí biến đổi
- Trung bình (ha/vụ)
- Cao nhất (ha/vụ)
- Thấp nhất (ha/vụ)
Cơ cấu chi phí biến đổi (ha/vụ)
- Chi phí thức ăn
- Chi phí con giống
- Chi phí thuốc hóa chất
- Tiền lãi vay
- Chi phí khác
4. Giá thành (kg)
5. Giá bán (kg)

Đvt
n
tr.đ
tr.đ
tr.đ
%
%

%
n
tr.đ
tr.đ
tr.đ
%
%
%
%
n
tr.đ
tr.đ
tr.đ
%
%
%
%
%
%
nghìn đồng
nghìn đồng

Giá trị
33
6.624±1.764
10.937
3.129
100
0,4
99,6

33
23,6±26,8
113
2,13
100
65,4
8,8
25,8
33
6.601±1.756
10.920
3.104
100
83,3
6,97
3,92
3,60
2,21
20,8±3,38
23,1±0,8

Kết quả phân tích bảng 8, chi phí biến đổi trung bình của các hộ nuôi là 6.601±1.756 tr.đ/ha/vụ, chiếm
đến 99,6% tổng chi phí hằng vụ/ha. Bao gồm các khoảng chi phí thức ăn (83,3%) chiếm cao nhất, chi
phí con giống chiếm 6,97% ,chi phí thuốc hóa chất (3,92%), tiền trả lãi vay (3,60%) còn lại các chi
phí khác như chi phí sửa chửa cải tạo ao, chi phí nguyên nhiên liệu, chi phí thu hoạch và thuê mướn
chiếm không đáng kể (2,21%).
Như vậy, so với nghiên cứu trước đây, thì mức chi phí cố định không có sự thay đổi lớn, trong khi chi
phí biến đổi lại cao hơn rất nhiều, trong đó chi phí về thức ăn và con giống có sự thay đổi theo hướng
tăng lên. Cụ thể, nghiên cứu của Lê Lệ Hiền (2008), chi phí biến đổi là 3.777 tr.đ.ha/vụ.


7


Hiện nay, giá bán cá tra đang ở mức trung bình là 23,1±0,8 nghìn đồng/kg, như vậy với mức giá thành
20,8±3,38 nghìn đồng/kg người nuôi có lãi 200 đồng/kg.
3.2.2.2 Thu nhập và lợi nhuận
Tổng doanh thu bình quân từ cá tra của các hộ là 7.456±2.093 tr.đ/ha/vụ, trong đó doanh thu thấp nhất
đạt 3.290 tr.đ/ha/vụ và cao nhất đạt 12.258 tr.đ/ha/vụ. Mức doanh thu cao thấp có phụ thuộc vào quy
mô cũng như mức đầu tư của người nuôi.
Bảng 9: Các chỉ tiêu về thu nhập và lợi nhuận
Diễn giải
Đvt
Doanh thu (ha/vụ)
n
- Trung bình
tr.đ/ha/vụ
- Cao nhất
tr.đ/ha/vụ
- Thấp nhất
tr.đ/ha/vụ
Lợi nhuận (ha/vụ)
n
- Trung bình
tr.đ/ha/vụ
- Cao nhất
tr.đ/ha/vụ
- Thấp nhất
tr.đ/ha/vụ
Số hộ có lời
%

Tỷ suất lợi nhuận
lần

Giá trị
33
7.456±2.093
12.258
3.290
33
831±1.195
4.560
-3.218
84,8
0,134±0,166

Lợi nhuận sinh ra từ nuôi cá tra là rất cao, kết quả thu được từ người nuôi cá tra bình quân mỗi hộ nuôi
có mức lợi nhuận trung bình 831±1.195 tr.đ/ha/vụ, trong đó mức lợi nhuận cao nhất đạt 4.560
tr.đ/ha/vụ, tuy nhiên vẫn có hộ nuôi bị lỗ 3.218 tr.đ/ha/vụ chiếm đến (15,2%). Tỷ suất lợi nhuận đạt
0,134 lần.
Khi được hỏi về nguyên nhân gây thua lỗ trong nuôi người nuôi cho rằng: kỹ thuật nuôi còn hạn chế
(15,2%), dịch bệnh xảy ra thường xuyên (39,4%), chất lượng con giống chưa tốt (21,2%) cũng như giá
bán không ổn định (54,5%).
Ở các nghiên cứu khác, doanh thu bình quân của của các hộ nuôi cá tra tại ĐBSCL đạt 4.527
tr.đ/ha/vụ, lợi nhuận trung bình 719,9 tr.đ/ha/vụ, ứng với tỷ suất lợi nhuận trung bình là 14,4% (Lê Lệ
Hiền, 2008). Theo Phạm Thị Kim Oanh và Trương Hoàng Minh (2011), doanh thu của người nuôi cá
tra ở ĐBSCL là 5.390 tr.đ/ha/vụ, và mức lợi nhuận thu về trung bình là 159,05 tr.đ/ha/vụ, cùng với tỷ
suất lợi nhuận đạt 3,89%. Như vậy, doanh thu và lợi nhuận trong phân tích cao hơn so với cá nghiên
cứu trước đó.
3.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nuôi cá tra trong ao đất
Kết quả mô hình hồi qui cho thấy các biến độc lập trong hình giải thích được mức độ ảnh hưởng đến

năng suất nuôi là 94% (R2=0,94). Với mức ý nghĩa α= 5%, các biến độc lập: kích cở thu hoạch, chi phí
thuốc hóa chất, lượng thức ăn có ảnh hưởng đến năng suất nuôi (Bảng 10).

8


Bảng 10: Tương quan đa biến giữa các biến độc lập ảnh hưởng đến năng suất nuôi
Các biến độc lập
Hằng số
1: Ln Kích cỡ giống(cm)
2: Ln Mật độ (con/m2)
3: Ln Thời gian nuôi (tháng)
4: Ln Kích cỡ thu hoạch (g)
5: Ln Độ sâu (m)
6: Ln Số năm kinh nghiệm (năm)
7: Ln Chi phí thuốc hóa chất (tr.đ/ha/vụ)
8: Ln Lượng thức ăn (tấn/ha/vụ)
Hệ số tương quan và mức ý nghĩa của mô
hình

B
-22,3
0,501
0,066
0,343
3,15
1,03
0,098
-0,758
1,40

R
0,94

Sai số chuẩn
6,76
0,667
0,283
0,989
1,02
0,999
0,414
0,096
0,3
2
R
0,89

T
-3,30
0,751
0,232
0,347
3,09
1,03
0,236
-7,93
4,68
Giá trị F
24,4


Mức ý nghĩa
0,003
0,461
0,819
0,732
0,005
0,314
0,816
0,000
0,000
Mức ý nghĩa
0,000

Kích cở cá thu hoạch có mối quan hệ tỷ lệ thuận với năng suất cá. Với các yếu tố khác không đổi, năng
suất sẽ tăng thêm 3,15% khi kích cỡ cá thu hoạch tăng thêm 1%. Tuy nhiên, để đạt năng suất cao cần
phải nắm rõ về mặt kỹ thuật nuôi. Theo Lê Lệ Hiền (2008), kích cở thu thu hoạch trên 1 kg thì năng
suất cá sẽ đạt ở mức cao nhất.
Thuốc, hóa chất dung trong ao nuôi cá tra chủ yếu là để phòng và trị bệnh cá, cải tạo ao và xử lý nước
nó. Ở phân tích này, năng suất nuôi có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với chi phí thuốc hóa chất. Với các
yếu tố khác không đổi năng suất sẽ giảm đi 0,758% khi chi phí thuốc hóa chất tăng thêm 1%.
Lượng thức ăn và năng suất nuôi ở phân tích này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Nghĩa là khi
tăng 1% lượng thức ăn thì năng suất cá sẽ tăng lên thêm trung bình là 1,4% khi các yếu tố khác không
đổi. Theo Lê Lệ Hiền (2008), lượng thức ăn phù hợp nhất ở mức 800 – 1000 tấn/ha/vụ.
3.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong nuôi cá tra
Qua kết quả thu được thì với mức ý nghĩa α= 5%, các biến độc lập: lượng thức ăn, giá bán tại ao và
chi phí thuốc hóa chất có sự tác động đến lợi nhuận thu được.
Bảng 11: Tương quan đa biến giữa các biến độc lập ảnh hưởng đến lợi nhuận
Biến độc lập
Hằng số
1. Chi phí cố định (tr.đ/ha/vụ)

2. Lượng thức ăn (tấn/ha/vụ)
3. Thời gian nuôi (tháng)
4. Tỷ lệ sống (%)
5.Giá bán tại ao (đ/kg)
6. Chi phí thuốc hóa chất (tr.đ/ha/vụ)
7. Mật độ (con/m2)
8. Lãi suất ngân hàng (tr.đ/ha/vụ)
Hệ số tương quan và mức ý nghĩa của
mô hình

B
-14.956
-7,57
5,14
-168
23,9
0,796
-5,75
-7,53
-0,196
R

Sai số chuẩn
6801
9,98
1,96
549
24,7
232
1,56

12,3
2,86
2
R

-2,20
-0,758
2,62
-0,306
-0,968
3,43
-3,70
-0,614
-0,068
Giá trị F

Mức ý nghĩa
0,038
0,456
0,015
0,762
0,343
0,002
0,001
0,545
0,946
Mức ý nghĩa

0,77


0,59

4,37

0,002

9

T


Theo kết quả đó, với các yếu tố khác không đổi, nếu lượng thức ăn được sử dụng thêm 1 tấn/ha/vụ thì
lợi nhuận tăng thêm trung bình 5,14 tr.đ/ha/vụ, nguyên nhân do hệ số tiêu tốn thức ăn trong phân tích
này thấp ở mức trung bình là 1,50 nên khi tăng lượng thức ăn thêm cá sẽ phát triển và đạt kích cỡ thu
hoạch nhanh nên giảm được các chi phí khác dẫn đến lợi nhuận tăng.
Chi phí thuốc hóa chất phụ thuộc vào tình hình sức khỏe của cá, khi cá mắc bệnh chi phí cho thuốc hóa
chất sẽ tăng theo dẫn đến lợi nhuận sẽ giảm đi. Kết quả hồi quy cho biết lợi nhuận sẽ giảm đi 5,75
tr.đ/ha/vụ nếu chi phí thuốc hóa chất tăng thêm 1 tr.đ/ha/vụ.
Lợi nhuận và giá bán có mối quan hệ phụ thuộc nhau, khi giá bán tăng lợi nhuận đồng thời sẽ tăng
theo. Kết quả hồi quy thu được mức giá bán tại ao tăng thêm 1 đ/kg thì lợi nhuận sẽ tăng thêm trung
bình là 0,796 tr.đ/ha/vụ, với các yếu tố khác không đổi.
So với báo cáo của Phạm Thị Kim Oanh và Trương Hoàng Minh (2011) thì khi lợi nhuận sẽ giảm 2,6
tr.đ/tấn khi tăng thêm chi phí cho thuốc hóa chất và tăng thêm lợi nhuận là 1,6 tr.đ/tấn khi giá bán tại
ao tăng thêm. Như vậy, nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch về sự thay đổi của giá bán và chi phí
thuốc cao hơn là do giá bán cá và giá thuốc hóa chất tăng theo thời gian.
3.3 Thuận lợi và khó khăn của mô hình nuôi cá tra trong ao đất
Hiện nay người nuôi cá tra đang gặp phải một số khó khăn trong quá trình nuôi, do nguồn nước ngày
càng ô nhiễm (57,6%), thời tiết thất thường (51,5%), bệnh thường xuyên (39,4%) và con giống chưa
tốt (21,2%). Bên cạnh đó, giá bán không ổn định làm cho nười nuôi bị lỗ (54,5%).
Bảng 12: Thuận lợi và khăn của người nuôi cá tra

Diễn giải
Thuận lợi
- Gần sông lớn
- An ninh khu vực
- Lãi vay phù hợp
- Đầu ra ổn định
- Được hỗ trợ kỹ thuật thường xuyên
Khó khăn
- Nguồn nước ô nhiễm
- Con giống chưa tốt
- Thời tiết thất thường
- Giá bán không ổn định
- Dịch bệnh thường xuyên

Giá trị (%)
72,7
24,2
6,10
30,3
15,2
57,6
21,2
51,5
54,5
39,4

Tuy nhiên, người nuôi cũng có một số thuận lợi trong quá trình nuôi như ao nuôi gần sông lớn thuận
tiện cho việc thay nước cũng như vận chuyển cá và thức ăn (72,7%), có 30,3% hộ nhận định là đầu ra
ổn định do được NMCB ký kết hợp đồng thu mua. Ngoài ra, an ninh khu vực tốt (24,2%) và người
nuôi được hỗ trợ kỹ thuật nuôi thường xuyên (15,2%) sẽ giúp người nuôi an tâm hơn trong quá trình

nuôi.

10


4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1 Kết luận
Diện tích nuôi của một hộ nuôi cá tra thương phẩm bình quân là 1,19 ha, sản lượng bình quân
694 tấn/năm, năng suất trung bình đạt 322 tấn/ha/vụ với mức chi phí khoảng 6,6 tỷ/ha/vụ, thu
được lợi nhuận 831 tr.đ/ha/vụ với tỷ suất lợi nhuận là 0,134 lần.
Cá tra giống chủ yếu được sản xuất nhân tạo từ các cơ sở sản xuất giống trong tỉnh và các tỉnh
lân cận trong ĐBSCL. Chất lượng cá giống được đánh giá ở mức trung bình khá, trong đó
60,6% cho đánh giá chất lương cá tốt còn lại 39,4% cho kết quả trung bình và dựa vào các chỉ
tiêu độ dài của cá, hoạt động nhanh nhạy, kích cở đồng đều và sức ăn tốt không có dấu hiệu
bệnh hoặc bị xây xát.
Năng suất cá tra chịu tác động bởi cá yếu tố: thời gian nuôi, kích cỡ thu hoạch, độ sâu ao nuôi
và số năm kinh nghiệm.
Lợi nhuận từ nuôi cá tra bị tác động bởi những yếu tố sau: lượng thức ăn, giá bán tại ao và chi
phí thuốc hóa chất.
Người nuôi cá tra cũng gặp 1 số khó khăn trong quá trình nuôi như: nguồn nước nuôi ngày
càng bị ô nhiễm, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, giá bán không ổn định trong khi chi phí ngày
càng cao.
4.2 Đề xuất





Người nuôi nên có hợp đồng tiêu thụ khi cá đạt kích cỡ thu hoạch với các công ty nhà máy chế
biến. Nên thả cá nuôi với mật độ và kích thước con giống phù hợp với diện tích và độ sâu ao

nuôi, không nên thả quá nhiều và kích cỡ giống không đồng đều khi đó tỷ lệ cá sống sẽ bị
giảm.
Các cơ sở sản xuất giống cần nâng cao chất lượng con giống kháng bệnh tốt nhằm hạn chế
dịch bệnh khi nuôi thương phẩm.
Cần phân vùng nuôi cụ thể nhằm dễ kiểm soát dịch bệnh cũng như các vấn đề về môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chi cục Thủy sản Vĩnh Long, 2013. Báo cáo tình hình sản xuất và tiêu thụ cá tra tỉnh Vĩnh Long năm
2013 và kế hoạch phát triển năm 2014.
Lâm Trường Ân, 2010. Đánh giá nhận thức và khả năng ứng phó của người nuôi cá tra
(Pangasianodon hypophthalmus, 1878) ở Đồng Bằng Sông Cửu Long dưới tác động của biến
đổi khí hậu. Luận văn cao học, Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ.
Lê Lệ Hiền, 2008. Phân tích tình hình cung cấp giống và sử dụng giống cá tra (Pangasianodon
hypopthalmus) ở Đồng băng Sông Cửu Long. Luận văn cao học, Khoa Thủy Sản, Trường Đại
Học Cần Thơ.
Phạm Thị Kim Oanh và Trương Hoàng Minh, 2011. Thực trạng nuôi cá tra (Pangasianoadon
Hypophthamus Sauvage, 1878) có liên kết và không liên kết ở ĐBSCL. Tạp chí nghiên cứu
khoa học Trường Đại Học Cần Thơ. Số 20b: 48-58.

11


Tổng cục Thủy sản, 2014. Đến nửa đầu tháng 8 năm 2014, xuất khẩu thủy sản tăng 23,2%.
ngày truy cập: 30 tháng 9 năm 2014.
Trần Xuân Điếu, 2009. Phân tích hiệu quả sản xuất của mô hình nuôi cá tra (Pangasianoadon
Hypophthamus) trong ao ở ĐBSCL. Luận văn cao học. Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần
Thơ.

12




×