ủy ban nhân dân tỉnh Thanh hóa
Hội khoa học lịch sử Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Chúa Nguyễn v Vơng triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX
Tại Thanh Hóa, ngy 18-19/10/2008
Nh xuất bản Thế giới
Hà Nội - 2008
3
L−u hμnh trong héi th¶o
4
Ban Tổ chức Hội thảo khoa học
Chúa Nguyễn v vơng triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX
Ông Vơng Văn Việt Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa - Đồng Trởng ban
GS. NGND. Phan Huy Lê Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam - Đồng
Trởng ban
I. Tiểu Ban Tổ chức
1.
Ông Vơng Văn Việt Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa - Trởng ban
2.
Ông Ngô Hoi Chung Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao v Du lịch tỉnh
Thanh Hóa Phó Trởng ban
3.
PGS.TS. Phạm Mai Hùng Phó Chủ tịch Hội KHLS Việt Nam Phó Trởng ban
4.
Ông Trịnh Dơng Trởng Ban Tổ chức Hội KHLS Việt Nam Uỷ viên.
5.
Ông Nguyễn Trọng Quỳnh Chánh Văn phòng UBND tỉnh Uỷ viên
6.
Ông Ngô Đình Chén Phó Giám đốc Sở Ti chính Uỷ viên.
7.
Ông Lê Trung Sơn Phó Trởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Uỷ viên.
8.
TS. Lê Ngọc Tạo Trởng Ban Nghiên cứu Biên soạn Lịch sử Thanh Hóa
Uỷ viên.
9.
Ông Nguyễn Văn Hợp Chánh Văn phòng Sở Văn hóa, Thể thao v Du lịch
Uỷ viên
II. Tiểu Ban Nội dung
1.
GS. NGND. Phan Huy Lê Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam Trởng ban.
2.
GS. NGND. Đinh Xuân Lâm Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
Phó Trởng ban.
3.
Ông Ngô Hoi Chung Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao v Du lịch tỉnh
Phó Trởng ban.
4.
GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc Trởng Ban Nghiên cứu Khoa học Hội KHLS
Việt Nam Phó Trởng ban.
5.
PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật Phó Tổng Th ký Hội KHLS Việt Nam
Phó Trởng ban.
6.
Ông Dơng Trung Quốc Tổng Th ký Hội KHLS Việt Nam Uỷ viên.
7.
PGS.TS. Đỗ Bang Chủ tịch Hội KHLS Thừa Thiên Huế Uỷ viên.
8.
PGS.TS. Võ Văn Sen Chủ tịch Hội KHLS Thnh phố Hồ Chí Minh Uỷ viên.
9.
B Hong Phơng Trang Chánh Văn phòng Hội KHLS Việt Nam Uỷ viên.
10. TS. Lê Ngọc Tạo - Trởng Ban Nghiên cứu Biên soạn Lịch sử Thanh Hóa Uỷ viên.
11. TS. Nguyễn Thị Hậu Phó Tổng Th ký Hội KHLS Việt Nam Uỷ viên.
5
6
PhÇn khai m¹c
7
8
Lời khai mạc
Vơng văn việt
Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa
Kính tha các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nớc!
Kính tha các quý vị đại biểu!
Kính tha các nhà khoa học!
Cách đây vừa tròn 450 năm, mùa đông năm 1558, vâng mệnh triều đình, chúa
Nguyễn Hoàng ngời con thân yêu của nhân dân Thanh Hóa đã vào Nam mở cõi.
Hôm nay trong không khí phấn khởi tràn đầy tin tởng vào thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới dới sự lãnh đạo của Đảng, UBND tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam long trọng tổ chức hội thảo khoa học Quốc gia "Chúa Nguyễn
và Vơng triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX".
Thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND, MTTQ Việt Nam tỉnh Thanh Hóa tôi xin
nhiệt liệt chào mừng các quý vị đại biểu, các vị khách quý cùng toàn thể các nhà
khoa học đã có mặt trong cuộc Hội thảo khoa học quan trọng hôm nay.
Kính tha các quý vị!
Nh chúng ta đã biết, xung quanh các vấn đề liên quan đến chủ đề này, từ
trớc đến nay đã có hàng chục cuộc hội thảo khoa học đã đợc tổ chức, nhng đánh
giá về Chúa Nguyễn và nhất là về Vơng triều Nguyễn cho đến nay vẫn còn nhiều ý
kiến khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau. Trên cơ sở thành quả nghiên cứu của sử
học Việt Nam hơn 20 năm đổi mới, kết hợp với những thành tựu mới của sử học
Quốc tế thời kỳ hội nhập, chúng tôi mong rằng cuộc hội thảo này sẽ tập trung làm rõ
quê hơng, dòng họ, chân dung của một số vị Chúa Nguyễn, các vị Vua Nguyễn, các
nhân vật lịch sử tiêu biểu ở thời kỳ này và nhấn mạnh quá trình xây dựng và mở
mang lãnh thổ Việt Nam. Từ đó, hội thảo mở rộng trao đổi đánh giá chung về các
Chúa Nguyễn, Vua Nguyễn làm cơ sở xác định phơng hớng bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa thời Nguyễn đạt hiệu quả tốt nhất.
Chúng tôi hết sức vui mừng, hội thảo đã nhận đợc sự tham gia hởng ứng 90
bản tham luận của các nhà khoa học ở các Viện nghiên cứu, các trờng Đại học, các
cơ quan văn hóa, các nhà sử học trên phạm vi cả nớc. Đặc biệt Hội thảo đã nhận
đợc 8 tham luận, đăng ký phát biểu của các chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt
Nam ở Trung Quốc, Pháp, Nhật đến với hội thảo trên tinh thần học thuật, hợp tác và
thân thiện.
9
Hội thảo cũng đã đợc đón tiếp bà con họ Nguyễn, bà con các dòng họ khác
từ nhiều vùng đất nớc và bà con Việt kiều đang sinh sống và làm ăn tại nớc ngoài
đã về với quê cha đất tổ, tỏ lòng thành kính đối với tổ tiên và thể hiện sự quan tâm
với những vấn đề đặt ra của Hội thảo.
Chúng tôi mong rằng, kết quả của cuộc hội thảo khoa học lần này sẽ giúp cho
giới sử học Việt Nam đánh giá khách quan toàn diện, xích lại gần nhau hơn trong
nhận thức về những thành tựu và cả những hạn chế của Chúa Nguyễn và Vơng triều
Nguyễn trong lịch sử dân tộc. Đúc rút những kinh nghiệm quý giá cho thời kỳ hội
nhập và phát triển, để có những nhận thức khách quan trong việc biên soạn các bộ
sách giáo khoa, các giáo trình chuẩn về lịch sử Việt Nam. Điều đó còn có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với nhân dân Thanh Hóa, là quê tổ của nhà Nguyễn trong việc
góp phần nâng cao giáo dục truyền thống quê hơng, gạn đục khơi trong, xứng đáng
với những cống hiến to lớn của cha ông đối với quê hơng, đất nớc.
Với ý nghĩa trên, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội thảo!
Xin kính chúc sức khỏe các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nớc, các nhà
khoa học.
Chúc hội thảo thành công tốt đẹp!
Xin trân trọng cảm ơn!
10
CHúA NGUYễN V VƯƠNG TRIềU NGUYễN
TRONG LịCH Sử VIệT NAM
Từ THế Kỷ XVI ĐếN THế Kỷ XIX
Báo cáo đề dẫn
GS Phan Huy Lê
Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
1. Quá trình nhận thức và yêu cầu của hội thảo
Nhận thức lịch sử là một quá trình tiến tới tiếp cận lịch sử một cách càng ngày
càng khách quan, trung thực, gần với sự thật lịch sử nhất trong khả năng của các nhà
sử học. Tôi nói gần với sự thật lịch sử nhất trong hàm ý là giữa lịch sử khách quan và
lịch sử đợc nhận thức bao giờ cũng có một khoảng cách mà mục tiêu và ớc vọng
của các nhà sử học là rút ngắn khoảng cách đó. Khả năng này tùy thuộc vào rất
nhiều nhân tố, trớc hết năng lực của nhà sử học biểu thị ở trình độ lý thuyết và
phơng pháp luận, cách tập hợp và xử lý các nguồn thông tin, mặt khác là cách nhìn
và động cơ của nhà sử học liên quan đến những tác động chi phối hay ảnh hởng của
bối cảnh chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi
chúng ta cùng nhau thảo luận để nhìn nhận, đánh giá lại một số sự kiện, nhân vật
lịch sử hay cả một giai doạn, một thời kỳ lịch sử.
Thời kỳ các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn từ thế kỷ XVI cho đến thế
kỷ XIX là một trong những thời kỳ lịch sử đã trải qua những cách nhìn nhận và đánh
giá hết sức khác nhau, có lúc gần nh đảo ngợc lại.
Vơng triều Nguyễn để lại những bộ chính sử đồ sộ của vơng triều tiêu biểu
là bộ Đại Nam thực lục1và Đại Nam liệt truyện2. Những bộ chính sử của vơng triều
bao giờ cũng chép theo quan điểm chính thống của vơng triều đang trị vì và nhằm
tôn vinh công lao, sự nghiệp của vơng triều. Trên quan điểm chính thống đó, Sử
quán triều Nguyễn phê phán những thế lực đối lập nh chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, các
lực lợng chống đối nh coi Tây Sơn là "ngụy triều"...
Trong xu hớng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp
tiến đã dâng lên triều đình nhiều bản điều trần đầy tâm huyết. Trong số điều trần
này, một số tác giả đã nêu lên trên tinh thần phê phán những mặt tiêu cực, lạc hậu
1
2
Đại Nam thực lục, tiền biên và chính biên, nguyên bản chữ Hán lu giữ tại Viện nghiên cứu
Hán Nôm, bản dịch 38 tập, NXB Sử học và Khoa học xã hội, Hà Nội 1962 đến 1978
Đại Nam liệt truyện, tiền biên, chính biên sơ tập và nhị tập, nguyên bản chữ Hán lu giữ tại
Viện nghiên cứu Hán Nôm, bản dịch 4 tập, NXB Thuận Hóa, Huế 1993
11
của đất nớc thời Nguyễn, nhất là về kinh tế, quốc phòng và giáo dục. Tiêu biểu nhất
là Nguyễn Trờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ.
Nh vậy là trong thời kỳ các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn, bên cạnh
quan điểm chính thống tôn vinh vơng triều, cũng đã có những góc nhìn khác từ
những đề nghị canh tân của những trí thức cấp tiến.
Trong thời Pháp thuộc, xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu của ngời Việt
Nam, ngời Pháp, phần lớn theo xu hớng vận dụng phơng pháp luận hiện đại của
phơng Tây. Các công trình nghiên cứu tập trung nhiều nhất vào việc khảo tả các di
tích lịch sử, văn hóa, các nghi lễ, các công trình nghệ thuật và các nhân vật lịch sử
cùng quan hệ giao thơng với nớc ngoài, các thơng cảng, đô thị, nhất là kinh thành
Huế. Những kết quả nghiên cứu này, ngoài những ấn phẩm in thành sách, thờng là
các luận văn đăng tải nhiều nhất trên Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH),
Bulletin de l' Ecole franỗaise d' Extrême-Orient (BEFEO) và trên tạp chí tiếng Việt
nh tạp chí Tri tân, Nam phong, Trung Bắc chủ nhật... Trong những nghiên cứu cụ
thể về từng phơng diện nh vậy tuy không đa những nhận xét đánh giá chung về
các chúa Nguyễn hay vơng triều Nguyễn, nhng tạo ra cơ sở khoa học cho những
khái quát về thời kỳ lịch sử này. Những nhận xét mang tính đánh giá thể hiện rõ hơn
trong những một số công trình về thông sử Việt Nam. Ví dụ Việt Nam sử lợc của
Trần Trọng Kim, trong đó một mặt tác giả biện giải triều Tây Sơn không phải là
"ngụy triều" nh cách nhìn nhận chính thống của sử triều Nguyễn, mặt khác nêu cao
công lao thống nhất đất nớc "đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm cho
nớc ta thành một nớc lớn ở phơng nam vậy"1. Tác giả đánh cao những thành tựu
thời Gia Long, Minh Mệnh, nhng cũng phê phán triều Tự Đức để cho đất nớc suy
yếu và lâm vào"sự nguy vong"2. Một số bộ sử An Nam của ngời Pháp nh Histoire
moderne du pays d' Annam (Lịch sử cận đại xứ An Nam) của Charles Maybon3,
Lecture sur l' histoirre d' Annam (Bài giảng lịch sử An Nam) của Ch. Maybon và H.
Russier4 cũng nhấn mạnh công thống nhất đất nớc và những thành tựu của triều
Nguyễn, đồng thời có xu hớng nêu cao vai trò trợ giúp của một số sĩ quan và kỹ
thuật Pháp.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến năm 1975, trong thời kỳ chiến
tranh, công việc nghiên cứu nói chung có bị hạn chế, số lợng các công trình nghiên
cứu chuyên đề không nhiều. Nhng chính trong bối cảnh này đã xuất hiện một
khuynh hớng phê phán gay gắt các chúa Nguyễn cũng nh các chúa Trịnh và đặc
biệt là vơng triều Nguyễn thế kỷ XIX. Khuynh hớng này phát triển ở miền Bắc
trong thời gian từ 1954 phản ánh trên một số luận văn trên tạp chí Văn sử địa, Đại
1
2
3
4
Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lợc, NXB Tân Việt, Hà Nội 1949, tr.405
Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lợc, Sđd, tr. 486
Charles Maybon: Histoire moderne du pays d' Annam, Paris 1919
Ch. Maybon, H. Rusiser: Lecture sur l' histoire d' Annam., Hà Nội 1919
12
học s phạm, Nghiên cứu lịch sử và biểu thị tập trong những bộ lịch sử, lịch sử văn
học, lịch sử t tởng Việt Nam...
Mỗi tác giả và tác phẩm tuy có mức độ khác nhau, nhng tựu trung đều chung
khuynh hớng phê phán các chúa Nguyễn (cũng nh các chúa Trịnh) đã chia cắt đất
nớc, vơng triều Nguyễn mở đầu bằng hành động cầu viện t bản Pháp, phong kiến
Xiêm để tiến hành cuộc chiến tranh chống Tây Sơn và kết thúc bằng sự đầu hàng
quân xâm lợc Pháp. Thời kỳ nhà Nguyễn bị kết án là thời kỳ chuyên chế phản động
nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Khuynh hớng đó gần nh trở thành quan
điểm chính thống trong biên soạn sách giáo khoa đại học và phổ thông.
Thái độ phê phán gay gắt trên có nguyên do sâu xa trong bối cảnh chính trị
của đất nớc thời bấy giờ và trong cách vận dụng phơng pháp luận sử học của các
nhà nghiên cứu.
Quan điểm trên nảy sinh, xác lập trong những năm từ 1954-1956 và phát triển
mạnh cho đến những năm 70 của thế kỷ XX. Đó là thời kỳ cả dân tộc đang tiến hành
cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nớc, thống
nhất tổ quốc. Trong thời kỳ đó, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia là mục tiêu
cao cả, có ý nghĩa thiêng liêng của cuộc chiến đấu. Vì vậy khi nhìn lại lịch sử, bất cứ
hành động nào xúc phạm hay đi ngợc lại độc lập và thống nhất đều bị phê phán.
Cuộc tranh luận về sự thống nhất đất nớc thời Tây Sơn và nhà Nguyễn cũng tiến
hành trong không khí chính trị đó và đã xuất hiện quan điểm cực đoan cho rằng Tây
Sơn đã hoàn thành, thậm chí hoàn thành triệt để nhiệm vụ khôi phục quốc gia thống
nhất. Bối cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh đã tác động đến thái độ của nhiều nhà sử
học trong nhìn nhận và đánh giá về các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn.
Nguyên nhân về vận dụng phơng pháp luận là thuộc trách nhiệm của các nhà
sử học. Đây là thời kỳ nền sử học hiện đại xây dựng trên hệ t tởng Mácxít đang
hình thành và trong vận dụng phơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nhĩa duy vật lịch sử phạm những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, công thức,
máy móc. Theo lý thuyết về hình thái kinh tế xã hội, thời bấy giờ đang thịnh hình
quan điểm cho rằng chế độ phong kiến Việt Nam hình thành trong thời Bắc thuộc,
phát triển đạt đến độ cực thịnh ở thời Lê sơ thế kỷ XV và bắt đầu suy vong từ thế kỷ
XVI, rồi lâm vào tính trạng khủng hoảng trầm trọng vào thời cuối Lê và nhà Nguyễn.
Nh vậy là thời kỳ các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn đợc đặt vào khung suy
vong, khủng hoẳng của chế độ phong kiến và trong bối cảnh đó thì giai cấp phong
kiến không còn vai trò tích cực, không còn đại diện cho lợi ích dân tộc. áp dụng lý
thuyết hình thái kinh tế xã hội và đấu tranh giai cấp một cách giáo điều đã dẫn đến
những hệ quả đa ra những phân tích và đánh giá lịch sử thiếu khách quan, không
phù hợp với thực tế lịch sử. Không riêng các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn
mà những nhân vật lịch sử liên quan, và rộng ra cả vơng triều Mạc trớc đó, đều bị
đánh giá theo quan điểm cha đợc khách quan, công bằng nh vậy.
13
Công cuộc Đổi mới khởi đầu từ năm 1986, bắt đầu từ đổi mới t duy kinh tế,
sau đó dần dần đợc mở rộng sang các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Năm
1988 Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đợc tổ chức lại trên phạm vi cả nớc và một
trong những hoạt động khoa học đầu tiên là tổ chức cuộc Hội thảo khoa học "Sử học
trớc yêu cầu Đổi mới của đất nớc" tại Hà Nội năm 1989 và tại thành phố Hồ Chí
Minh năm 1990 với sự tham gia của nhiều nhà sử học và những ngành liên quan của
khoa học lịch sử nh khảo cổ học, dân tộc học, bảo tàng và bảo tồn học, văn hóa học.
Hội thảo đã đạt đợc sự đồng thuận cao trong khẳng định những thành tựu của nền
sử học hiện đại Việt Nam, vai trò và cống hiến của sử học trong thắng lợi của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nớc, trong cuộc sống xã hội đồng thời
nghiêm khắc nêu lên những mặt hạn chế, những yếu kém và khuyết tật để khắc phục.
Về mặt này, hội thảo đã nêu lên ba mặt yếu kém quan trọng nhất về t duy sử học là:
- Khuynh hớng giáo điều, công thức trong vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, - Khuynh hơng "chính trị hóa lịch
sử", dùng lịch sử để minh họa một số quan điểm chính trị có sẵn, tự hạ thấp tính độc
lập, vai trò sáng tạo của khoa học lịch sử, - Khuynh hớng "hiện đại hóa lịch sử"
theo ý nghĩa là trình bày lịch sử quá khứ nh hiện đại, không tôn trọng tính đặc
trng của từng thời kỳ lịch sử1.
Trong hội thảo, nhiều tham luận và phát biểu cũng đã nêu lên yêu cầu đổi mới
t duy sử học theo hớng tiếp cận và nhận thức đối tợng một cách khách quan,
trung thực nhất trong khả năng cao nhất của sử học. Một loạt vấn đề, trong đó có
những giai đoạn lịch sử nh triều Hồ, triều Mạc, các chúa Nguyễn, triều Nguyễn
đợc đa ra phân tích để minh chứng cho những nhận định phiến diện, thiếu tính
khách quan, khoa học trớc đây.
Từ cuối những năm 80, nhất là từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây,
công việc nghiên cứu về thời kỳ các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn đã đợc
triển khai và đạt nhiều thành tựu mới theo xu hớng t duy khách quan, trung thực.
Ngoài các công trình nghiên cứu của cá nhân, một đề tài Khoa học cấp nhà nớc
mang tiêu đề "Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nớc triều Nguyễn, những
vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới đất nớc hiện nay", mã số KX-ĐL: 94-16 do
PGS Đỗ Bang làm chủ nhiệm đã đợc thực hiện năm 1995-1996 với sự tham gia gần
nh của giới sử học cả nớc. Phạm vi nghiên cứu dần dần đợc mở rộng trên tất cả
lĩnh vực của thời kỳ lịch sử này, từ kinh tế, xã hội đến chính trị, văn hóa, tôn giáo,
nghệ thuật... Nhiều công trình khoa học đợc xuất bản hay đăng tải trên các tạp chí
khoa học, gần hai chục cuộc hội thảo khoa học đã đợc tổ chức ở thành phố Huế,
thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội2. Một số luận án Tiến sĩ đã chọn đề tài
1
2
Phan Huy Lê: Sử học Việt Nam trên đờng đổi mới, tóm tắtTổng kết hội thảo, báo Nhân dân
ngày 15-1-1992.
Tham khảo Th mục triều Nguyễn của đề tài KX-ĐL:94-16 do PGS Đỗ Bang làm chủ nhiệm,
gồm hai tập. Huế 1997. Thời chúa Nguyễn có 414 đơn vị, thời vua Nguyễn có 607 đơn vị,
cộng 1.021 đơn vị th mục
14
trong thời kỳ lịch sử các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn. Một số học giả nớc
ngoài cũng quan tâm nghiên cứu thời kỳ này và khá nhiều công trình đã đợc công
bố, trong đó có một số công trình đã đợc dịch và xuất bản tại Việt Nam1.
Trong nhận định và đánh giá về các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn thế
kỷ XVI đến thế kỷ XIX dĩ nhiên còn có những khác biệt giữa các tác giả và còn
nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận. Nhng mẫu số chung của
những công trình nghiên cứu trong vài thập kỷ trở lại đây ở trong nớc cũng nh
nớc ngoài là thống nhất cần phải khai thác những nguồn t liệu phong phú, phân
tích và xử lý một cách khoa học để nâng cao nhận thức về thời kỳ này một cách
khách quan, trả lại các giá trị đích thực cho các triều vua chúa, các nhân vật lich sử,
nêu cao những cống hiến tích cực, đồng thời phân tích cả những mặt hạn chế, tiêu
cực. Về cơ sở t liệu thì trong lịch sử Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XIX, cha có
thời kỳ nào có những nguồn t liệu phong phú, đa dạng nh thời kỳ các chúa
Nguyễn, nhất là thời kỳ vơng triều Nguyễn. Ngoài các bộ chính sử và địa chí của
vơng triều, còn có nhiều nguồn t liệu gốc mang giá trị thông tin rất cao nh Châu
bản2, địa bạ3, văn bia4, gia phả và các t liệu do ngời nớc ngoài ghi chép. Các
nguồn t liệu trên đang đợc su tầm và khai thác có hiệu quả cung cấp những dữ
liệu mới cực kỳ phong phú để nghiên cứu sâu các vấn đề của thời kỳ lịch sử các chúa
Nguyễn và vơng triều Nguyễn.
1
Một số ví dụ:
Yu Insun: Political Centralisation and Judicial Administration in 17 century Vietnam, Journal
of Asitic Studies , Seoul 1-1980
Yoshiharu Tsuboi: Nớc đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại
Trờng Cao đẳng thực hành về khoa học xã hội, Paris năm 1982, bản dịch tiếng Việt, thành
phố Hồ Chí Minh 1990
Yang Baoyun: Contribution à l' histoire de la principauté des Nguyen au Vietnam méridional
(1600-1775), Etudes Orientales, Genève1992.
Li Tana: Xứ đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Luận án Tiến sĩ bảo
vệ tại Đại học quốc gia Australia năm 1992, bản dịch tiếng Việt, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí
Minh, 1999
Li Tana, Anthony Reid: Southern Vietnam under the Nguyen, Singapore 1993
Choi Byung Wook: Southern Vietnam under the Reign of Minh Mang (1820-1841), Luận án
Tiến sĩ bảo vệ tại Đại học quốc gia Australia, New York 2004.
2
Châu bản triều Nguyễn đang đợc lu giữ tại Cục Văn th - Lu trữ Nhà nớc gồm 734 tập và
40 tập bị kết dính đang xử lý.
3
Hai su tập địa bạ lớn nhất hiện lu giữ tại Cục văn th - Lu trữ Nhà nớc và Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, gồm 10.570 tập với 18.884 đia bạ các thôn ấp, phần lớn thuộc thời nhà
Nguyễn.
4
Viện Viễn đông bác cổ Pháp (EFEO) đã dập đợc 11.651 tấm bia với 20.980 thác bản, năm
1958 chuyển giao cho Th viện Trung ơng, sau chuyển cho Viện nghiên cứu Hán Nôm quản
lý. Sau đó Viện Nghiên cứu Hán Nôm tiếp trục công việc dập văn bia, đa tổng số thác bản lên
đến trên 5 vạn, trong đó số văn bia thời Nguyễn chiếm một tỷ lệ quan trọng. Xem:
Th mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, 4 tập, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2007
Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, 10 tập, Hà Nội 2005.
15
Các nguồn t liệu và kết quả nghiên cứu cho đến nay đã tạo lập một cơ sở
khoa học vững chắc để giới sử học và các nhà khoa học trên các lĩnh vực liên quan
cùng nhau nhìn nhận và đánh giá một cách công bằng đối với vai trò và cống hiến
của các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XIX, phân tích một cách khách quan mặt tích cực và cả mặt hạn chế, mặt
mạnh và cả mặt yếu. Đó chính là lý do và yêu cầu của cuộc Hội thảo khoa học tầm
cỡ quốc gia của chúng ta tổ chức nhân dịp 450 năm chúa Nguyễn Hoàng rời quê
hơng xứ Thanh vào mở cõi phơng Nam.
2. Phạm vi và nội dung chủ yếu của hội thảo
2.1. Về khung thời gian
Thời kỳ các chúa Nguyễn bắt đầu từ năm 1558 khi chúa Nguyễn Hoàng rời
quê hơng xứ Thanh vào nhậm chức Trấn thủ xứ Thuận Hóa rồi năm 1570 kiêm
Trấn thủ xứ Quảng Nam. Vơng triều Nguyễn khởi đầu từ khi chúa Nguyễn ánh
sáng lập vơng triều năm 1802. Giữa thời kỳ các chúa Nguyễn và vơng triều
Nguyễn có thời kỳ Tây Sơn tính từ khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ năm 1771 cho đến
khi chính quyền Tây Sơn cuối cùng là triều vua Nguyễn Quang Toản thất bại năm
1802. Rõ ràng thời Tây Sơn nằm giữa liên quan đến sự thất bại của chúa Nguyễn
cuối cùng là Nguyễn Phúc Thuần năm 1776, Nguyễn Phúc Dơng năm 1777 và sự
thắng lợi của Nguyễn ánh năm 1802. Tuy nhiên, vừa rồi nhân dịp kỷ niệm 320 năm
lễ đăng quang Hoàng đế của Quang Trung Nguyễn Huệ (1788-2008), ủy ban nhân
dân và Hội khoa học lịch sử tỉnh Thừa Thiên-Huế đã tổ chức Hội thảo khoa học tại
thành phố Huế ngày 6 tháng 6 năm 2008 nên trong Hội thảo này chúng ta không bàn
về thời Tây Sơn để tập trung vào nội dung chủ yếu của Hội thảo. Nhng dĩ nhiên
trong những mối quan hệ nh sự thất bại của chúa Nguyễn, kháng chiến chống
Xiêm, thắng lợi của Nguyễn ánh, chúng ta vẫn đề cập đến thời Tây Sơn trong mức
độ cần thiết.
Vơng triều Nguyễn còn kéo dài cho đến năm 1945, kết thúc với thắng lợi của
Cách mạng tháng 8 và sự thoái vị của vua Bảo Đại năm 1945. Nhng từ khi đất nớc
đã bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị thì vai trò và tính chất của triều Nguyễn đã
thay đổi hoàn toàn. Vì vậy trong Hội thảo này, vơng triều Nguyễn chỉ giới hạn
trong thời kỳ độc lập của vơng triều cho đến khi bị thất bại trớc cuộc xâm lợc của
thực dân Pháp năm 1858-1884. Tuy nhiên trong Hội thảo chúng ta cũng không đi
sâu vào cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân mà chỉ làm sáng tỏ nguyên nhân
và trách nhiệm của triều Nguyễn trong thất bại của cuộc kháng chiến.
Nh vậy về thời gian, chúng tôi đề nghị giới hạn từ giữa thế kỷ XVI đến cuối
thế kỷ XIX, trong phạm vi thời kỳ trị vì của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và
vơng triều Nguyễn trên cơng vị quốc gia Việt Nam rồi Đại Nam độc lập, có chủ
16
quyền. Thời gian trớc và sau ranh giới thời gian này cũng nh thời Tây Sơn ở giữa
chỉ đề cập trong mức độ liên quan cần thiết.
Trong giới hạn thời gian nh trên, dĩ nhiên cũng cần đặt Việt Nam trong mối
quan hệ với các nớc trong khu vực và thế giới. Thế kỷ XVI-XIX là thời kỳ phát
triển mạnh mẽ của hệ thống thơng mại châu á và cũng là thời kỳ bành trớng dữ
dội của chủ nghĩa t bản phơng Tây sang phơng Đông. Bối cảnh lịch sử đó tác
động đến mọi nớc Đông Nam á và Đông á, nhng mỗi nớc lại có cách ứng phó
khác nhau và dẫn đến hệ quả khác nhau, ảnh hởng đến sự tồn vong của mỗi quốc
gia-dân tộc.
2.2. Về thời kỳ các chúa Nguyễn
Những kết quả nghiên cứu đã cho phép khẳng định công lao mở mang bờ cõi
từ Thuận Hóa, Quảng Nam vào đến vùng đồng bằng sông Cửu Long của các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong trong thời gian từ giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII.
Công cuộc khai phá với những chính sách và biện pháp tích cực của chính quyền
chúa Nguyễn, đã biến vùng Thuận Quảng còn hoang sơ vào giữ thế kỷ XVI, trở
thành một vùng kinh tế phát triển làm bàn đạp cho công cuộc mở mang bờ cõi về
phía nam. Vào thế kỷ XVII-XVIII, vùng đồng bằng sông Cửu Long là một vựa lúa
của Đàng Trong với năng xuất đạt tới 100, 200, 300 lần nh Lê Quý Đôn đã ghi
chép. Các nghề thủ công, quan hệ hàng hóa tiền tệ trong nớc và quan hệ mậu dịch
với nớc ngoài đều phát triển nhanh chóng. Một loạt đô thị, thơng cảng ra đời thu
hút nhiều thuyền buôn và thơng gia nớc ngoài, kể cả các công ty t bản phơng
Tây nh Hà Lan, Anh, Pháp... trong đó nổi lên các cảng thị Phú Xuân-Thanh Hà
(Thừa Thiên-Huế), Hội An (Quảng Nam), Nớc Mặn (Bình Định), Vũng Lấm (Phú
Yên), Gia Định (thành phố Hồ Chí Minh), Cù Lao Phố (Đồng Nai), Mỹ Tho, Hà
Tiên... Các chúa Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên, Đoan Quận công: 1558-1613), Nguyễn
Phúc Nguyên (Chúa Sãi, Thụy Quận công: 1613-1635), Nguyễn Phúc Lan (Chúa
Thợng, Nhân Quận công: 1635-1648), Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền, Dũng Quận
công: 1648-1687)... có công lớn trong sự nghiệp khai phá và phát triển vùng đất mới,
mở rộng lãnh thổ phía nam bao gồm cả các hải đảo ven bờ và quần đảo Hoàng Sa,
Trờng Sa trên Biển Đông.
Vấn đề cần đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ là phơng thức khai phá có hiệu
quả kinh tế cao kết hợp với việc xây dựng và củng cố chủ quyền quốc gia trên vùng
đất mới của các chúa Nguyễn. Đối với vùng đất Nam Bộ, cần chú trọng vai trò của
các lớp lu dân ngời Việt, sự tham gia của một số ngời Hoa và các cộng đồng c
dân tại chỗ nh ngời Khmer, ngời Mạ, Xtiêng, Chơ Ro... cùng quá trình cộng c
và giao thoa văn hóa tạo nên sắc thái đặc trng của vùng đất phơng nam này.
17
2.3. Về vơng triều Nguyễn
Từ khoảng giữa thế kỷ XVIII, chính quyền chúa Nguyễn thời chúa Nguyễn
Phúc Thuần (Định vơng: 1765-1776) trở nên suy yếu và bị phong trào Tây Sơn lật
đổ. Nhng cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với ngời kế tục chúa Nguyễn là Nguyễn
ánh vẫn tiếp tục và cuối cùng kết thúc bằng thắng lợi của Nguyễn ánh năm 1802.
Hội thảo không đi sâu vào lịch sử Tây Sơn, nhng không thể không đề cập và xem
xét một số vấn đề liên quan với Tây Sơn, cụ thể là ba vấn đề sau đây:
- Cắt nghĩa sự thành bại của mỗi bên trong cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với
chúa Nguyễn. Từ năm 1771 khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ và cho đến năm 1777 đã
đánh bại toàn bộ hệ thống chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong mà đại diện cuối
cùng là chúa Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dơng. Đây là cuộc chiến tranh
giữa một bên là phong trào Tây Sơn tiêu biểu cho sức mạnh quật khởi của nhân dân
Đàng Trong và bên kia là thế lực suy đồi của một chính quyền phong kiến đã bị nhân
dân óan ghét, bất bình. Thắng lợi của Tây Sơn trong thời gian này là thắng lợi của
một cuộc khởi nghĩa nông dân, một phong trào đấu tranh mang tính nhân dân rộng
lớn, đang tập hợp đợc các lực lợng của mọi tầng lớp xã hội bất bình với chế độ
chúa Nguyễn thời suy vong. Trên cơ sở thắng lợi của phong trào Tây Sơn, một vơng
triều phong kiến mới đợc thiết lập gồm chính quyền Đông Định vơng Nguyễn Lữ
ở Gia Định, Trung ơng Hoàng đế Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn và Bắc Bình vơng
Nguyễn Huệ ở Phú Xuân. Trong ba chính quyền Tây Sơn, chỉ có chính quyền
Nguyễn Huệ tồn tại vững vàng nhng sau khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ mất
năm 1792, vơng triều Nguyễn Quang Toản cũng suy yếu rất nhanh. Cuộc chiến
tranh Nguyễn ánh - Tây Sơn đã thay đổi tính chất và chuyển hóa thành cuộc đấu
tranh giữa hai thế lực phong kiến mà thất bại của Nguyễn Lữ, rồi Nguyễn Nhạc và
Quang Toản là thất bại của những chính quyền phong kiến đã suy yếu và mất lòng
dân.
- Trong cuộc đấu tranh chống Tây Sơn, thời gian bị thất bại nặng nề ở trong
nớc, Nguyễn ánh phải nhờ vào sự cứu viện của nớc ngoài biểu thị tập trung trong
việc cầu cứu vua Xiêm đa 5 vạn quân Xiêm vào Gia Định năm 1784 và ký Hiệp ớc
Versailles năm 1787 với Pháp. Dù cho quân xâm lợc Xiêm đã bị quân Tây Sơn do
Nguyễn Huệ chỉ huy đánh tan trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút đầu năm 1785 và
Hiệp ớc Versailles không đợc thực thi, lực lợng quân sự do Bá Đa Lộc vận động
trợ giúp không bao nhiêu, nhng hành động của Nguyễn ánh cần đợc phân tích và
đánh giá một cách công minh.
- Giữa năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến ra bắc, đánh bại
quân Trịnh và phong trào Tây Sơn đã làm chủ cả nớc. Tiếc rằng sau đó, do bất hòa
và mâu thuẫn giữa các thủ lĩnh Tây Sơn dẫn đến việc thành lập ba chính quyền Tây
Sơn. Vấn đề đặt ra và đã từng gây cuộc tranh luận trong năm 1960, 1963 là công lao
18
thống nhất đất nớc của Tây Sơn và Nguyễn ánh1. Lúc bấy giờ xuất hiện hai quan
điểm hoàn toàn đối lập, phủ định hay khẳng định công lao thống nhất thuộc về Tây
Sơn hay Nguyễn ánh. Hai quan điểm đối lập theo lối cực đoan đó không có sức
thuyết phục cao và gần đây xu hớng chung là không ai có thể phủ nhận đợc công
lao thống nhất đất nớc của vơng triều Nguyễn mà ngời sáng lập là vua Gia Long
Nguyễn ánh, nhng từ đó phủ nhận luôn cả những cống hiến của Tây Sơn thì cha
đợc khách quan và cần trao đổi thêm. Phong trào Tây Sơn đã đánh bại chính quyền
chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chính quyền vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và đã
xóa bỏ tình trạng phân chia đất nớc kéo dài trên hai thế kỷ, đánh tan quân xâm lợc
Xiêm ở phía nam và quân xâm lợc Thanh ở phía bắc, đó là những thành tựu của Tây
Sơn đã đặt cơ sở cho công cuộc khôi phục quốc gia thống nhất mà sau này Nguyễn
ánh và triều Nguyễn đã kế thừa. Nh vậy là hai kẻ thù không đội trời chung lại góp
phần tạo lập nên sự nghiệp thống nhất đất nớc của dân tộc, bề ngoài nh một
nghịch lý nhng lại nằm trong xu thế phát triển khách quan của lịch sử và yêu cầu
bức thiết của dân tộc.
Vơng triều Nguyễn trong thời gian tồn tại độc lập từ khi thành lập cho đến
khi bị thất bại trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đã có nhiều cống hiến tích cực
trên nhiều phơng diện. Thời phát triển của vơng triều bao gồm các đời vua Gia
Long (1802-1820), Minh Mệnh (1820-1841) và Thiệu Trị (1841-1847), tức khoảng
nửa đầu thế kỷ XIX, thời thịnh đạt nhất là dới triều vua Minh Mệnh.
Nớc Việt Nam, quốc hiệu đặt năm 1804, và Đại Nam năm 1838, là một quốc
gia thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn gần nh tơng ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện
nay, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ. Trên lãnh thổ thống nhất đó, triều
Nguyễn đã xây dựng một cơ chế quân chủ tập quyền mạnh mẽ với một bộ máy hành
chính và một thiết chế vận hành qui củ, chặt chẽ, nhất là sau cải cách hành chính của
Minh Mệnh năm 1831-1832. Các công trình nghiên cứu gần đây đều đánh giá cao
công lao thống nhất đất nớc của triều Nguyễn và hệ thống tổ chức chính quyền với
qui chế hoạt động có hiệu lực của nhà Nguyễn. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt
Nam, cải cách của vua Minh Mệnh năm 1831-1832 và vua Lê Thánh Tông năm 1471
là hai cải cách hành chính có qui mô toàn quốc và đạt hiệu quả cao nhất.
Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận một số thành tựu khai hoang, thủy lợi, phát
triển nông nghiệp thời Nguyễn, nhất là vùng đồng bằng Nam Bộ và vùng đồng bằng
ven biển Bắc Bộ. Hệ thống giao thông thủy bộ phát triển mạnh, nhất là hệ thống
kênh đào ở Nam Bộ và hệ thống đờng dịch trạm nối liền kinh đô Huế với các
1
Xem:
Văn Tân: Trả lời ông Lê Thành Khôi, tác giả sách "Nớc Việt Nam, lịch sử và văn minh", Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử số 12, 1960.
Văn Tân: Ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn ánh? Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử số 51, 1963.
Nguyễn Phơng: Chung quanh vấn đề ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn
ánh? Tạp chí Đại học số 35-36, 1963.
19
trấn/tỉnh thành trên cả nớc. Các trạm dịch đợc tổ chức rất chặt chẽ với những qui
định về thời hạn chuyển văn th phân làm ba loại: tối khẩn, khẩn, thờng. Ví dụ loại
"tối khẩn", từ kinh đô Huế vào đến Gia Định là 9 ngày, ra đến Hà Nội là 4 ngày 6
giờ.
Về phơng diện văn hóa, giáo dục, triều Nguyễn cũng lập Quốc tử giám, mở
khoa thi Hơng và thi Hội để đào tạo nhân tài. Từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1822
đến khoa thi cuối cùng năm 1919, triều Nguyễn tổ chức đợc 39 khoa thi Hội, lấy đỗ
292 Tiến sĩ và 266 Phó bảng, cộng 558 ngời. Khu Văn Miếu tại kinh đô Huế còn
lu giữ 32 tấm bia Tiến sĩ thời Nguyễn. Cùng với các kỳ thi tuyển chọn Tiến sĩ Văn,
nhà Nguyễn còn nâng cấp đào tạo võ quan từ Cử nhân lên Tiến sĩ Võ. Tại khu Võ
Miếu còn bảo tồn hai tấm bia Tiến sĩ Võ. Công việc biên soạn quốc sử, các bộ chính
sử của vơng triều, các bộ tùng th và địa chí đợc đặc biệt quan tâm và để lại một
di sản rất đồ sộ. Có thể nói, trong thời quân chủ, cha có Quốc sử quán của vơng
triều nào hoạt động có hiệu quả và để lại nhiều công trình biên soạn đến nh thế.
Trong bối cảnh chủ nghĩa t bản phơng Tây đang đe dọa chủ quyền của các
nớc trong khu vực, vua Gia Long và Minh Mệnh ý thức sâu sắc về nguy cơ đó và đã
tiến hành những hoạt động điều tra, thăm dò, đồng thời lo củng cố quốc phòng, cố
gắng tiếp thu thành tựu kỹ thuật phơng Tây. Từ thời chiến tranh với Tây Sơn,
Nguyễn ánh đã học tập đợc khá nhiều kỹ thuật phơng tây, nhất là kỹ thuật xây
thành kiểu Vauban, đóng tàu, đúc vũ khí, phát triển thủy quân. Vua Minh Mệnh là
ngời có tầm nhìn xa và hớng biển khá cao. Nhà vua đã cử nhiều phái đoàn vợt
biển đến các căn cứ phơng Tây ở Đông Nam á nh Batavia (Jakarta, Indonesia),
Singapore, Pinang (Malaysia), Semarang (Java), Luon (Philippines), Tiểu Tây
Dơng; ở ấn Độ nh Bengale, Calcutta; ở Trung Hoa nh Macao... Những chuyến
vợt biển đó, bề ngoài là mua hàng hóa cho triều đình nhng chủ yếu nhằm thăm dò
tình hình. Cầm đầu các phái đoàn thờng là những quan chức cao cấp, những trí thức
có tầm hiểu biết rộng nh Lý Văn Phức, Hà Tông Quyền, Phan Thanh Giản, Phan
Huy Chú, Cao Bá Quát... Vua Minh Mệnh cho đo đạc độ sâu các cảng biển, lập hệ
thống phòng thủ ven biển, chế tạo vũ khí, đóng thử tàu hơi nớc kiểu phơng Tây,
phát triển thủy quân, cho dịch một số sách kỹ thuật phơng Tây sang chữ Hán, đo
đạc, vẽ bản đồ và cắm cột mốc trên quần đảo Hoàng Sa, tăng cờng quản lý các hải
đảo... Hình nh vua Minh Mệnh đang nuôi dỡng một ý tởng cải cách nào đó ngoài
cải cách hành chính, nhng đang ở trong tình trạng hình thành, cha thực hiện đợc
bao nhiêu.
Những cống hiến tích cực của vơng triều Nguyễn đã đợc nhìn nhận và đánh
giá lại một cách khách quan, công bằng. Nhng bên cạnh đó, còn tồn tại một số vấn
đề cần nghiên cứu và thảo luận để đi đến những nhận định toàn diện:
- Nhà Nguyễn chủ trơng phục hội và củng cố hệ t tởng Nho giáo. Không
ai phủ nhận trong học thuyết Nho giáo chứa đựng nhiều nội dung tích cực, nhất là về
20
mặt giáo dục và xử thế, coi trọng học vấn, đề cao nhân cách, nhng đứng về phơng
diện t duy triết học, vào thế kỷ XIX có còn khả năng giúp con ngời nhận thức và
giải thích thế giới trong bối cảnh mới của thời đại hay không? Về vấn đề này còn
những quan điểm khác nhau. Có ngời cho đến thế kỷ XIX hệ t tởng Nho giáo đã
trở nên bảo thủ và chủ trơng phục hồi Nho giáo của triều Nguyễn đã cản trở sự tiếp
nhận những t tởng và thành tựu mới của thế giới. Nhng cũng có ngời cho rằng
vấn đề không phải là bản thân Nho giáo mà là ngời vận dụng hệ t tởng đó.
- Một thực trạng cần lu ý khi nghiên cứu về vơng triều Nguyễn là dù ban
hành nhiều chính sách khẩn hoang tích cực, kể cả một số chính sách giảm nhẹ tô
thuế, nhng xã hội thời Nguyễn không ổn định. Trong gần nh suốt thòi Nguyễn,
khởi nghĩa nông dân nổ ra triền miên và triều Nguyễn không thể nào giải quyết nổi.
Tại sao và đánh giá thực trạng đó nh thế nào cho thỏa đáng.
- Từ triều Tự Đức (1848-1883), vơng triều Nguyễn càng ngày càng bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập, làm cho thế nớc càng ngày càng suy yếu và cuối cùng thất
bại trớc cuộc xâm lợc của thực dân Pháp. ở đây có hai vấn đề quan trọng đặt ra là
thái độ của triều Nguyễn đối với xu hớng canh tân phát triển khá mạnh dới triều
Tự Đức và trách nhiệm của triều Nguyễn trong kết quả bi thảm của cuộc kháng chiến
thất bại. Canh tân đất nớc và chống chủ nghĩa thực dân là hai yêu cầu bức xúc, quan
hệ mật thiết với nhau. Vấn đề đặt ra không chỉ ở Việt Nam mà gần nh cả phơng
Đông và khi phân tích cũng cần nhìn rộng ra trong góc nhìn so sánh với một số nớc
tơng tự trên phạm vi phơng Đông, nhất là khu vực gần gũi của Đông Nam á và
Đông á.
Làm sáng rõ những vấn đề trên sẽ đa đến một cách nhìn nhận và đánh giá
toàn diện, cả mặt tích cực lẫn mặt hạn chế đối với vơng triều Nguyễn trong tiến
trình lịch sử Việt Nam.
2.4. Về di sản văn hóa
Trong thời gian trên 3 thế kỷ từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, thời kỳ
các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn đã để lại di sản lớn lao nhất là một giang
sơn đất nớc trải rộng trên lãnh thổ thống nhất từ bắc chí nam gần nh tơng ứng với
lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả đất liền và hải đảo trên Biển Đông. Lãnh thổ
đó là sản phẩm của cả tiến trình lịch sử bắt đầu từ lúc hình thành Nhà nớc đầu tiên,
nớc Văn Lang-Âu Lạc thời Hùng Vơng, An Dơng Vơng, rồi tiếp tục với công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nớc qua các thời kỳ lịch sử cho đến giữa thế kỷ XVI
đã mở rộng vào đến vùng Thuận Quảng. Thời kỳ các chúa Nguyễn và vơng triều
Nguyễn kế thừa thành quả đó và mở mang vào đến tận đồng bằng sông Cửu Long.
Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và
phi vật thể. Di sản đó một phần đang hiện hữu trên đất nớc Việt Nam với những di
tích kiến trúc, thành lũy, lăng mộ... và tất cả đã hòa đồng với toàn bộ di sản dân tộc
21
cùng đồng hành với nhân dân, với dân tộc trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi về
sau, góp phần tạo nên bản sắc và bản lĩnh dân tộc, sức sống và sự phát triển bền vững
của đất nớc.
Cố đô Huế là nơi hội tụ và kết tinh các giá trị văn hóa dân tộc trong một thời
kỳ lịch sử khi mà kinh đô này lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc trở thành trung tâm
chính trị, văn hóa của một quốc gia với lãnh thổ xác lập của lãnh thổ Việt Nam hiện
đại trải dài từ bắc chí nam, từ đất liền đến hải đảo. Quần thể di tích cố đô Huế đã
đợc UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới ngày 11-12-1993 và ngày 711-2003 Nhã nhạc cung đình lại đợc công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Trong số các đô thị hình thành và phát đạt trong thời kỳ này, Hội An là cảng
thị tiêu biểu nhất và Khu di tích phố cổ Hội An cũng đã đợc UNESCO công nhận là
Di sản Văn hóa Thế giới ngày 4-12-1999.
Cha có một thời kỳ lịch sử nào để lại cho dân tộc ba di sản văn hóa đợc thế
giới công nhận và tôn vinh với những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu nh vậy.
Trong di sản văn hóa vật thể, có thể nói rất nhiều đình, đền, miếu, nhà thờ họ
trong tín ngỡng dân gian, chùa tháp của Phật giáo, đạo quán của Đạo giáo..., còn lại
đến nay phần lớn đều đợc xây dựng hay ít ra là trung tu trong thời nhà Nguyễn.
Nhiều nhà thờ của Kitô giáo, trong đó có Nhà thờ Phát Diệm nổi tiếng cũng đợc
xây dựng trong thời kỳ này. Tất cả di sản này rải ra trên phạm vi cả nớc từ bắc chí
nam.
Về di sản chữ viết, thời kỳ các chúa Nguyễn, nhất là thời kỳ vơng triều
Nguyễn, để lại một kho tàng rất lớn với những bộ chính sử, những công trình biên
khảo trên nhiều lĩnh vực, những sáng tác thơ văn của nhiều nhà văn hóa lớn, những
t liệu về Châu bản triều nguyễn, văn bia, địa bạ, gia phả, hơng ớc, những sắc
phong, câu đối trong các kiến trúc tôn giáo, tín ngỡng, những văn khắc trên hang
núi, vách đá...
Văn học truyền khẩu của thời kỳ này cũng vô cùng phong phú, gắn liền với ký
ức của các thế hệ và hòa quyễn vào các lễ hội dân gian, các phong tục tập quán của
các dân tộc mà gần đây công việc su tầm đã đạt nhiều kết quả khả quan.
Bàn về chúa Nguyễn và triều Nguyễn, không thể không trở về Thanh Hóa, nơi
có Quý Hơng (Hà Trung), có Gia Miêu Ngoại trang là quê hơng của chúa Nguyễn
Hoàng, gốc tích của dòng họ Nguyễn Gia Miêu và xứ Thanh cũng là quê hơng của
nhiều bề tôi trung thành, nhiều ngời dân lao động đã theo chúa Nguyễn vào mở cõi
ở phơng Nam trong những năm tháng khởi nghiệp gian truân nhất. Vì vậy trên đất
Thanh Hóa còn để lại nhiều dấu tích về chúa Nguyễn và triều Nguyễn, đặc biệt là
Khu lăng miếu Triệu Tờng với nhiều kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, mang ý
nghĩa linh thiêng của đất phát tích một vơng triều. Nhng rất tiếc các di tích này
hầu nh đã bị phá hủy, chỉ còn lại phế tích và gần đây, năm 2007 đã đợc xếp hạng
22
di tích quốc gia để mở đầu một kế hoạch nghiên cứu, phục hồi, tôn tạo và phát huy
giá trị.
Các chúa Nguyễn và vơng triều Nguyễn đã đi vào lịch sử, nhng di sản văn
hóa mà thời kỳ lịch sử đó đã tạo dựng nên, kết tinh những giá trị lịch sử và văn hóa
của dân tộc, thì mãi mãi trờng tồn cùng non sông đất nớc. Đó là bộ phận quan
trọng của di sản văn hóa dân tộc luôn luôn giữ vai trò động lực tinh thần nội tại của
công cuộc phục hng dân tộc, của sự phát triển bền vững của đất nớc, nhất là trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của đất nớc hiện nay.
23
24
PhÇn I
Thêi kú chóa NguyÔn
25
26
ĐÔ THị ĐNG TRONG DƯớI THờI
CáC CHúA NGUYễN
PGS.TS Đỗ Bang*
Vào cuối thế kỷ XVI, trên vùng đất Thuận Quảng của Chúa Nguyễn đã manh
nha ra đời các đô thị đáp ứng cho nhu cầu lu trú và buôn bán của thơng nhân
nhng đến nay rất khó xác minh trên thực địa vì đã qua hơn 5 thế kỷ thay đổi dâu bể
nên chúng tôi xem đó là tiền đề để khảo cứu và giới thiệu các phố cảng Hội An,
Thanh Hà, Nớc Mặn, Hà Tiên của đất Đàng Trong.
1. Hội An
Vào năm 1980, khi bắt đầu khảo sát Hội An chúng tôi đã chú ý đến các địa
danh sông Đò, bàu Dầu; với các di vật nh mảnh thuyền, cột buồm, neo tàu, tre,
gỗ để cừ bờ sông... Chúng tôi xác định bờ sông cũ Hội An từ Cồn Tàu ở xã Cẩm
Châu cắt dọc thành phố Hội An theo đờng chính diện qua đờng Trần Phú hiện nay
đến hai phờng Cẩm Phô, Thanh Hà cách bờ sông hiện thời chừng 100 - 200 mét.
Với chiều dài hơn 4 km đó, ngày xa là nơi đỗ của các thuyền buôn mà cảng chính
là ở Dơng thơng Hội quán, nay là Trung Hoa Hội quán ở trên con đờng Trần
Phú1.
Từ nửa sau thế kỷ XVI, khi nền thơng mại phơng Tây đang ồ ạt dồn về
phơng Đông để tìm kiếm thị trờng, lệnh hải cấm của nhà Minh cũng bị bãi bỏ
(1567), chính sách mở cửa của Mạc phủ Nhật Bản đợc ban hành (1592). Cũng trong
thời gian này, chúa Nguyễn Hoàng và trấn thủ dinh Quảng Nam là Nguyễn Phúc
Nguyên đã viết nhiều th kêu gọi thơng nhân nớc ngoài đến buôn bán. Hội An,
một địa chỉ có thơng hiệu hấp dẫn Faifo trở thành một trung tâm thơng mại
hàng đầu của nớc ta thu hút thơng khách nhiều nớc đến buôn bán và lu trú, đặc
biệt là thơng nhân Nhật Bản.
Sự thu nhận ngời Nhật nhập c ở Hội An của Chúa Nguyễn trớc hết nhằm
giải quyết nhu cầu bức thiết cho một số thơng nhân Nhật theo Thiên chúa giáo bị
Nhật hoàng trục xuất và sau đó đóng cửa không cho họ quay lại chính quốc. Sau khi
có chính sách mở cửa (1592), thơng nhân Nhật Bản đến Hội An ngày càng đông.
*
1
Hội Sử học Thừa Thiên Huế.
Đỗ Bang, Thơng cảng Hội An - Từ nhận thức đến thực tiễn nghiên cứu, Thông tin Khoa học
Trờng Đại học Tổng hợp Huế, số 5, 1983, tr. 74.
27