Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

KỈ YẾU HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.72 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỬU LONG

KỶ YẾU
HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

Vĩnh Long, 11/7/2015


LỜI NÓI ĐẦU
---//---

Nghiên cứu khoa học của sinh viên là hoạt động trí tuệ giúp sinh viên vận dụng phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong học tập và trong thực tiễn, trong
đó sinh viên bước đầu vận dụng một cách tổng hợp những kiến thức đã học để tiến hành
hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu, bước đầu góp phần giải quyết những vấn
đề khoa học do thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp đặt ra để từ đó có thể đào sâu, mở
rộng và hoàn thiện vốn hiểu biết của mình.
Nhận thấy việc nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hầu
hết các trường đại học, trong những năm qua trường Đại học Cửu Long đã từng bước
xây dựng và triển khai các hoạt động phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học cho cán bộ,
giảng viên và sinh viên trong trường.
Nhằm hưởng ứng Ngày khoa học và công nghệ Việt Nam năm 2015, Trường Đại học Cửu
Long tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học trong sinh viên năm 2015 nhằm góp phần
gắn kết, tạo điều kiện để các bạn sinh viên có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong
công tác nghiên cứu khoa học, từ đó nâng cao chất lượng kết quả thực hiện đề tài.
Hội nghị cũng là nơi ghi nhận các góp ý, đề xuất của các vị lãnh đạo, các cán bộ, giảng
viên trong trường nhằm phát triển phong trào và nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa
học của sinh viên.
Nhà trường hy vọng thông qua hội nghị này có thể thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa


học trong sinh viên, bên cạnh đó nhằm nâng cao nhận thức cho các giáo viên về tầm
quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo
để các giáo viên tự giác và tích cực hơn trong công tác thúc đẩy nghiên cứu khoa học
trong sinh viên.
Ban tổ chức Hội nghị chân thành cám ơn sự quan tâm của Ban Giám hiệu nhà trường,
lãnh đạo các đơn vị, các cán bộ, giảng viên và sinh viên trong trường đã tham gia thảo
luận, góp ý, đề xuất các giải pháp nhằm phát triển phong trào và nâng cao chất lượng
nghiên cứu khoa học của sinh viên. Điều đó đã góp phần cho thành công của hội nghị.
Trân trọng./.
BAN TỔ CHỨC


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN LÀ YẾU TỐ ĐỀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
TS. Nguyễn Thanh Dũng
I. TÓM TẮT
Nghiên cứu khoa học (NCKH) là một trong những hoạt động quan trọng nhất của
sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng, tăng cường các hoạt động NCKH trong sinh
viên sẽ nâng cao chất lượng đào tạo và giáo dục, sẽ giúp các sinh viên có phương pháp
học tập chủ động và tích cực hơn, điều này sẽ giúp nâng cao hiệu quả đầu ra trong quá
trình đào tạo tại các trường.
II. NỘI DUNG
* Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo là nhiệm vụ thường xuyên và rất quan
trọng đối với các trường đại học và cao đẳng, đây không chỉ là trách nhiệm mà còn là uy
tín và sự tồn tại của trường. Nâng cao chất lượng đào tạo cũng chính là sự khẳng định
thương hiệu của trường trong giai đoạn phát triển công nghệ và hội nhập quốc tế hiện

nay.
* NCKH trong sinh viên không những giúp sinh viên có cơ hội tiếp cận với lĩnh
vực chuyên môn của mình mà còn giúp sinh viên rèn luyện khả năng nghiên cứu, tổng
hợp, phân tích, rèn luyện khả năng làm việc theo nhóm, cách thuyết trình, báo cáo và qua
đó rèn luyện một tác phong làm việc khoa học.
* NCKH trong sinh viên sẽ nâng cao năng lực NCKH, giúp sinh viên tự trang bị
cho mình những kiến thức về phương pháp NCKH và qua việc NCKH giúp sinh viên
phát hiện những lỗ hổng kiến thức, chính điều này sẽ giúp sinh viên tích cực hơn, kiên trì
hơn trong quá trình NCKH.
1. NCKH trong sinh viên sẽ hình thành thông qua chương trình đào tạo và
phương pháp đào tạo:
Nghiên cứu khoa học của sinh viên là hoạt động trí tuệ giúp sinh viên vận dụng
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong học tập và trong thực tiễn,
trong đó sinh viên bước đầu vận dụng một cách tổng hợp những tri thức đã học để tiến
hành hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu, bước đầu góp phần giải quyết những
vấn đề khoa học do thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp đặt ra để từ đó có thể đào sâu, mở
rộng và hoàn thiện vốn hiểu biết của mình.



Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Cửu Long
1


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

NCKH là công việc đi tìm lời giải thích và thực hiện các dự báo cho các câu hỏi
mà các nhà khoa học và thực tiễn chưa có đáp án nhằm góp phần gia tăng tri thức nhân

loại. Trong nghiên cứu khoa học thì hai thành phần quan trọng đó là hoạt động nghiên
cứu và kết quả nghiên cứu.
Việc NCKH trong sinh viên chủ yếu đặt nặng thành phần thứ nhất đó là hoạt động
NCKH chứ chưa phải là kết quả nghiên cứu. Trong các năm sinh viên được đào tạo
trong trường, mục tiêu chính của việc NCKH trong sinh viên ở bậc đại học và cao đẳng
là trang bị cho sinh viên các kiến thức, kỹ năng NCKH độc lập để hỗ trợ các hoạt động
học tập và thông qua chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo ở trường đại học sẽ hỗ
trợ để phát triển các kỹ năng và kiến thức NCKH cho sinh viên. Vì chính thông qua yêu
cầu các môn học như làm tiểu luận các môn học, đề án môn học, luận văn tốt nghiệp sẽ
đặt các sinh viên trong tình huống đặt vấn đề, xây dựng đề cương, các phương pháp thực
hiện, tìm kiếm tài liệu trong thư viện, trên internet, tìm đọc tài liệu, tổng kết, phân tích
các tài liệu, tiến hành các thí nghiệm, quan sát, phân tích số liệu, xác định kết quả, viết
báo cáo, trình bày báo cáo.
Thật sự, việc NCKH trong sinh viên chính là từ các hoạt động đào tạo trong
trường đại học.
2. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học trong sinh viên
Mục đích NCKH là góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và tự đào tạo, phát hiện
và bồi dưỡng tài năng trẻ cho đất nước. Giúp sinh viên củng cố, tổng hợp và nâng cao
kiến thức đã học, tiếp cận và biết vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học; tạo
điều kiện để sinh viên đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề cụ thể mà chuyên môn
đặt ra. Vận dụng kiến thức đã học và phương pháp nghiên cứu khoa học để giải quyết
một số vấn đề khoa học gắn với thực tiễn.
NCKH trong sinh viên có thể xem như một bài tập nghiên cứu giúp cho sinh viên
hiểu rõ hơn nội dung các môn học.
Thông qua việc NCKH sẽ nâng cao được vị trí của sinh viên trong trường và trong
xã hội, qua đó sinh viên có thể có được học bổng hỡ trợ cho sinh viên trong quá trình học
tập.
Vậy để đẩy mạnh hoạt động NCKH trong sinh viên thì:
-


-

Chương trình đào tạo và phương pháp đào tạo hợp lý sẽ thúc đẩy việc NCKH
trong sinh viên. Trong từng môn học sinh viên nên làm các tiểu luận và đề án môn
học.
Tài liệu ở thư viện và các thiết bị ở phòng thí nghiệm đầy đủ sẽ hỗ trợ nhiều trong
công tác NCKH.

2


HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

KỶ YẾU

-

-

Trong chương trình đào tạo ở đại học và cao đẳng luôn có môn phương pháp
NCKH.
Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các buổi báo cáo khoa học trong khoa,
trong trường. Điều này sẽ giúp sinh viên có cơ hội học hỏi kinh nghiệm và phương
pháp nghiên cứu.
Nâng cao trình độ ngôn ngữ cho sinh viên để có điều kiện tiếp cận các kiến thức
mới phục vụ NCKH.
Sẽ tăng kinh phí cho sinh viên trong các hoạt động NCKH và có cơ chế thích hợp
để thúc đẩy NCKH trong sinh viên.
Phát huy vai trò của các giáo viên, các tổ bộ môn, các khoa trong việc thúc đẩy
NCKH trong sinh viên.

Nâng cao nhận thức cho các giáo viên về tầm quan trọng công tác NCKH đối với
việc nâng cao chất lượng đào tạo để các giáo viên tự giác và tích cực trong công
tác thúc đẩy NCKH trong sinh viên.
3. Hoạt động NCKH trong sinh viên của Trường Đại học Cửu Long
Tình hình NCKH của sinh viên qua các năm, tính từ giai đoạn 2012 – 2015
3.1. Giai đoạn 2012 – 2013
Tổng đề tài đăng ký xét duyệt: 21 đề tài
Tổng đề tài được duyệt: 11 đề tài
Tổng kinh phí được duyệt: 52.887.000 đồng
THỐNG KÊ

ĐƠN VỊ

TT

SỐ
LƯỢNG

NGHIỆM
THU

XẾP LOẠI
Xuất
sắc

Khá

Trung
bình


1

Khoa Kỹ thuật Công nghệ

03

03

1

2

0

2

Khoa Khoa học Nông nghiệp

08

08

7

1

0

TỔNG CỘNG


11

11

3

0

KINH PHÍ (VNĐ)

52.887.000

3.2.

Giai đoạn 2013 – 2014
Tổng đề tài đăng ký xét duyệt: 14 đề tài
Tổng đề tài được duyệt: 9 đề tài
Tổng kinh phí được duyệt: 47.000.000 đồng
3

8


HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

KỶ YẾU

THỐNG KÊ

ĐƠN VỊ


TT

SỐ
LƯỢNG

NGHIỆM
THU

XẾP LOẠI
Xuất
sắc

Khá

Trung
bình

1

Khoa Quản trị Kinh doanh

1

1

1

0


0

2

Khoa Kỹ thuật Công nghệ

4

4

3

1

0

3

Khoa Ngoại ngữ - Đông phương
học

1

1

1

0

0


4

Khoa Khoa học Nông nghiệp

3

3

3

0

0

TỔNG CỘNG

9

9

8

1

0

KINH PHÍ (VNĐ)

47,000,000


3.3.

Giai đoạn 2014 – 2015
Tổng đề tài đăng ký xét duyệt: 10 đề tài
Tổng đề tài được duyệt: 6 đề tài:
Tổng kính phí được duyệt: 30.000.000 đồng
THỐNG KÊ

TT

ĐƠN VỊ

SỐ
LƯỢNG

NGHIỆM
THU

XẾP LOẠI
Xuất
sắc

Khá

Trung
bình

1


Khoa Quản trị Kinh doanh

2

2

2

0

0

2

Khoa Ngoại ngữ - Đông Phương
học

1

1

0

1

0

3

Khoa Khoa học Nông nghiệp


3

2

1

1

0

TỔNG CỘNG

6

5

3

2

0

KINH PHÍ (VNĐ)

30.000.000
4


HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015


KỶ YẾU

BẢNG THỐNG KÊ CHI TIẾT
ĐỀ TÀI NCKH CẤP
CƠ SỞ

SINH VIÊN

GIAI ĐOẠN

11

2012 - 2013

52.887.000

GIAI ĐOẠN

9

2013 - 2014

47.000.000

GIAI ĐOẠN

6

2014 - 2015


30.000.000

Tổng đề tài qua các năm

26

Tổng kinh phí qua các
năm

129.887.000
PHÂN LOẠI THEO LĨNH VỰC

ĐỀ TÀI CẤP CƠ SỞ

SINH VIÊN

KHOA HỌC - KỸ THUẬT

7

KINH TẾ - XÃ HỘI

5

NÔNG NGHIỆP

14

Ngoài ra, trong thời gian qua sinh viên trường Đại học Cửu Long đã tham gia một số

cuộc thi và đạt thành tích đáng kể, điển hình như:
-

Năm 2013, Trường Đại học Cửu Long đã đạt giải cao trong cuộc thi Olympic
Cơ học toàn quốc tổ chức tại Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh gồm
03 giải Nhất cá nhân môn Ứng dụng tin học trong Cơ học, 02 giải Khuyến
khích cá nhân môn Sức bền vật liệu, và giải Ba đồng đội môn Ứng dụng tin
học trong Cơ học.
5


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

-

Năm 2014, Trường Đại học Cửu Long đăng cai tổ chức cuộc thi Olympic Cơ
học toàn quốc, đạt 4 giải Khuyến khích cá nhân trong hội thi này.
Năm 2015, đạt 1 giải Khuyến khích cá nhân tại cuộc thi Olympic Cơ học toàn
quốc được tổ chức tại Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

-

Năm 2014, đạt một giải Nhì cá nhân tại cuộc thi “Sáng tạo ứng dụng di
động” do Bộ Giáo dục & Đào tạo tổ chức. Nhận giải thưởng: 25/11/2014 tại
Đại học FPT, Hà Nội.
- Năm 2015, đạt 1 giải Nhất cá nhân, 2 giải Nhì cá nhân, và 5 giải Khuyến khích
cá nhân tại cuộc thi “App Studio” do Microsoft Việt Nam tổ chức dành cho
sinh viên Đại học Cửu Long, với 120 sản phẩm tham dự. Ngày trao giải:

29/1/2015.
III. KẾT LUẬN
NCKH là một công việc không dễ dàng đối với sinh viên, nhưng với lòng đam mê
NCKH, với tinh thần dám nghĩ dám làm, với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, với những
kiến thức tích lũy trong thời gian học và cùng với sự hỗ trợ của các giảng viên và môi
trường học tập, nghiên cứu thuận lợi thì công tác NCKH trong sinh viên sẽ có những kết
quả tốt trong thời gian tới.
-

6


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

THAM LUẬN
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ThS. Nguyễn Cao Đạt

I. TÓM TẮT
Một trong những nhiệm vụ của sinh viên là NCKH phục vụ cho học tập. Nắm rõ
yêu cầu của công tác này sẽ giúp đỡ, hướng dẫn và động viên các em từ việc học tập đến
NCKH.
Trong bài viết này, tôi muốn lồng ghép việc đã từng chỉ đạo công tác này từ những
khóa đầu đến những khóa cận gần đây. Hy vọng là sẽ đóng góp được những ý kiến nhỏ
của mình để xây dựng một quy trình giúp cho việc chỉ đạo NCKH của sinh viên ngày
càng tốt hơn.
II. NỘI DUNG: ĐỊNH HÌNH CÔNG TÁC NCKH CỦA SINH VIÊN
Trường đại học Cửu Long đã tổ chức cho sinh viên NCKH từ rất sớm, chỉ sau vài

năm thành lập, khi mà đội ngũ thầy cô cơ hữu cũng mới trong giai đoạn “tập NCKH”!
Ở đây cần nghĩ và hiểu thế nào là NCKH của sinh viên? Suy nghĩ và định hướng
đúng sẽ giúp cho công tác này phát triển vững chắc và có hiệu quả cao. Quan điểm của
tôi và tôi cũng đã thể hiện quan điểm này trong công tác chỉ đạo. Đối với sinh viên và
công tác đã tiến triển khá tốt.
1. Trước hết cho sinh viên năm thứ nhất làm quen với cách dạy ở đại học, cách học ở
đại học. Từ đó có “đôi bạn” học tập, hay là cách làm việc theo nhóm.
2. Năm thứ hai cho các em làm quen với các “bài tập vừa và lớn”, các bài tập này
chủ yếu vận dụng những kiến thức đã học để quay trở lại “thực tế” để chiêm
nghiệm, để so sánh. Hoặc dùng những kiến thức vừa học trong môn học thực hành
một vài kết luận của môn học, ứng dụng vào thực tế địa phương.
3. Năm thứ ba, chúng ta cho các em bắt đầu “nghiên cứu” để hoàn thành một đề tài.
Đề tài đó có thể mở rộng ra ở một vài môn học các em đã học, đã đi thực tế. Các
em có thể nhóm lại ở một vài môn “gần nhau”, sử dụng những khái quát, những
kết luận của thầy để về một địa phương nào đó mà ở đó các em thấy có thể vận
dụng kiến thực đã học, đã tổng hợp nghiên cứu một vấn đề mà địa phương đó
đang cần.



Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Cửu Long
7


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

4. Năm thứ 4, các em đã được trải nghiệm từ những năm học trước các em đi sâu vào
thực tiễn ( thông qua các đơn vị thực tập), để có một đề tài dưới sự hướng dẫn của

thầy và kiểm chứng qua thực tế của doanh nghiệp.
Trên thực tế tại Đại học Cửu Long, những năm trước đã thực hiện công tác này
như thế nào?
Ở năm thứ 1
Các em mang theo mình cách học của thời học sinh phổ thông, nên có các xu hướng
sau:
-

Không tiếp thu nổi cách dạy và quản lý việc học của thầy đại học.

-

Cách học không giống phổ thông, có nghĩa là thầy cứ dậy, không kiểm tra (hoặc
có thầy còn không để ý đến việc em có lên lớp hay không), và như thế các em
không tiếp thu được bài, không cần học ( vì thầy không cần biết em có hiểu bài, có
học bài, có đến lớp không?). Vì thế các em bỏ đi chơi, không học và đọc bài nên
không biết, không nắm được kiến thức vừa được thầy đại học cung cấp. Các em
thấy nhàn rỗi, thấy thoải mái và không học gì. Vì vây, chuyên đề học ở đại học
như thế nào? Là rất cần thiết? Ai giúp các em bù đắp chỗ này? Khoa và các bạn
sinh viên các năm trước. Vì thế Phòng QL công tác sinh viên, vận động hội sinh
viên, lãnh đạo các khoa giải quyết chuyên đề này.

-

Thực tế ở các khóa 2,3,4,5 chúng ta đã làm tốt chuyên đề “Cách học ở đại học như
thế nào?”; và từ đó xuất hiện những nhóm học tập, mà sau này ta gọi là “ kỹ năng
làm việc theo nhóm!”. Và Đoàn TNCS đã có những buổi tổ chức báo cáo công tác
này trong toàn trường.

Sang năm thứ 2

Sang năm thứ hai các em đã quen với cách học và dạy ở đại học, đã biết học theo
nhóm, nhờ sự giúp đỡ từ nhóm để chiếm lĩnh kết quả cao trong học tập. Có lợi thế, nhưng
cũng bắt đầu phát sinh ra một số tật. “tật ngủ trễ, tật bỏ giờ, tật tổ chức sinh nhật,..” để bắt
đầu bước vào con đường “ bia rượu, và một số tệ nạn”. Nếu nắm được yếu điểm này,
hướng từng nhóm đi nghiên cứu theo chủ đề, từ những bài tập của các thầy cô. Như
nghiên cứu về ẩm thực của đồng bào khme Trà Vinh, nghiên cứu về kiến trúc các chùa
khme,...hay công nghệ thông tin có đề tài về nhóm nghe nhạc, nông nghiệm nghiên cứu
về cây lúa, về bệnh của tôm nước lợ, ....Những bài tập này thuộc dạng “ bài tập vừa” và
“lớn”. Đòi hỏi nhóm nghiên cứu có từ 2 đến 03 sinh viên. Các em ở đâu, động viên các
em về đó làm bài?
Cách cho sinh viên tập NCKH kiểu này rất có hiệu quả, và trên thực tế từ khóa 1
đến khóa 6 các em làm rất tốt. Đặc biệt khoa QTKD và khoa CNTT, Nông nghiệp và phát
8


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

triển nông thôn làm rất tốt, có hiệu quả. Cách làm này cũng có hiệu quả và không khí
sinh hoạt học thuật ở mỗi khoa.
Năm thứ 3
Năm học này sinh viên đã trưởng thành hơn vì đã ở độ tuổi có suy nghĩ chín chắn,
có “kiến thức nền” phong phú hơn. Mặt khác, qua việc trải nghiệm với thực tế, các em đã
bắt đầu có suy nghĩ và chuẩn bị cho tương lai của mình. Ở năm học này, về kiến thức nên
trang bị cho các em phương pháp nghiên cửu khoa học. Qua môn học, qua những ví dụ
trong môn học các em định hướng cho mình cần trang bị những gì để chuẩn bị cho đề tài
tốt nghiệp. Trước mắt, đề tài đó được “thử thách” một lần nữa trong nghiên cứu theo
nhóm, và chúng ta sẽ định hướng cho các em loại đề tài. Ở đây, các em, khoa và Phòng
QLKH-SĐH sẽ đưa về các khoa định hướng nghiên cứu và sẽ thẩm định đề tài cho từng

em, từng nhóm ( bây giờ nếu có nhóm cũng tối đa 03 em trong một nhóm nghiên cứu).
Đương nhiên trong đề tài phải phân công rõ em nào chịu trách nhiệm nội dung nghiên
cứu nào? Ở đây số lượng và chất lượng đề tài phải được đánh giá như nhau. Việc NCKH
của sinh viên dạng này trước 2009 chưa được phổ biến, tuy nhiên những năm trước đó
chỉ tập trung ở khoa QTKD, Khoa NN & PTNT, Khoa CNTT.
Năm thứ 4
Đây là năm sinh viên đã có đủ điều kiện về kiến thức cũng như thực tế để là một
đề tài cỡ “ lớn” hơn? Song vì là năm cuối, các em còn những lo toan khác, như : luận văn
tốt nghiệp, thực tập tốt nghiệp, chỗ làm khi ra trường.... Cho nên lượng sinh viên đăng ký
tham gia làm đề tài NCKH giảm. Đó là thực tế và cũng là tất yếu? Những năm trước
2009, số đề tài rơi vào năm cuối, phải nói là ít. Nhưng những sinh viên nào làm thì chất
lượng hơn hẳn những đề tài của những năm học trước.Tháng 10 năm 2014, tôi dẫn đầu
đoàn sinh viên Trường ta đi dự Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học các trường kinh
tế và QTKD toàn quốc ” tại Đại học Hải Phòng. Do các em do dự nên trường không đăng
ký tham gia báo cáo, nhưng theo các em, đề tài của hai em không thua kém đề tài xuất
sắc của đại học thương mại Hà Nội. Điều đó nói lên chất lượng của việc NCKH của sinh
viên trường ta là rất tốt.
Nhìn chung, trường Đại học Cửu Long, tuy mới thành lập đến nay được 15 năm.
Việc NCKH của thầy và trò trường ta tuy có triển khai chậm, nhưng đã từng bước đi
vững chắc, đảm bảo chất lượng và hướng đi của công tác nghiên cứu. Chúng ta đã có
những phương pháp để dần hướng sinh viên vào con đường học thuật, hữu ích.
Ngày nay, khi trường ta đã có Phòng quản lý công tác NCKH của sinh viên, ta đã
có Quy chế NCKH cho sinh viên và nhất là sự hưởng ứng nhiệt tình của khoa và giảng
viên các khoa tham gia hướng dẫn sinh viên, thì công tác này sẽ có những kết quả tốt

9


KỶ YẾU


HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

hơn, vững chắc hơn, thiết thực hơn. Chúng ta chỉ cần phân bố đề tài, cấp độ phù hợp
chúng ta sẽ kết quả như mong muốn.
Về cách quản lý, đâu đây cũng có những thông tin về cán bộ làm việc chưa sát với
giảng viên, sinh viên nên đôi khi gây ra sự hiểu lầm không đáng có. Mong rằng các
chuyên viên trong phòng phối hợp chặt chẽ hơn, uyển chuyển hơn thành công sẽ lớn hơn.

10


HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

KỶ YẾU

THAM LUẬN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN
TS. Bùi Hữu Thuận
I.

TÓM TẮT

Năng lực nghiên cứu của sinh viên là một tiêu chí được thể hiện trong chuẩn đầu
ra của các loại hình đào tạo đại học. Nghiên cứu khoa học còn là một tiêu chí để xếp loại
trường đại học.
Hoạt động của sinh viên nghiên cứu khoa học là kết quả của sự phối hợp hành
động của các cấp quản lý, thầy cô giảng viên và sinh viên cùng với việc đầu tư các trang
bị, hỗ trợ tài chánh …mang đến những lợi ích thiết thực về phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của sinh viên, tạo được điều kiện tốt để sinh viên phát triển sau tốt nghiệp.
Khuyến khích để xuất hiện các ý tưởng khoa học trong sinh viên, phát triển ý

tưởng khoa học dẫn đến các kết quả hữu ích là cách làm để phát triển năng lực chuyên
môn của giáo viên và nâng cao vị thế của nhà trường.
II.

NỘI DUNG CỦA THAM LUẬN
1.

Nghiên cứu khoa học, một tiêu chí phân loại trường Đại Học và sinh viên

Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã có đề án phân cấp trường đại học. Theo đề án này
nghiên cứu khoa học là một tiêu chí quan trọng để xếp loại các trường đại học thành
trường đại học nghiên cứu và trường đại học không nghiên cứu. Loại “Trường Đại Học
Nghiên Cứu” thuộc một đẳng cấp cao hơn loại “Trường Đại Học Không Nghiên Cứu”,
theo đó hình thành cách đối xử phân biệt của Bộ, người tuyển dụng sinh viên và sự chọn
lựa theo học của sinh viên đối với hai loại hình đại học này.
Văn bằng đại học ngày nay ít hấp dẫn, ít được trọng vọng hơn trước đây. Tuy
nhiên, một sinh viên ra trường vừa có văn bằng đại học vừa có một hiểu biết khoa học đã
được chứng thật bằng thực nghiệm, thực tế có thể mang đến các lợi ích thiết thực cho các
công ty rõ ràng có tính hấp dẫn hơn đối với các nhà tuyển dụng.
Hiểu biết nghiên cứu, có kinh nghiệm nghiên cứu, biết được kết quả trở thành “thế
để tìm việc làm” của sinh viên. Được trang bị những tri thức này, sinh viên ra trường
sáng giá hơn, làm cho sinh viên tốt nghiệp có thể mặc cả với nhà tuyển dụng, có quyền
lựa chọn việc làm thích hợp hơn.
2. Phương thức giúp phát triển nghiên cứu khoa học của sinh viên



Trưởng khoa Khoa học Nông nghiệp, Trường Đại học Cửu Long
11



KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

Với những lợi ích mang lại do nghiên cứu khoa học, sinh viên cần được trang bị
những kiến thức, phương pháp nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm thực hành.
Các em sinh viên muốn tích lũy được những hiểu biết hữu dụng để biết làm việc,
để tiến thân. Năng lực sinh viên tốt nghiệp được công nhận ở phạm vi quốc gia và quốc tế
thể hiện ở giá trị thật của văn bằng.
Các nhà tuyển dụng đều biết, văn bằng có giá trị chứng nhận nhưng không đủ,
những nhà tuyển dụng còn muốn hơn nữa trong sự chọn lựa người để làm việc. Những
chứng nhận năng lực cụ thể, biết nghiên cứu, có công trình thành công, có các bài báo
khoa học, các sáng kiến, phát minh được công bố trên các tạp chí khoa học luôn được
đánh giá cao, và được ưu tiên trong tuyển dụng.
Do đó, học đại học không chỉ có mục tiêu là văn bằng mà còn học được những
năng lực tự học, tự nghiên cứu, làm việc nhóm để làm được việc. Để đáp ứng được làm
được các yêu cầu này, thầy trò, trường lớp đều phải cố gắng tạo mọi điều kiện dạy học và
nghiên cứu.
Trường đại học chúng ta cần tiến hành các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa
học. Các hoạt động này cần thể hiện ngay từ chương trình đào tạo (% giờ học và nghiên
cứu trong chương trình đào tạo thể hiện phần đào tạo năng lực nghiên cứu), giá trị định
lượng này có thể được kiểm định dễ dàng theo tiêu chí chuẩn đầu ra bởi các cơ quan đánh
giá chương trình đào tạo. Để các hoạt động nghiên cứu khoa học trong nhà trường tiến
hành tốt, nhà trường cần có những “Tiềm lực khoa học và công nghệ” bao gồm nhân lực
khoa học và công nghệ; tài sản trí tuệ; cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị;
nguồn tài chính thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
3. Sinh viên là một lực lượng nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là quyền lợi của sinh viên. Nghiên cứu khoa học để nâng cao
giá trị trí tuệ của chính bản thân sinh viên, tạo được một nội lực thích ứng có thể đối phó

với các tình huống khoa học khác nhau trong chuyên môn. Khả năng này rất có lợi cho
chính các em để tự nâng cao trình độ cũng như lợi thế chủ động săn tìm việc làm khi tốt
nghiệp.
Sinh viên trong trường đại học là một lực lượng lớn có sức khỏe, có tâm huyết, có
chí hướng vươn lên. Sinh viên muốn nắm bắt các thành tựu khoa học có ích cho sự tiến
thân. Sinh viên có trí lực do chính nhà trường đào tạo. Sinh viên chính là lực lượng lao
động khoa học quan trọng bậc nhất đảm bảo về nhân lực cho các hoạt động khoa học của
nhà trường. Tất cả các hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường từ những nghiên
cứu thử ở bậc đại học, nghiên cứu khẳng định ở bậc thạc sĩ đến nghiên cứu mang tính
chắc chắn có giá trị cao ở bậc tiến sĩ đều được tiến hành bởi sinh viên. Tác giả thứ nhất ở
12


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

các bài báo khoa học danh giá cũng phần lớn là sinh viên. Quả thật sinh viên là lực lượng
thực hành chích, lực lượng nghiên cứu khoa học của trường đại học.
4. Hỗ trợ cho sinh viên hoạt động khoa học
Họạt động khoa học của sinh viên bắt đầu nhen nhóm từ nhận thức mà các em
biết. Hoạt động này có thể được thực hiện nhờ sự dìu dắt về phương pháp nhận thức, tư
duy, thực hiện và đánh giá của thầy cô và sự hổ trợ vật chất của nhà trường.
Phát triển tư duy từ kiến thức chuyên ngành : việc thực hiện này xuất phát ở sinh
viên, nhưng thường từ các hướng khoa học của các thầy cô hay từ các nhận thức từ thật
tiễn sản xuất. Vấn đề khoa học được đặt ra từ thực tiễn sản xuất thường gắn liền với các
lợi ích. Với các hiểu biết thực tế và tri thức khoa học, sinh viên có thể nhận ra những bất
cập trong sản xuất, từ đó xuất hiện những tư tưởng khoa học.
Đối với các ngành thực nghiệm phương tiện đánh giá nhận thức thật quan trọng.
Phòng thí nghiệm là công cụ hổ trợ cần thiết trong nghiên cứu thực nghiệm, nhất là

những phương tiện để khống chế yếu tố nghiên cứu và đánh giá các kết quả nghiên cứu.
Đó là dụng cụ đo lường. Thể loại dụng cụ đo lường không nhiều nên trang thiết bị của
nhà trường nên có đầy đủ các loại dụng cụ này và chất lượng đủ để phục vụ nghiên cứu
của sinh viên.
Các phương tiện thí nghiệm khác xuất phát từ tư duy nhiên cứu mới, thường
không thể mua được trên thị trường mà phải tự chế. Vì vậy nhà trường cần có những cán
bộ thiết kế giỏi để làm đồ dùng thí nghiệm có tính thục nghiệm đặc biệt và rẽ tiền. Các đồ
dùng này có thể chỉ sử dụng trong một vài tuần, vài tháng, chỉ để đánh giá, nhưng chúng
là đồ dùng rất quan trọng để có thể tiến hành các nghiên cứu mới.
Nhân sự quản lý phòng thí nghiệm hiện nay chỉ là người giữ phòng thí nghiệm.
Chúng ta cần tìm các trưởng phòng thí nghiệm, đó là người đứng đầu về khoa học của
các dự án nghiên cứu, người đó có thể làm đề án, tìm tài chánh cho đề án và điều hành
các thí nghiệm hướng đến các kết quả khoa học có giá trị đáp ứng yêu cầu của đề án khoa
học.
Các kết quả được sinh viên tìm ra do nghiên cứu có thể so sánh được với các
nhóm làm khoa học khác hay ứng dụng được vào thực tế. Thành tích đó sẽ giúp các em
muốn tìm thêm những điều hay ho hơn nữa trong nghiên cứu khoa học. Kết quả đạt được
như vậy thật sự giúp các em sinh viên. Thông qua cách làm khoa học, các em không chỉ
học được phương pháp nghiên cứu, có được kết quả tốt mà còn giúp các em trong tìm
việc làm, đặc biệt là làm khoa học gắn liền với các hoạt động sản xuất của các công ty, xí
nghiệp nâng cao vị thế của các em và nhà trường.

13


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

Theo Nghị định số: 99/2014/NĐ-CP, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 12

năm 2014 về quy định việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa
học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học, hằng năm, nhà trường dành tối thiểu
3% kinh phí từ nguồn thu học phí của cơ sở giáo dục đại học để cho sinh viên và người
học hoạt động nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, chúng ta có thể tranh thủ các nguồn tài
trợ có mục tiêu phát triển khoa học từ xã hội, hay từ các hợp đồng với các công ty muốn
nâng đỡ các đề tài của sinh viên. Các phần kinh phí này giúp cho các em sinh viên của
trường có thể làm những hoạt động khoa học yêu thích như một hoạt động ở trường Đại
Học.
5. Hội đồng đánh giá đề cương và đánh giá kết quả
Các hội đồng đánh giá các bước của quá trình không chỉ kết cấu các nhà khoa học
mà nên kết cấu các nhà tài trợ gồm các hiệp hội khoa học, các doanh nghiệp, các nhà đầu
tư để tìm kiếm sự ủng hộ về cách làm, tăng uy tín và đa dạng nguồn tài chánh.
Trong khoa học, ý tưởng hay thật quan trọng, thật quí giá. Nhà trường cần khuyến
khích mạnh mẽ các ý tưởng sáng tạo của sinh viên bằng cách nêu lên những thử thách
mang tính khoa học, mang đến lợi ích lao động, kinh tế, lợi ích nhân sinh, xã hội …, tổ
chức những buổi thảo luận, thi đua nhóm … để kích thích động não các em sinh viên sao
cho ý tưởng sáng tạo các em đạt được trạng thái thăng hoa để xuất hiện.
Nhà trường cần tìm cách để khuyến khích các em sinh viên và với tổ chức của
mình, các ý tưởng mới cần được phát hiện, thông qua các hội đồng để giúp đỡ nghiên
cứu. Những ý tưởng mới, hay, khả thi cần được đánh giá để khen thưởng. Những ý tưởng
hay, sáng tạo như những viên ngọc trong đá cần được phát hiện để nuôi dưỡng thành
những hoạt động khoa học bắt đầu từ sinh viên, hay nhóm sinh viên, hình thành các
hướng nghiên cứu khoa học ... có sự chỉ dẫn của giáo viên hay những nhà khoa học giỏi
am hiểu về đề tài.
Những ý tưởng này cần được giúp đỡ phát triển mọi mặt từ tư liệu, phương tiện
vật chất, phương pháp tư duy, phương pháp thực nghiệm, phương pháp đánh giá … để
thành những đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên đạt kết quả mong muốn. Tài chánh
lúc bấy giờ là phương tiện để nghiên cứu.
Những ý tưởng khoa học hay những thành tựu trong nghiên cứu khoa học của sinh
viên cần được đánh giá, khen thưởng xứng đáng về vật chất và cấp các chứng nhận khoa

học để các em có điều kiện, có cơ hội tìm kiếm sự phát triển năng lực nghiên cứu cao hơn
nữa trong tương lai.
Đánh giá đúng để ươm mầm, nuôi dưỡng, phát triển ý tưởng khoa học có hiệu quả
là trách nhiệm của tổ chức nhà trường từ đó cũng tăng uy tín khoa học của nhà trường.
14


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

Đánh giá không đúng, nghiên cứu khoa học chạy theo các mục tiêu số lượng, không
mang tính khoa học sẽ dẫn đến những kết quả rỗng và lép, không có tính sống và phát
triển.
Với cách làm này, bắt đầu từ các nghiên cứu khoa học có triển vọng của sinh viên,
nhà trường có được khuynh hướng nghiên cứu để đầu tư tài chánh cho nghiên cứu đúng
hướng, mua sắm phương tiện vật chất có trọng điểm. Như vậy mỗi trường sẽ có thế mạnh
nhất định theo các khuynh hướng phát triển, hình thành tính đặc sắc khoa học rất riêng,
độc đáo của từng trường đại học.
III. KẾT LUẬN
Hoạt động nghiên cứu khoa học cho sinh viên vô cùng quan trọng đối với sự đánh
giá của xã hội đối với chất lượng đào tạo của nhà trường, giảng viên và sinh viên. Việc
tích lũy này làm cho trình độ của sinh viên và giáo viên được nâng cao mang lại lợi ích
chung cho nhà trường và xã hội.
Hoạt động nghiên cứu này cần được nhà trường khuyến khích, phát hiện, giúp đỡ
nhiều mặt về tài chánh công cụ, quan hệ … để các ý tưởng tốt được triển khai một cách
hiệu quả và gặt hái được các kết quả hữu ích.
Làm tốt việc quản lý nghiên cứu khoa học của sinh viên, trường đại học dùng khoa
học tác động đến xã hội làm thay đổi vị thế của nhà trường mang đến những kết quả quan
trọng bậc nhất, khẳng định hình ảnh, đẳng cấp của một nhà trường đại học.


15


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

ĐỊNH HƯỚNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỬU LONG
TS. Đặng Danh Lợi
Để phấn đấu trở thành một trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học có uy tín của
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều năm qua Trường Đại học Cửu Long đã rất chú
trọng đến hoạt động nghiên cứu khoa học thông qua nhiều cách thức, từ tổ chức hợp tác
trong nước đến hợp tác quốc tế. Nghiên cứu khoa học đã tạo được động lực và diễn đàn
thu hút các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ, giáo viên, sinh viên tham gia. Trong đó hoạt
động nghiên cứu khoa học sinh viên góp phần rất quan trọng để đạt mục tiêu, sứ mạng
của nhà trường.
Nghiên cứu khoa học của sinh viên là một nhiệm vụ cơ bản và là cách học tốt
nhất có hiệu quả nhất đối với học tập ở bậc đại học và trên đại học. Vì vậy, NCKH đã trở
thành hạt nhân trung tâm của phương pháp học tập ở đại học. Nhận thức được ý nghĩa lớn
lao đó của nghiên cứu khoa học đối với việc học tập của sinh viên nên từ khi thành lập
trường đến nay Ban Giám hiệu đã xác định nghiên cứu khoa học của sinh viên là một nội
dung quan trọng trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo của nhà trường. Theo
đó trong hoạt động của nhà trường Ban giám hiệu đã tập trung chỉ đạo và có sự đầu tư
xứng đáng về công sức và trí tuệ, tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên.
Kết quả là hoạt động này trong những năm qua đã có sự phát triển cả về số lượng và chất
lượng, đặc biệt là tạo ra động lực, phong trào nghiên cứu khoa học của nhà trường, đưa
hoạt động này ngày càng đi vào chiều sâu.
Để hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên ngày càng có hiệu quả cao góp

phần to lớn vào việc nâng cao vị thế, thương hiệu và trở thành một nhiệm vụ trung tâm
trong hoạt động giáo dục đào tạo của nhà trường, theo chúng tôi cần tập trung vào giải
quyết những vấn đề sau đây:
1. Định hướng phát triển hoạt động NCKH và nghiên cứu khoa học sinh viên
của nhà trường.
Một là, Cần phải xác định và quán triệt sâu sắc quan điểm NCKH là nhiệm vụ
trung tâm, là con đường cơ bản nhất để đưa trường Đại học Cửu Long trở thành trung



Bộ môn Lý luận Chính trị, Trường Đại học Cửu Long
16


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học có chất lượng,uy tín của khu
vực.
Hai là, Coi phát triển nghiên cứu khoa học của sinh viên là yêu cầu là nhiệm vụ cơ
bản đển nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường nhằm nâng
cao vị thế, thương hiệu trường Đại học cửu Long. Để đạt đươc mục tiêu đó cần quan tâm
hơn nữa đến việc tổ chức, hướng dẫn sinh viên NCKH ngay từ những ngày đầu vào
trường. Coi trọng việc phát hiện sớm những sinh viên giỏi có năng khiếu và lòng đam mê
NCKH để định hướng sự phấn đấu cho các sinh viên đó theo hướng trở thành cán bộ
khoa học. Đồng thời có kế hoạch cụ thể và tạo những điều kiện thuận lợi nhất để cho các
sinh viên đó phát huy khả năng về NCKH.
Ba là, quá trình tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên cần phải tạo
được mối quan hệ thực sự khoa học giữa các đơn vị trong nhà trường với sinh viên, giữa

giáo viên và sinh viên coi đó là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn quyết định sự
thành công trong hoạt động NCKH sinh viên. Thực tế cho thấy không có sự hướng dẫn
của giáo viên, thiếu sự kết hợp NCKH giữa thầy và trò với cơ quan quản lý thì sinh viên
dù rất giỏi cũng không thể thực hiện nghiên cứu được những đề tài có chất luợng cao.
Bốn là, Tăng kinh phí đầu tư, các quĩ hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học đây là
vấn đề cốt lõi quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Thực tế hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên nhà trường trong những năm qua cho thấy số lượng đề tài chất lượng
của đề tài phục thuộc vào nhiều yếu tố, song kinh phí hoạt động nghiên cứu của sinh viên
là yếu tố quyết định. Vì vậy, theo chúng tôi thời gian tới để hoạt động nghiên cứu khoa
học sinh viên ngày càng phát triển đi vào chiều sâu chất lượng, hiệu quả thì nhà trường
phải tạo được động lực trên cơ sở tạo ra nguồn tài chính đủ mạnh để cho hoạt động này
phát huy hiệu quả tối đa bởi các yếu tố tích cực của nó.
2. Định hướng hoạt động hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học.
Hướng dẫn hoạt động sinh viên nghiên cứu khoa học là nghệ thuật tổ chức và điều
khiển sinh viên tìm tòi, sáng tạo dựa trên nền tảng sinh viên đã tiếp cận các tri thức khoa
học ở bậc đại học, đặc biệt là khoa học chuyên ngành mà sinh viên được đào tạo. Mục
tiêu của hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học trước hết là làm quen với phương pháp
nghiên cứu khoa học, rèn luyện khả năng tự phát hiện các vấn đề mới nảy sinh trong cuộc
sống, cách thu thập thông tin, tư liệu và cách giải quyết vấn đề cho phù hợp để có một
báo cáo khoa học đạt được mục tiêu đề ra. Cao hơn nữa là giải quyết được yêu cầu thực
tiễn của một lĩnh vực khoa học nhằn đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống đặt
17


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

ra. Để đạt được mục tiêu đó người hướng dẫn khoa học sinh viên phải tập trung vào các
vấn đề sau:

Một là, Cần tạo cho sinh viên một tâm thế đam mê nghiên cứu khoa học. Đó là
tâm thế của người say mê tìm tòi nghiên cứu, phát hiện khoa học, chọn vấn đề nghiên cứu
khoa học . Đây là điều hết sức quan trọng, vì chỉ có trên tinh thần đam mê mới có sự sáng
tạo. Lịch sử ra đời và phát triển khoa học của nhân loại đã cho thấy những phát minh vĩ
đại của các nhà khoa học đều xuất hiện bắt đầu từ sự đam mê khoa học của họ. Do vậy,
để có vấn đề khoa học và kết quả nghiên cứu khoa học tốt, người thầy, nhà hoa học phải
kích thích đươc sự đam mê khoa học của sinh viên tạo cho họ sự hứng thú, say mê trong
nghiên cứu, tìm tòi khám phá, giúp cho họ đủ tự tin trong hoạt động khám phá chinh
phục tri thức mới…
Hai là, Định hướng chọn đề tài, phù hợp với điều kiện và khả năng nghiên cứu của
sinh viên.
Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu phải xuất phát từ cơ sở khoa học ngành đào tạo,
yêu cầu từ cuộc sống, từ lĩnh vực sinh viên đam mê nghiên cứu. Đề tài phải xác định
được mục tiêu, đối tượng, nhiệm vụ phạm vi nghiên cứu đây là yêu cầu có ý nghĩa quan
trọng trong định hướng nghiên cứu cho sinh viên. Đề tài khoa học lựa chọn cho sinh viên
nghiên cứu phải đảm bảo tính vừa sức, không quá phức tạp, phạm vi nghiên cứu không
quá rộng, không đòi hỏi phải xử lý quá nhiều thông tin từ thực tế. Bởi vì, sinh viên vừa
nghiên cứu khoa học vừa phải học tập theo chương trình nếu đề tài quá sức sẽ ảnh hưởng
đến quá trình học tập, gây tâm lý mệt mỏi căng thẳng, sự sáng tạo sẽ suy giảm. Có thể nói
lựa chọn đề tài đúng hướng, vừa sức phù hợp với điều kiện nghiên cứu của sinh viên và
người hướng dẫn có ý nghĩa quyết định sự thành công.
Ba là,Trong hướng dẫn khoa học cho sinh viên, người hướng dẫn khoa học trước
hết phải hướng cho sinh viên thực hiện đúng qui trình, trình tự nghiên cứu một đề tài
khoa học.
Đây là vấn đề rất quan trọng trong thực hiện một đề tài khoa học mà người hướng
dẫn cần phải quan tâm trước hết, vấn đề này không những giúp sinh viên nắm được qui
trình, thủ tục mà điều quan trọng giúp người nghiên cứu làm việc khoa học có tính logic,
chặt chẻ. Thực hiện theo đúng qui trình nghiên cứu khoa học, từ làm đề cương, các bước
tiến hành, phân tích xử lý thông tin tài liệu, viết bản thảo, đến hoàn thiện đề tài là một
yêu cầu bắt buộc và khoa học giúp cho việc nghiên cứu đề tài có kết quả cao, đỡ tốn thời

gian và công sức.
18


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

Ở mỗi khâu có các bước tiến hành mà yêu cầu người hướng dẫn phải luôn theo sát
sinh viên, vừa luận giải tính khoa học của qui trình, yêu cầu cần đạt được của mỗi công
đoạn; kịp thời khích lệ những ý tưởng sáng tạo, đồng thời kịp điều chỉnh những bước
nghiên cứu sai lệch. Thầy không làm thay, song phải luôn theo sát và uốn nắn kịp thời
từng hoạt động khoa học của sinh viên.
Bốn là, Hướng dẫn sinh viên thu thập, xử lý thông tin một cách khoa học.
Một đề tài nghiên cứu khoa học một khi đã xác định được vấn đề nghiên cứu đối
tượng, phạm vi nghiên cứu thì vấn đề còn lại có ý nghĩa quan trọng nhất là chất liệu để
làm cơ sở nghiên cứu. Do vậy, thu thập tài liệu và xử lý thông tin từ nguồn tài liệu là
khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với kết quả nghiên cứu một đề tài khoa học.
Đây là vấn đề cốt tử mà người hướng dẫn khoa học cần phải truyền cho sinh viên. Cái
còn lại với sinh viên sau khi xác định được đề tài nghiên cứu chính là phương pháp thu
thập và xử lý thông tin một cách khoa học.
Người hướng dẫn giúp sinh viên xác định được mục tiêu, nội dung, đối tượng
nghiên cứu của đề tài nhằm đảm bảo cho quá trình thu thập và xử lý thông tin được đúng
hướng; Giúp sinh viên trong quá trình nghiên cứu tìm lời giải cho các câu hỏi: mục tiêu
cần đạt và cần giải quyết được nội dung nào? dựa trên những thông tin, số liệu nào? Các
thông tin ấy có thể tìm kiếm ở đâu? Làm thế nào để tiếp cận và nghiên cứu được nguồn
tin đó? Cách thu tin ra sao? Sắp xếp và xử lý tin thế nào? ... người hướng dẫn phải định
hướng cho sinh viên cân nhắc kỹ lưỡng từng thông tin, sử dụng cho phù hợp với từng
phần nội dung của đề tài cần giải quyết để đảm bảo logic chặt chẽ và khoa học.


19


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

THÀNH TỰU VÀ GIỚI HẠN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG
SINH VIÊN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỬU LONG
ThS. Trần Thanh Thy
I.

TÓM TẮT

Chất lượng chung của các trường Đại học có lẽ không chỉ là việc quảng bá thương
hiệu mà điểm nổi bật là chất lượng nghiên cứu và giảng dạy. Việc đưa nghiên cứu khoa
học (NCKH) đến sinh viên (SV) trường Đại học Cửu Long đã mang lại cho nhà trường
nói chung và giảng viên (GV) – sinh viên nói riêng nhiều thành tựu nổi bật: GV-SV thu
nhận được những thông tin khoa học, những kinh nghiệm cần thiết, tiếp cận được những
tiến bộ khoa học trong khu vực và thế giới. SV năm cuối thực hiện NCKH và kết hợp để
làm luận văn tốt nghiệp, nhiều đề tài được đánh giá cao có khả năng đưa vào ứng dụng
thực tiễn. Các bài báo của GV được đăng trên các tạp chí phong hàm chức danh nhà nước
đã sử dụng các kết quả NCKH này. Hằng năm, nhà trường đã xuất bản Thông tin NCKH
đăng các đề tài của SV, đồng thời xây dựng và quảng bá “thương hiệu” của trường trong
khu vực ĐBSCL và toàn quốc.
Tuy nhiên, SV NCKH còn rất thụ động, các em có được đề tài là do GV gợi ý và
cho đề tài để đăng ký. Số lượng đề tài nghiên cứu của SV còn rất khiêm tốn, hàng năm
nhà trường nghiệm thu dưới 12 đề tài NCKH trong SV.
II.


NỘI DUNG
1. Mở đầu

Trong những năm qua, hoạt động NCKH của ĐH Cửu Long đã đạt được một số
thành tựu khả quan. So với các trường ĐH trong khu vực, hoạt động NCKH trong SV của
ĐH Cửu Long được Ban giám hiệu (BGH) đầu tư một khoản kinh phí. Hoạt động NCKH
đã góp phần bồi dưỡng đội ngũ, nâng cao chất lượng đào tạo Đại học thông qua việc kết
hợp chặc chẽ giữa NCKH với giảng dạy gắn kết với hoạt động NCKH của SV.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, hoạt động NCKH trong SV tại ĐH Cửu
Long còn một số mặt tồn tại. Một bộ phận GV chưa coi trọng hoạt động NCKH, nhiều
SV rất thụ động, số lượng và chất lượng đề tài còn khiêm tốn, các đề tài được ngiệm thu
chưa được chuyển giao rộng rãi đến SV,…Tất cả đều đó làm hạn chế hoạt động NCKH
nói chung và hoạt động NCKH trong SV tại ĐH Cửu Long nói riêng.
Bài viết này nhằm nhìn lại một số thành tựu và giới hạn của NCKH trong SV ĐH
Cửu Long, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động NCKH



Khoa Khoa học Nông nghiệp, Trường Đại học Cửu Long
20


HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

KỶ YẾU

này, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi mô hình một đại học mạnh về NCKH trong giai
đoạn mới.
2. Thành tựu của NCKH trong SV từ năm 2011 đến nay
Trường ĐH Cửu Long hàng năm (từ năm 2011 đến nay) thường tổ chức cho SV

năm thứ 3, 4 tham gia NCKH dưới các hình thức như chủ trì đề tài NCKH, tham gia cùng
nhóm SV, tham gia cùng với GV chủ trì đề tài. Trong đó, SV chủ trì và cùng tham gia
thực hiện đề tài sau khi nghiệm thu đề tài được BGH cấp chứng nhận SV NCKH.
Hoạt động NCKH này được BGH tạo điều kiện để SV năm cuối kết hợp thực hiện
làm luận văn tốt nghiệp, từ đó SV thực hiện được ý tưởng và nâng cao trình độ chuyên
môn trong NCKH. Một số đề tài của SV được hội đồng đánh giá cao và có nhiều khả
năng đưa vào ứng dụng thực tiễn.
Bảng 1: Thống kê số lượng đề tài NCKH và kinh phí thực hiện từ năm 2011 đến
nay
Đề tài NCKH cấp cơ sở

Số lượng đề tài

Kinh phí (đồng)

Năm 2011 - 2012

06

30.000.000

Năm 2012- 2013

11

52.887.000

Năm 2013 - 2014

09


47.000.000

Năm 2014 - 2015

06

30.000.000

Tổng

159.887.000

Theo bảng thống kê trên, cho thấy hoạt động NCKH trong SV sau 4 năm thực hiện
đã có tổng số 32 đề tài nghiên cứu, với tổng kinh phí BGH chi gần 160 triệu đồng cho
hoạt động này, và với khoản kinh phí này đã tham gia đào tạo hơn 32 Kỹ sư/ cử nhận tốt
nghiệp ĐH.
Song, với hoạt động NCKH trong SV, GV- người hướng dẫn khoa học đã có ít
nhất 03 bài báo được đăng và báo cáo trong Hội nghị Quốc gia tổ chức tại Hà Nội và 02
bài báo được đăng trong tạp chí Phát triển Nông Thôn, Đại học Cần Thơ – hai trong
những tạp chí phong hàm chức danh nhà nước.
Thực tiễn trong các trường ĐH, cao đẳng, hoạt động NCKH là con đường hiệu quả
nhất để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, và phát triển năng lực của GV và SV
21


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015


làm công tác giảng dạy và học tập. NCKH là một trong hai tiêu chí chính để đánh giá
chất lượng của quá trình đào tạo. NCKH trong SV tại trường ĐH Cửu Long sau hơn 04
năm thực hiên, các đề tài được viết thành bài báo được đưa lên trang Web của trường và
nhà trường đã xuất bản Thông tin NCKH đến nay đã 5 ấn bản số và sắp xuất bản thành
Tạp chí ĐH Cửu Long làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho GV và SV, đồng thời là
cách chuyển giao kết quả NCKH và xây dựng “thương hiệu” ĐH Cửu Long trong khu
vực ĐBSCL và toàn quốc.
3. Giới hạn của NCKH trong SV tại ĐH Cửu Long
Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy, dường như trong quá trình học ĐH, SV bỏ
nhiều công sức để “học thuộc bài” nhiều hơn là cho hoạt động tìm tòi sáng tạo – hoạt
động NCKH. Điều này phản ánh những hạn chế cần khắc phục của hệ thống đào tạo ĐH
nặng lý thuyết ở các trường ĐH như hiện nay.
Trong NCKH, SV có rất nhiều thuận lợi như sự tận tình hướng dẫn của Thầy/cô
hướng dẫn khoa học, hỗ trợ kinh phí, trang thiết bị phục vụ cho NCKH từ phía
khoa,…Tuy nhiên, khi tham gia NCKH SV và người hướng dẫn khoa học gặp không ít
những khó khăn như sau, những việc này làm giới hạn NCKH trong SV
- Thiếu kinh phí: Thực tế, một đề tài do nhóm SV thực hiện tại trường ĐH Cửu Long
được hỗ trợ kinh phí khoảng 5 triệu đồng, với kinh phí này thì đúng là giới hạn cho việc
NCKH đối với những đề tài không dừng lại khảo sát/ điều tra mà phải bố trí thí nghiệm
và như thế chỉ giải quyết được những đề tài nghiên cứu cơ bản.
- Thiếu kinh nghiệm thực tế: Hầu hết các đề tài mà SV có được đều do GV phát động và
viết phiếu đăng ký đề tài để SV đăng ký và chỉ có SV năm 3, 4 tham gia (SV năm 1, 2
còn rất bỡ ngỡ với việc NCKH). Đây cũng là một trong những giới hạn cơ bản, bởi
NCKH đòi hỏi phải có kiến thức vững vàng, có tư duy sáng tạo, có kinh nghiệm thực
tế,…những yêu cầu này đối với SV không dễ dàng.
- Trang thiết bị còn nghèo nàn: Đây cũng là giới hạn cơ bản trong NCKH hay giảng dạy
tại ĐH Cửu Long. Trang thiết bị, khu thực nghiệm, phòng thí nghiệm còn rất hạn chế, lạc
hậu nên ít nhiều làm giới hạn đến hoạt động hay hiệu quả NCKH.
- GV – hướng dẫn khoa học chỉ cục bộ: vài bộ phận GV chưa coi trọng việc NCKH mà
chỉ biết đọc bài giảng để lên lớp. Điều này có thể không phải do họ thụ động, mà có thể

do cơ chế quản lý của cán bộ quản lý (CBQL) khoa học và thái độ NCKH của SV trong
nhà trường.
GV – người làm công tác hướng dẫn khoa học không được coi trọng: khi nghiệm thu đề
tài, đề xuất hội đồng nghiệm thu là CBQL của khoa/ phòng mà không một lần tham khảo
ý kiến với người hướng dẫn khoa học.
22


KỶ YẾU

HỘI NGHỊ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG SINH VIÊN NĂM 2015

GV – người làm công tác hướng dẫn khoa học, chúng tôi chưa một lần được xứng danh
trong những buổi lễ tuyên dương vào các dịp Nhà giáo Việt Nam, cuối năm học, Kỹ niệm
10 hay 15 năm thành lập Trường,…
Ngoài một số vấn đề chủ quan và khách quan cơ bản nêu trên, còn một số vấn đề
chủ quan khác mà làm giới hạn việc NCKH trong SV thường gặp, đó là: Phương pháp và
khả năng nghiên cứu còn hạn chế; Khó khăn lúc thu thập số liệu; Chưa có kỹ năng nghiên
cứu và Phong trào NCKH của SV chưa phát triển.
Như vậy, bên cạnh những vấn đề khách quan và chủ quan nêu trên đã làm giới hạn
NCKH của SV tại ĐH Cửu Long thì những vấn đề chủ quan cần rất đáng quan tâm, đặc
biệt những vấn đề liên quan đến các kỹ năng cần thiết trong NCKH.
4. Các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH trong SV tại ĐH Cửu
Long
* Đối với nhà trường
- Giải quyết tốt hơn các vấn đề đã nêu trong giới hạn của NCKH trong SV tại ĐH Cửu
Long.
- Song, cần nâng cao nhận thức của SV và CBQL về hoạt động NCKH trong SV.
- Tạo môi trường hoạt động sôi nổi: hình thành các giải thưởng khoa học công nghệ với
quy mô khác nhau để thu hút cũng như tạo nên một môi trường khoa học năng động, có

cơ chế khuyến khích GV tham gia hướng dẫn khoa học thông qua việc khen thưởng về
vật chất và tinh thần để tôn vinh công việc NCKH.
- Tổ chức các cuộc thi sáng tạo trong khoa học tại Trường.
* Đối vơi khoa
- Tổ chức những buổi trao đổi kinh nghiệm NCKH trong SV.
- Tổ chức nhiều hội thảo về chuyên ngành.
- Tăng cường cho SV đi thực tế.
III. KẾT LUẬN
Trên cơ sở phân tích, đánh giá với những năm đã thực hiện NCKH, bài viết đã nêu
rõ những thành tựu và giới hạn của việc NCKH trong SV tại ĐH Cửu Long. Chất lượng
hoạt động NCKH trong SV tại ĐH Cửu Long ngày càng được quan tâm và đầu tư từ phía
nhà trường và đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao năng lực nghiên cứu và
thực tiễn đến SV. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động NCKH là chưa tương xứng với tiềm
năng của ĐH Cửu Long, việc tổ chức thực hiện các hoạt động NCKH trong SV còn nhiều
bất cặp.
23


×