Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.21 KB, 46 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969)
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống
hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam,[1] từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam.[2]
Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với
các thời kì hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam
và quốc tế[3] vào đầu và giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh nhận
định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư
tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản MácLênin, tư tưởng văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cá
nhân của Hồ Chí Minh.[4]
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của
Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa
ra từ Đại hội VII của Đảng. Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam cùng các quan
điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay đều thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ
1


Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản
tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.[5]
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.[6][7] Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc
học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Phần lớn các giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh không phân tích các quan điểm
của ông theo các thời kỳ lịch sử, không phân tích cụ thể các tác phẩm của ông


theo chiều thời gian, ví như năm 1930 khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
ông cho rằng đấu tranh giải phóng dân tộc đi kèm đấu tranh giải phóng giai cấp,
khi thành lập Việt Minh thì gác lại chủ trương đấu tranh giai cấp (tư tưởng này
khá trùng lặp với đường lối của Nguyễn Văn Cừ khi làm Tổng bí thư đòi các
quyền tự do dân chủ kể cả cho giai cấp tư sản và sau là đoàn kết toàn dân chống
phát xít theo đường lối Quốc tế Cộng sản), đến giai đoạn năm 1945 khi tranh
thủ ủng hộ của Đồng Minh cho độc lập, tuyên bố "giải tán đảng" ông tán dương
dân chủ tư sản và đường lối giai đoạn sau năm 1951, cũng như khi thành lập
Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ
chính thức đưa vào Cương lĩnh của Đảng năm 1991, sau khi công cuộc Đổi mới
phát động, chấp thuận phân hóa giai cấp, nhiều lý luận của chủ nghĩa MácLênin không có tính khả thi trong cơ chế thị trường phải gác lại như đạo đức
XHCN, xây dựng con người XHCN, làm theo năng lực hưởng theo lao động
trên toàn xã hội.v.v. (chủ nghĩa cộng sản đặt ra mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ
giai cấp, bóc lột, xóa bỏ giàu - nghèo, thực hiện bình quân tài sản, công hữu trên
nền tảng dân chủ, xóa bỏ giáo điều tôn giáo được xem là mị dân, xóa bỏ nhà
nước đi đến dân chủ trực tiếp và bình đẳng, xóa bỏ các đường biên giới quốc
gia, đưa các dân tộc đến cùng một lợi ích, xóa bỏ bất bình đẳng giữa các dân tộc
trên phạm vi thế giới...). Luận cương về các vấn đề dân tộc, thuộc địa của Lênin
đã chỉ ra các dân tộc lạc hậu không thể nhanh chóng thành công với cách mạng
2


xã hội chủ nghĩa và trong nền kinh tế thị trường, các giáo trình của Việt Nam
thường khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh theo chiều hướng này...
Mục lục


1 Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
o




1.1 Hoàn cảnh ra đời


1.1.1 Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX



1.1.2 Thế giới

o

1.2 Nguồn gốc

o

1.3 Ảnh hưởng của Nho giáo

o

1.4 Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh

o

1.5 Định nghĩa Tư tưởng Hồ Chí Minh

o

1.6 Nghiên cứu, giảng dạy và học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh



1.6.1 Hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập



1.6.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu và học tập



1.6.3 Chính sách ưu đãi của Nhà nước

2 Những nội dung cơ bản
o

o

2.1 Về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc


2.1.1 Về vấn đề dân tộc



2.1.2 Về cách mạng giải phóng dân tộc

2.2 Về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam

o




2.2.1 Về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội



2.2.2 Về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

2.3 Về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại

o



2.3.1 Về đại đoàn kết dân tộc



2.3.2 Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

2.4 Về Đảng Cộng sản Việt Nam; về xây dựng Nhà nước của dân,
do dân, vì dân
3







2.4.1 Về Đảng cộng sản Việt Nam



2.4.2 Về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân

o

2.5 Về nông dân

o

2.6 Về công nhân

o

2.7 Về quân sự

o

2.8 Về dân chủ

o

2.9 Về vấn đề giai cấp

o

2.10 Về văn hóa


3 Nhận định
o

3.1 Tại Việt Nam

o

3.2 Từ bên ngoài



4 Trích dẫn



5 Xem thêm



6 Nguồn tham khảo



7 Liên kết ngoài

Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hoàn cảnh ra đời
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính

sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, không mở ra cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và
bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Không phát huy được những thế mạnh
của truyền thống dân tộc và đất nước, không chống lại được âm mưu xâm lược
của thực dân Pháp. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858 và đến
năm 1883, triều đình Huế ký kết Hiệp ước Harmand với đế quốc Pháp, thừa
nhận quyền bảo hộ của họ trên khắp An Nam. [8] Từ sau Hiệp ước Patenôtre năm
1884, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Trong suốt quá trình thực dân Pháp cai trị, từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống thực dân Pháp. Các cuộc khởi
nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu "Cần vương" do các văn thân, sĩ phu lãnh đạo
4


cuối cùng cũng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang này mang đậm tinh thần
yêu nước và dũng khí trước quân thù, nhưng đều dưới sự dẫn dắt của các tư
tưởng phong kiến và tư sản, là các trào lưu tư tưởng đã lỗi thời, lạc hậu trong sự
phát triển của thế giới đương đại và không đáp ứng được yêu cầu của xã hội
Việt Nam, nên không tránh khỏi thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào cuộc
khủng khoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.[9]
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho xã hội
Việt Nam có sự phân hóa giai cấp-xã hội sâu sắc. Tạo tiền đề bên trong cho
phong trào đấu tranh giải phóng đân tộc đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam tồn tại
nhiều mâu thuẫn. Có thể kể ra các mâu thuẫn chính sau:[10][11]


Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp.



Mâu thuẫn giữa người dân lao động và triều đình phong kiến.




Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp tư sản.

Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan
rộng ra cả nước nhưng đều thất bại (chủ trương cầu viện, dùng vũ trang khôi
phục độc lập của Phan Bội Châu; chủ trương "ỷ Pháp cầu tiến bộ" bằng cách
chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh, trên cơ sở đó mà dần dần tính chuyện
giải phóng của Phan Châu Trinh; khởi nghĩa nặng cốt cách phong kiến của
Hoàng Hoa Thám; khởi nghĩa theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản
của Nguyễn Thái Học).
Sự thất bại của phong trào chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
vừa chứng tỏ sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến, sự yếu ớt và bất lực của hệ
tư tưởng tư sản, vừa từng bước chuẩn bị tiền đề cho một phương hướng mới của
sự nghiệp giải phóng dân tộc.[12][13] Theo Tạp chí Cộng sản, những điều này cho
thấy, phong trào cứu nước của nhân dân Việt Nam muốn đi đến thắng lợi, phải
đi theo con đường mới, đó là con đường cách mạng vô sản.[14]
Thế giới
Thế giới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cũng đang có
những biến chuyển to lớn:
5




Chủ nghĩa Tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đã chuyển sang giai đoạn
độc quyền, xác lập quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa
Đế quốc với bản chất của mình đã trở thành kẻ thù chung của tất cả các
dân tộc thuộc địa.[15]




Thực tế lịch sử: trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực
dân, tại các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh,
sự bóc lột phong kiến trước kia vẫn được duy trì và bao trùm lên nó là sự
bóc lột tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất
hiện thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có công nhân và tư
sản.[16]



Chiến tranh Thế giới I bùng nổ.[15]



Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng
thế giới với đỉnh cao là Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (1917).
Cuộc cách mạng vĩ đại này đã làm "Thức tỉnh các dân tộc châu Á", Cuộc
cách mạng vô sản ở nước Nga thành công đã nêu một tấm gương sáng về
sự giải phóng các dân tộc bị áp bức, mở ra trước mắt họ thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc.[13]



Quốc tế III được thành lập (1919). Phong trào công nhân trong các nước
Tư bản Chủ nghĩa và phong trào giải phóng của các nước thuộc địa càng
có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
của họ là Chủ nghĩa Đế quốc.[15][17]


Nguồn gốc
Tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ:[4]
1.

Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam:
o

Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và
giữ nước;

o

Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái;

o

Truyền thống lạc quan, yêu đời;
6


o

2.

Cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo.

Tinh hoa văn hóa nhân loại:
o


Tư tưởng văn hóa phương Đông: Nho giáo, Phật giáo;

o

Tư tưởng và văn hóa phương Tây: thắng lợi của cuộc Đại cách
mạng Pháp 1789, Tuyên ngôn độc lập 1776 của Hoa Kỳ, tư tưởng
dân chủ phương Tây,...;

3.

Chủ nghĩa Mác-Lênin (nhân tố quyết định nhất): cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh;

4.

Nhân tố chủ quan: phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.

Ảnh hưởng của Nho giáo
Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu:
"Tôi xuất thân từ một gia đình nhà Nho, nơi mà các thanh niên đều theo học
đạo Khổng". Rồi tại Đại hội Quốc tế cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc lại
ghi trong lý lịch: "Thành phần gia đình nhà nho".
Hồ Chí Minh đã dùng những từ ngữ, những mệnh đề của Khổng Tử vốn rất thân
thuộc với truyền thống văn hoá Việt Nam để thức tỉnh dân tộc, truyền cho nhân
dân ý thức tự cường để đứng lên làm chủ đất nước, đồng thời kết nối những giá
trị chung trong học thuyết Nho giáo và học thuyết Marx. Trong bài Le Grand
Confucius (Đức Khổng Tử vĩ đại) đăng trên tạp chí Communise số ra ngày
15/05/1921, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu thuyết Đại đồng như sau: "Đức
Khổng Tử vĩ đại (năm 551 trước Công nguyên) khởi xướng nền đại đồng và
thuyết giáo quyền bình đẳng về của cải. Người nói tóm lại là: Nền hoà bình

trên thế giới chỉ nảy nở từ nền Đại đồng trong thiên hạ. Người ta không sợ
thiếu mà chỉ sợ không công bằng"
Trong thời kỳ chống Mỹ, ở miền Bắc buộc phải thực hiện chế độ phân phối thời
chiến, Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở cán bộ về tư tưởng Khổng Tử: "Không sợ
thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ đói chỉ sợ lòng dân không yên".
Tổng kết 30 năm tiếp thu các dòng tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đúc kết:

7


"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Marx có
ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm
là chính sách thích hợp với điều kiện của nước ta… Khổng Tử, Giêsu,
Karx Marx, Tôn Dật Tiên chẳng phải có những điểm chung đó sao? Họ
đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho xã
hội. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ ở một chỗ, tôi tin
rằng họ nhất định chung sống với nhau rất tốt đẹp như những người bạn
thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ."[18]
Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá
trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động
cách mạng phong phú của Hồ Chí Minh.[16] Có thể chia quá trình hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh thành 5 thời kỳ sau:[19]
1.

Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi (trước năm 1911): thời
kỳ này Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha
thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ham muốn
học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.[19]


2.

Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911-1920):
thời kỳ này Hồ Chí Minh tìm hiểu cuộc sống của những người lao động;
đã khảo sát, tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia
Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga, học tập và đã
tìm đến với chủ nghĩa Lênin, tham dự Đại hội Tua, đứng về phía Quốc tế
cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kỳ Hồ Chí
Minh đã có sự chuyển biến vượt bậc về tư tưởng; từ giác ngộ chủ nghĩa
dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ một chiến sĩ chống
thực dân phát triển thành một chiến sĩ cộng sản Việt Nam. Đây là một
bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh: "Muốn

8


cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản".[19][20]
3.

Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 1930): thời kỳ này Hồ Chí Minh đã có hoạt động thực tiễn và lý luận sôi
nổi, phong phú ở Pháp (1921-1923), ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung
Quốc (1924-1927), ở Thái Lan (1928-1929)... Trong thời gian này, tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản. Hồ
Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với tuyên
truyền tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu
tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Các tác phẩm và bài viết của Hồ Chí Minh thời kỳ này đã thể
hiện những quan điểm lớn và độc đáo, sáng tạo về con đường cách mạng

Việt Nam, có thể kể tên các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925), Đường Kách mệnh (1927) và những bài viết khác.[19]

4.

Thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc lập,
tự do và quyền dân tộc cơ bản (1930-1945): trên cơ sở tư tưởng về con
đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản, trong mấy năm đầu
của những năm 1930, Hồ Chí Minh đã kiên trì giữ vững quan điểm cách
mạng của mình, vượt qua khuynh hướng "tả" đang chi phối Quốc tế Cộng
sản, chi phối Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phát
triển thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng
độc lập, tự do, dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm
1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời.[19]

5.

Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc
(1945-1969): đây là thời kỳ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam vừa tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945
- 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
9


Thời kỳ này nổi bật là các nội dung như: Tư tưởng kết hợp kháng chiến
với kiến quốc; tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau,
đó là cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc nhằm một mục tiêu chung trước mắt là giải phóng miền

Nam, thống nhất Tổ quốc. Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Xây dựng quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Xây dựng Đảng
Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền v.v.[19]
Định nghĩa Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh được định nghĩa:


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và s

Định nghĩa trên là một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh, làm định hướng cho các nhà nghiên cứu tiếp tục
đi sâu tìm hiểu về tư tưởng của Hồ Chí Minh, đặc biệt là xác định nội dung giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
hành động cho toàn Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân tộc Việt Nam. [22] Tư
tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận trung tâm của chuyên ngành "Hồ Chí Minh học"
thuộc ngành Khoa học chính trị Việt Nam. Hồ Chí Minh đã xây dựng được hệ
thống lý luận toàn diện về cách mạng Việt Nam phù hợp với thực tiễn của đất
nước và dòng chảy thời đại. Hệ thống đó bao gồm một số nội dung cơ bản sau:
[22]



Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;



Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại;




Sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;



Quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân;



Quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;
10




Phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân;



Đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;



Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;




Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân...[22][23]

Nghiên cứu, giảng dạy và học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản
Hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra
năm 1991 tại Hà Nội đã xác định: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.[24]
Từ đây Tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa vào giảng dạy trong tất cả trường đại
học như một bộ môn bắt buộc đối với tất cả các sinh viên thuộc mọi ngành học.
Những lớp tập huấn - đồng thời thảo luận giữa các chuyên gia - chính thức cho
môn học này bắt đầu từ năm 1997 tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

11


Các nhà nghiên cứu trong nước và những đồng chí của Hồ Chí Minh đã viết
nhiều tác phẩm về Tư tưởng Hồ Chí Minh như Tìm hiểu một số vấn đề trong
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1982) do Lê Mậu Hãn chủ biên; Nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh (1993) của tập thể tác giả Viện Hồ Chí Minh; Thế
giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí sống mãi (1991), Về tư tưởng Hồ
Chí Minh (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh quá trình hình thành và phát
triển (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
(1997) của Võ Nguyên Giáp; Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí
Minh (1998) của Phạm Văn Đồng; Sự hình thành về căn bản tư tưởng Hồ
Chí Minh (1997) của Trần Văn Giàu; Từ tư duy truyền thống đến tư tưởng
Hồ Chí Minh (1998) của Hoàng Tùng.[25]

Ý nghĩa của việc nghiên cứu và học tập
Mục đích nghiên cứu học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm áp dụng vào con
đường xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.[26] Đối với thế hệ trẻ nói chung, với học sinh,
sinh viên trong các trường cao đẳng và đại học nói riêng, Đảng và Nhà nước
Việt Nam nhấn mạnh cần đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức cách mạng, đặc biệt là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao lý
luận, phương pháp tư duy biện chứng, góp phần đào tạo sinh viên thành những
chiến sĩ đi tiên phong trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam
đàng hoàng hơn và to đẹp hơn như Di chúc của Hồ Chí Minh để lại: "Đoàn viên
và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại
khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
"hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết".[26][27]
Chính sách ưu đãi của Nhà nước
Hiện nay bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tại các trường đại học đang thiếu giáo
viên nhưng ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh lại có số lượng thí sinh đăng ký dự
12


thi ít, tỷ lệ chọi và điểm chuẩn thấp so với các ngành còn lại. [28] Do đó Chính
phủ Việt Nam có Nghị định 74 miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập trong
các cơ sở giáo dục quốc dân cho một số đối tượng học sinh, sinh viên; trong đó
sinh viên chuyên ngành Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh được miễn học
phí.[29] Mặc dù có miễn giảm học phí, nhưng chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn không phải lựa chọn của nhiều sinh viên.[30]
Những nội dung cơ bản
Về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
Bài chi tiết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải

phóng dân tộc
Về vấn đề dân tộc
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. Các Mác, Ph.Ăngghen không đi sâu giải quyết
vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong
cách mạng tư sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề
dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh.[31]
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20), cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, [32] nhờ
đó V.I. Lênin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành
một hệ thống lý luận. Tuy cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu lên
những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược,
sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực
tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề
giai cấp. Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra yêu cầu cần vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các
nước thuộc địa; chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu đó.[31]
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Hồ
Chí Minh đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân
An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý
13


tưởng của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của
Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự
hội nghị.[33] Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc chịu ảnh hưởng của
lý luận Mác-Lênin, đặc biệt là lý luận của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa
Báo L’Humanité số ra hai ngày 16 và 17-7-1920 đăng toàn văn bản "Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của
V.I.Lênin dưới đầu đề chạy suốt trang một. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý

đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã đọc đi đọc lại nhiều lần và
"qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường
đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân".[13] Sau này Nguyễn Ái
Quốc nhớ lại: "Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng
cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!".
[34]

Từ đó Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo

Quốc tế thứ ba.[13]
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân
tộc, đồng thời Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa MácLênin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện ở các điểm chính sau:


Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Hồ Chí Minh viết trong Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa: "Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có
quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do".[35] Mục đích của việc dành độc lập dân tộc là đem lại hạnh
phúc, tự do cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng "Ngày nay
chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu
14


nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng

chẳng có ý nghĩa gì".[36]


Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất
nước. Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"[37]



Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế: "Các dân tộc ở đó (ở
phương Đông) không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được nếu không gắn
bó với giai cấp vô sản thế giới... Ngày mà hàng trăm triệu người châu Á
bị nô dịch và áp bức sẽ thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một
nhóm bọn thực dân tham tàn và chính họ sẽ hình thành được một lực
lượng đồ sộ vừa có thể thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, vừa giúp đỡ những người anh em
phương tây trong sự nghiệp giải phóng"[38]

Về cách mạng giải phóng dân tộc
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc
dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được
yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí
Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng ông không tán
thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu
nước mới.[39]

Sau khi tiếp cận lý luận của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu
nước, đó là con đường cách mạng vô sản. Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư
tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời,
Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và
15


lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Hồ Chí Minh quyết tâm đưa dân
tộc Việt Nam đi theo con đường đó.[39]
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc thể hiện ở các điểm
chính sau:


Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản. Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, bao hàm những nội dung chủ yếu sau:
o

Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi
tới xã hội cộng sản".

o

Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền
phong của nó là Đảng Cộng sản.

o

Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí

óc.

o

Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.[39]



Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công
trước hết phải có đảng cách mệnh. Ông phân tích: cách mệnh trước phải
làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu,
phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức
cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh.[40]



Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. Hồ
Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang.
Ông coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là
then chốt bảo đảm thắng lợi.



Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Các
nhà nghiên cứu trong nước đánh giá, đây là một luận điểm sáng tạo, có
16



giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ
Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được thắng
lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong
gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.[41]


Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực. Trong đó có hai vấn đề:
o

Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình
thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông
chủ trương, yêu nước, thương dân, yêu thương con người, yêu
chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình
để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến
tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo
lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để
giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do.[42]

o

Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng
dân tộc. Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử
dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Hồ Chí Minh nói,
muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự
lực cánh sinh. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ
Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao
nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ. Độc

lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế
là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông đã động viên
sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự
giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến
thắng lợi.[42]
17


Về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Bài chi tiết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đưa ra nhiều kiến
giải mới nhằm bổ sung vào lý luận Mác - Lênin. [43] Tuy nhiên do hoàn cảnh
kinh tế - chính trị - xã hội kém phát triển, lạc hậu của Việt Nam trong thời kỳ
nửa thuộc địa nửa phong kiến và sau khi giành độc lập. Nên trong nhiều bài
viết, bài phát biểu, diễn giải của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hết sức đơn
giản cho phù hợp với trình độ dân trí, nhận thức của đại đa số quần chúng và
cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó.
Trước hết, Hồ Chí Minh luận giải sự ra đời và bản chất của chủ nghĩa xã hội từ
phương diện kinh tế, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hồ Chí Minh
cho rằng, sự hình thành, phát triển và chín muồi của chủ nghĩa xã hội là một tất
yếu mà nguyên nhân sâu xa chính là do sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội. Trên cơ sở một nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ
thống, các giá trị đặc thù mang tính nhân bản thấm sâu vào mỗi quan hệ và lĩnh
vực xã hội. Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giá trị thể hiện rất rõ trong
nhận thức của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.[43]

Các nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đánh giá nét sáng tạo của Hồ Chí
Minh trước hết là ở chỗ, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội, luận giải nó từ
khát vọng giải phóng dân tộc và nhu cầu giải phóng con người một cách triệt
để.[43]

18


Tuyên truyền cho cuộc vận động "Học theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
Hồ Chí Minh luận giải tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở
kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, của
phương Đông. Từ việc phân tích một cách khoa học truyền thống tư tưởng - văn
hóa, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, các nước phương Đông, sự tàn bạo
của chế độ thuộc địa tại các nước đó, Hồ Chí Minh đi đến một nhận thức mới lạ:
Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không những thích ứng được ở châu Á,
phương Đông mà còn thích ứng dễ hơn ở châu Âu.[43]
Hồ Chí Minh đã nhận thức tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội như là
kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và hiện tại; dân tộc và
quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa. Ông không tuyệt đối hóa một mặt
nào và đánh giá đúng vị trí của chúng. Như vậy, Hồ Chí Minh đã làm phong
phú cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, có những cống hiến xuất sắc vào việc
phát triển lý luận Mác - Lênin.[43]
Hầu hết các cách tiếp cận, định nghĩa của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
được diễn đạt, trình bày một cách dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và mang tính phổ
thông, đại chúng. Xét dưới góc độ khái quát nguyên lý thì Hồ Chí Minh về cơ
bản không khác với các nhà kinh điển Mác - Lênin. Điểm đặc sắc ở Hồ Chí
Minh là phát triển các nguyên lý lý luận phức tạp, khoa học bằng ngôn ngữ của
cuộc sống hàng ngày. Một số định nghĩa cơ bản mà Hồ Chí Minh đã đề cập về
chủ nghĩa xã hội:[44]


19


- Định nghĩa tổng quát, xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như là
một chế độ xã hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là
con đường giải phóng nhân loại cần lao, áp bức.
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó (kinh tế,
chính trị, văn hóa...).
- Định nghĩa bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chỉ rõ phương
hướng, phương tiện để đạt được mục tiêu đó.
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định động lực xây dựng nó: "Chủ
nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và
do nhân dân tự xây dựng lấy".[44]


Từ những định nghĩa của Hồ Chí Minh đã phản ánh đầy đủ những đặc
trưng cốt lõi của chủ nghĩa xã hôi. Khái quát những đặc trưng này, chúng
ta thấy nội dung của nó bao hàm hết thảy mọi mặt đời sống xã hội, làm
hiện diện ra một chế độ xã hội ưu việt. Đó là:[44]
o

Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát
triển cao, gắn liền với sự phát triển tiến bộ của khoa học - kỹ thuật
và văn hóa, dân giàu, nước mạnh.

o

Thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động.


o

Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là
chủ và nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và
vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên
minh công - nông - lao động trí óc, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

o

Chủ nghĩa xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công
bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự
đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và
nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn
diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.

20


o

Chủ nghĩa xã hội là của quần chúng nhân dân và do quần chúng
nhân dân tự xây dựng lấy.[44]



Như vậy ta có thể thấy khái niệm chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí
Minh mang nhiều ý nghĩa khác nhau, chủ yếu tập trung vào các nội dung
sau:
o


Chủ nghĩa xã hội như là một phong trào lịch sử mang tính chính trị
xã hội.

o

Chủ nghĩa xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, ở đây, Hồ
Chí Minh hiểu chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa MácLênin.

o

Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.

o

Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội đối
lập với chế độ tư bản mà hình thức xấu xa, tàn bạo nhất của nó là
chủ nghĩa thực dân, cả chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực
dân mới.[45]



Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và d



Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức số




Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày c

Về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của
nó trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin,
thì có hai con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là
con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản phát triển

21


ở trình độ cao. Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở
những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp hoặc các nước tiền tư bản.[47]
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình
thực tế của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt
Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.[47] Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình
thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây chính là sự phát triển sáng tạo
luận điểm của Lênin về hai giai đoạn cách mạng- cách mạng dân tộc dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa.[48] Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã
cụ thể hóa và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.[47]
Ta có thể rút gọn lại nội dung về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam của Hồ Chí Minh được thể hiện qua các điểm chính sau:



Phải thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc trước, sau đó mới từng bước
xây dựng chủ nghĩa xã hội.[47]



Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đi lên bằng con
đường gián tiếp.[47]

Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam
có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã
hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi
phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và
làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến
mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển
cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp
kém của Việt Nam.[47] Chính vì thế thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là một
cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài. [49][50] Trong cuộc đấu
22


tranh này, toàn xã hội phải nỗ lực dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đồng thời phải học tập kinh nghiệm xây dựng Chủ nghĩa xã hội và tận
dụng mọi sự giúp đỡ của những nước xã hội chủ nghĩa tiên tiến như Liên Xô và
các nước Đông Âu.[51]
Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại. Do những
đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một
quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:[47][52]


Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây
dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã
hội.[47][52]



Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây
dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất,
chủ chốt, lâu dài.[47][52]

Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Hồ Chí Minh lý
giải trên các điểm sau:[47]


Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời
sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng
loạt mâu thuẫn khác nhau.



Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là
công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và
có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó
khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.


23




Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các
thế lực phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.[47]

Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong thời kỳ quá độ.


Chính trị: giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Củng cố và
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân,
nông dân và trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường
sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.[53]



Kinh tế: nhấn mạnh việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng
đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối giữa các ngành sản xuất
xã hội. Phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất
cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Năm
1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh chỉ ra 6
thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do), để xây dựng và phát triển nền
kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra chính sách
kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt: Một là, công tư
đều lợi; Hai là, chủ thợ đều lợi; Ba là, công nông giúp nhau; Bốn là Lưu

thông trong ngoài. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức
lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển
nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm
cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản
dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ, nên Chính phủ
cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế
quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân, [54] đến năm 1959
ông chủ trương vẫn cho phép những nhà tư sản công thương sở hữu tư
liệu sản xuất, tiến dần đến việc xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội
chủ nghĩa bằng cách khuyến khích những người làm nghề thủ công và lao
động riêng lẻ tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện, khuyến khích
24


và giúp đỡ những nhà tư sản công thương cải tạo theo chủ nghĩa xã hội
bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác. [55]
Như vậy ta có thể thấy Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội tại Việt Nam.[56][57][58]


Trong nước ta hiện nay, có những hình t

- Sở hữu của Nhà nước, tức là sở h
- Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở

- Sở hữu của người lao động riêng

- Một số ít tư liệu sản xuất thuộc s


—Hồ Chí Minh, Báo cáo về dự thảo sửa đổi Hiến pháp của ông tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội n


Mục đích của chế độ ta là xoá bỏ các hình thức sở hữu không xã

—Hồ Chí Minh. Tài liệu đã dẫn[55]


Chúng ta phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo n

—Hồ Chí Minh. Tài liệu đã dẫn[55]
Đối với những người lao động cá thể và các nhà tư bản, cũng tại báo cáo
nói trên, Hồ Chí Minh viết:


- Đối với những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ kh

- Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ
—Hồ Chí Minh. Báo cáo sửa đổi Hiến pháp 1959.Hồ Chí Minh. Tài liệu đã dẫn[59]
[53]
• Văn hóa - xã hội: nhấn mạnh vấn đề xây dựng con người mới.
Về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Bài chi tiết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ những cơ sở
quan trọng sau đây:

25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×