Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.85 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÚY ANH

PHÁP LUẬT VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÚY ANH

PHÁP LUẬT VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ THỊ THU THUỶ

HÀ NỘI – 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thúy Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1 ........................................................................................................ 6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI
BỘ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............................................................... 6
1.1. Khái niệm quản trị nội bộ ngân hàng thương mại và tái cơ cấu quản trị
nội bộ của ngân hàng thương mại ................................................................. 6
1.1.1.Khái niệm ngân hàng thương mại ........................................................ 6

1.1.1.1.Định nghĩa ngân hàng thương mại .................................................... 6
1.1.1.2.Đặc điểm của ngân hàng thương mại ................................................ 8
Từ các khái niệm nêu trên, có thể thấy NHTM có những đặc điểm chính
như sau: .......................................................................................................... 8
1.1.2.Khái niệm quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại...................... 10
1.1.3.Khái niệm tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại..... 13
1.2.Mục đích và vai trò của tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương
mại ................................................................................................................. 15
1.2.1.Mục đích của tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại ...... 15
1.2.2.Vai trò và lợi ích của việc tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương
mại ................................................................................................................. 20
1.3.Nội dung của tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại .......... 21
1.3.1.Tái cơ cấu Bộ máy quản lý của ngân hàng thương mại .................... 22
1.3.2.Tái cơ cấu bộ máy điều hành ngân hàng thương mại........................ 30
Chương 2 ...................................................................................................... 38
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ CỦA
NHTM Ở VIỆT NAM .................................................................................. 38


2.1. ... Thực trạng pháp luật về tái cơ cấu bộ máy quản lý ngân hàng thương
mại ở Việt Nam............................................................................................. 38
2.1.3.Hội đồng thành viên ............................................................................ 54
2.1.4.Ban kiểm soát....................................................................................... 56
2.2.Thực trạng pháp luật về tái cơ cấu bộ máy điều hành ngân hàng thương
mại ................................................................................................................. 58
2.2.1.Tổng giám đốc ..................................................................................... 58
2.2.2.Kiểm toán và kiểm soát nội bộ ............................................................ 64
2.3.Ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tái cơ cấu quản
trị nội bộ ngân hàng thương mại ................................................................. 68
2.3.1.Pháp luật quản trị nội bộ ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn thiếu

....................................................................................................................... 73
2.3.2.Những quy định về quản trị nội bộ ngân hàng thương mại nằm rải rác
ở các văn bản khác nhau. ............................................................................. 75
2.3.3. ... Các văn bản pháp luật trong hệ thống văn bản quy định về quản trị
nội bộ ngân hàng thương mại không thống nhất........................................ 76
2.3.4. . Pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Nam chưa thống
nhất với các chuẩn mực quản trị quốc tế. ................................................... 76
CHƯƠNG 3 .................................................................................................. 79
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ
NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM .................. 79
3.1Phương hướng hoàn thiện pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân
hàng thương mại ở Việt Nam ...................................................................... 79
3.1.1.Phù hợp đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng ở Việt Nam ....................................................................... 80
3.1.2.Bảo đảm tính thống nhất và phù hợp giữa pháp luật về tái cơ cấu
quản trị nội bộ ngân hàng thương mại và pháp luật ngân hàng nói chung82
3.1.3.Đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và
khắc phục các hạn chế của pháp luật về tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở
Việt Nam hiện nay ........................................................................................ 83


3.2 Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái cơ cấu các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam ............................................................. 86
3.2.1.Các giải pháp về tái cơ cấu bộ máy quản lý của ngân hàng thương mại
....................................................................................................................... 86
3.2.2.Các giải pháp tái cơ cấu bộ máy điều hành của ngân hàng thương mại
....................................................................................................................... 93
3.2.3. Những giải pháp hoàn thiện việc tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng
thương mại từ phía ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại . 99
KẾT LUẬN ................................................................................................. 105

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 107


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắt

Tên/ cụm từ đầy đủ

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTMNN

Ngân hàng thương mại nhà nước

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần

TCTD

Tổ chức tín dụng

ĐHĐCĐ


Đại hội đồng cổ đông

HĐQT

Hội đồng quản trị

BKS

Ban Kiểm soát


MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trải qua hơn 20 năm đổi mới, ngành ngân hàng Việt Nam đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ của mình, luôn giữ vai trò quan trọng là huyết mạch của nền
kinh tế và là nhân tố không thể thiếu để tập trung nguồn lực vốn cho phát triển
đất nước. Những thành tựu kinh tế xã hội rực rỡ mà Việt Nam đạt được trong
công cuộc đổi mới đã khẳng định được vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế, trong đó có sự đóng góp rất lớn của ngành ngân hàng. Do đó nếu thực
sự không tạo điều kiện đảm bảo mọi yếu tố “an toàn” của ngành ngân hàng thì
rất dễ gây tổn thương cho nền kinh tế.
Việc mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính là xu thế tất yếu trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO đã mang lại rất
nhiều cơ hội cũng như thách thức cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các ngân
hàng ở Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn từ các ngân hàng
nước ngoài đến từ các khu vực tài chính phát triển như Mỹ, Singapore, Nhật
Bản,... và chịu tác động của những biến động trên thị trường tài chính quốc tế.
Cùng với đó cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu kéo dài từ

năm 2008 và đến nay vẫn còn để lại hậu quả nặng nề ở nhiều nước, đặc biệt là ở
Mỹ mà nguyên nhân chính là sự yếu kém của hệ thống ngành ngân hàng. Điều
đó buộc các quốc gia phải quan tâm, đánh giá lại toàn bộ hoạt động của các ngân
hàng. Và việc tái cấu trúc hệ thống các ngân hàng, trong đó chú trọng việc tái cơ
cấu Ngân hàng thương mại (NHTM) đã trở nên phổ biến và cấp thiết ở mỗi quốc
gia để đảm bảo cho các NHTM thích nghi được với nhu cầu phát triển mới trong
bối cảnh nền kinh tế thế giới đầy biến động. Ở Việt Nam hiện nay, khi thị trường
chứng khoán phát triển chưa ổn định, gánh nặng về vốn còn dồn lên vai các
NHTM thì việc giữ cho hệ thống NHTM ổn định và lành mạnh càng cần phải
đặc biệt quan tâm.
1


Đến nay, có thể nói nền kinh tế cũng như hệ thống NHTM Việt Nam đã
cơ bản vượt qua cơn khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, những hệ lụy của nó đã
bộc lộ nhiều vấn đề bất ổn, có thể kể đến như: Thanh khoản khó khăn, nợ xấu có
dấu hiệu tăng cao, năng lực quản trị điều hành hạn chế, sản phẩm dịch vụ nghèo
nàn, lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, rủi ro cao ảnh hưởng đến an toàn
hệ thống, ... Bên cạnh đó, vấn đề sở hữu chéo; hệ thống mạng lưới các NHTM
phát triển với tốc độ quá nhanh, số lượng nhiều, chất lượng hoạt động chưa cao,
không ít NHTM hoạt động vì lợi ích cục bộ, chạy đua lãi suất gây ảnh hưởng
lớn đến hệ thống ngân hàng và thị trường tiền tệ. Do đó, nếu không có biện pháp
can thiệp kịp thời sẽ có nguy cơ xảy ra rủi ro gây mất an toàn hệ thống.
Để ổn định và phát triển nền kinh tế hiệu quả, bền vững, Hội nghị trung
ương khóa 11 (tháng 10 năm 2011) đã nhấn mạnh sự cần thiết tái cấu trúc nền
kinh tế, trong đó tái cơ cấu hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính là một
trong ba lĩnh vực chủ đạo, quan trọng nhất. Đây là chủ trương lớn thể hiện quyết
tâm của Đảng nhằm cải tổ nền kinh tế cùng với đẩy lùi tác động, ảnh hưởng tiêu
cực của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của tái cơ cấu hệ thống NHTM,

đặc biệt là bộ máy quản trị nội bộ NHTM và với mong muốn đề ra các giải pháp
hữu ích nhằm đóng góp cho quá trình tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM Việt
Nam thành công, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ
ngân hàng thương mại Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.
1.2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Luận văn của tác giả hướng tới mục tiêu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM.
- Phân tích thực trạng pháp luật về tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam
nhằm chỉ ra những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về quản trị nội bộ
NHTM Việt Nam trong thời gian hiện nay. Đồng thời xác định nguyên nhân của
những hạn chế trong vấn đề quản trị bộ NHTM Việt Nam.
- Đề xuất hệ thống giải pháp, kiến nghị góp phần thúc đẩy tiến trình hoàn
2


thiện pháp luật liên quan đến tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM Việt Nam trong
tương lai.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Xung quanh vấn đề “Pháp luật về tái cấu trúc quản trị nội bộ ngân hàng
thương mại ở Việt Nam” đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học từ cấp
Bộ, cấp truờng, đến các bài nghiên cứu khoa học điển hình như:
- Cao Thị Ý Nhi: “ Cơ cấu lại các ngân hàng thương mại Nhà nước Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ kinh tế năm 2007 tại trường Đại
học Kinh tế Quốc dân. Luận án đã đánh giá thực trạng và tìm ra những nguyên
nhân dẫn đến việc cơ cấu lại các NHTM Nhà nước kém hiệu quả trong giai đoạn
2000 - 2005, từ đó xây dựng các định hướng và đề xuất các giải pháp hữu hiệu
nhằm cơ cấu lại NHTM Nhà nước Việt Nam đến năm 2010. Luận án được giới
hạn trong việc cơ cấu lại bốn NHTM Nhà nước trong giai đoạn 2000 - 2005.
Phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở 4 NHTM Nhà nước nên chưa phản ánh được
thực trạng tái cấu trúc một cách toàn diện hệ thống NHTM Việt Nam, cũng

chính vì vậy các giải pháp đề xuất tính ứng dụng còn giới hạn.
- Nguyễn Thị Quỳnh Hoa: “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam”, Luận án tiến sỹ năm 2014 tại trường Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí
Minh. Luận án được đánh giá cao bởi các nội dung: (i) Luận án đã xác định
được đặc trưng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại là chương trình
mang tầm cỡ quốc gia và chỉ rõ những việc cần thực hiện trong quá trình tái cấu
trúc hệ thống NHTM; (ii) Luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng tái cấu
trúc hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2012, từ đó tổng hợp
những thành tựu, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá
trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam; (iii) Luận án đã phân tích rõ những
lý do cho thấy sự cấp thiết cần tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam, đề xuất lộ
trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam; (iv) Luận án đã đề xuất thành lâp
ủy ban tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam và những công việc cụ thể ủy ban
này cần thực hiện, gồm có: Xây dựng bộ tiêu chuẩn xếp loại NHTM sau khi tái
3


cơ cấu làm cơ sở để xác định mục đích mà cả cơ quan quản lý Nhà nước và từng
NHTM cần đạt được. Tuy nhiên, luận án còn mang tính bao quát chưa có nhiều
phân tích cụ thể xoáy sâu vào các lĩnh vực tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM.
- Tác giả Nguyễn Hồng Sơn, bài viết “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng:
kinh nghiệm quốc tế và một số hàm ý về tư duy cho Việt Nam” tại Hội thảo
quốc tế “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng” ngày 21 tháng 11 năm 2011, trình
bày các vấn đề sau: (i) Lý do tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là hệ thống ngân
hàng rơi vào khủng hoảng hoặc một ngân hàng lớn bị rơi vào khủng hoảng; (ii)
vì sao cần thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng; (iii) Những nguyên tắc cần
đảm bảo trong quá trình tái cấu trúc; (iv) NHTW độc lập và tăng cường năng
lực. Như vậy bài viết trên chỉ trình bày được lý do tái cấu trúc ngân hàng chủ
yếu là do khủng hoảng kinh tế, mà chưa coi tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là
công việc cần thực hiện thường xuyên, liên tục để duy trì sự ô định và phát triển.

Bài viết cũng chưa đánh giá được thực trạng tái cơ cấu hệ thống NHTM và cũng
chưa đề cập đến giải pháp tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam.
Nhìn chung, trong tất cả các nghiên cứu mà tác giả có điều kiện tham
khảo về các nội dung liên quan đến tái cơ cấu NHTM Việt Nam, cho tới thời
điểm hiện nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về vấn đề
pháp luật tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, trong
luận văn này, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận về NHTM và tái cơ cấu quản
trị nội bộ NHTM; ý nghĩa của việc tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM, nội dung
tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM; các biện pháp tái cơ cấu quản trị nội bộ
NHTM. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM Việt
Nam từ số liệu thu thập được, tác giả đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ, mang
tính thực tiễn nhằm đóng góp cho quá trình tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM
Việt Nam thành công.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tái cơ cấu ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề:
4


Tái cơ cấu bộ máy quản lý ngân hàng thương mại bao gồm: Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát; tái cơ cấu bộ máy
điều hành ngân hàng thương mại bao gồm: Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm
soát, Kiểm toán nội bộ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với một số
phương pháp như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp
so sánh và phương pháp tổng hợp.
4. Cơ cấu của luận văn

Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các bảng
phụ lục, luận văn gồm ba phần chính như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tái cơ cấu quản trị nội bộ
NHTM
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM ở
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ
NHTM ở Việt Nam.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI
BỘ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái niệm quản trị nội bộ ngân hàng thương mại và tái cơ cấu

quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
1.1.1.1.

Định nghĩa ngân hàng thương mại

Khi nền sản xuất hàng hóa xuất hiện thì tiền tệ và nghề kinh doanh tiền tệ
cũng ra đời. Bản thân sự phát triển của nghề kinh doanh tiền tệ cũng tạo tiền đề
và đòi hỏi phải xuất hiện ngân hàng, tức là đòi hỏi phải có một hình thức tổ chức
và bộ máy thích hợp đảm nhiệm lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Như vậy, sự ra đời
của hình thức kinh doanh tiền tệ dưới dạng “ngân hàng” là sự đòi hỏi tất yếu

khách quan của kinh tế - xã hội.
Ở nhiều quốc gia trên thế giới có rất nhiều dạng ngân hàng khác nhau
như: Ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,…Nhưng sự ra đời của mô hình
NHTM đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong các định chế tài chính của mỗi
quốc gia cũng như đối với nền kinh tế của quốc gia đó. Và NHTM đã hình
thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế
hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn đến quá trình
phát triển của nền kinh tế hàng hoá, và ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển
mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày
càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được. Thông qua hoạt động tín dụng thì NHTM tạo lợi ích cho người gửi tiền,
người vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch lãi suất mà thu được
lợi nhuận cho ngân hàng.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM. Ở Mỹ,
NHTM được hiểu là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.[33]
Còn tại Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa:
6


"Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà
nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình
thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó
cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính".
Hay ở Ấn Độ, NHTM được coi là các cơ sở nhận các khoản ký thác để
cho vay hay tài trợ đầu tư. Còn ở Việt Nam, Luật các TCTD năm 2010 và Nghị
định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16-7-2009 của Chính phủ quy định về Tổ chức và
hoạt động của NHTM đã đưa ra khái niệm về ngân hàng và NHTM khá thống
nhất với pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Theo Khoản 1, Điều 6 “Giải thích từ ngữ”, Luật NHNN năm 2010 ghi

nhận: “1.Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một
hoặc một số nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng
dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
Và tại Khoản 2,3, Điều 4 “Giải thích từ ngữ”, Luật các TCTD năm 2010
thì quy định:
“2. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực
hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo
tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm
ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
3. Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện
tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.”
Còn tại Khoản 1, Điều 5 “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 59/2009/NĐCP ngày 16-7-2009 của Chính phủ quy định về Tổ chức và hoạt động của
NHTM cũng ghi nhận cụ thể: “1. Ngân hàng thương mại là ngân hàng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và
các quy định khác của pháp luật.”
Theo các quy định trên, có thể hiểu NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với
7


trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán với mục tiêu lợi nhuận, góp phần vào thực
hiện mục tiêu kinh tế của Nhà nước [22]. Và NHTM gồm có NHTM Nhà nước,
NHTM cổ phần nhà nước và nhân dân, NHTM có 100% vốn nước ngoài và
NHTM liên doanh.
1.1.1.2.

Đặc điểm của ngân hàng thương mại


Từ các khái niệm nêu trên, có thể thấy NHTM có những đặc điểm chính
như sau:
- NHTM là trung gian tài chính:
Thứ nhất, đặc điểm về trung gian tài chính được thể hiện ở chỗ NHTM là
trung gian giữa cung và cầu về vốn tín dụng, hay còn được hiểu là trung gian
giữa người gửi tiền và người vay tiền thông qua hoạt động thường xuyên, chủ
yếu là nhận tiền gửi và có trách nhiệm hoàn trả, sử dụng tiền gửi này để cấp tín
dụng. Với chức năng là trung gian tín dụng, NHTM vừa đóng vai trò là người đi
vay, vừa đóng vai trò là người cho vay, hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch
giữa lãi suất nhận tiền gửi, lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các
bên tham gia: Người gửi tiền và người đi vay... Và cho vay luôn là hoạt động
quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho
NHTM.
Thứ hai, NHTM là trung gian giữa Ngân hàng trung ương và nền kinh tế.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng trung ương ở các
quốc gia là thực hiện chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương sử dụng các công
cụ như tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, lãi suất,…để thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia và bắt buộc NHTM phải chấp hành. Sự hạn chế về nguồn vốn buộc các
NHTM phải thận trọng hơn trong việc đầu tư, hướng nguồn vốn vào các lĩnh
vực có hiệu quả. Điều này vừa có tác động kiềm chế lạm phát, vừa bảo đảm an
toàn cho các NHTM [49].
- NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng.
NHTM cũng giống như các doanh nghiệp khác ở chu trình sản xuất và
8


lưu thông hàng hóa. Nhưng điểm khác biệt ở chỗ hàng hóa mà NHTM kinh
doanh là quyền sử dụng các khoản tiền tệ và các dịch vụ Ngân hàng khác.
NHTM đi vay từ những người có vốn nhàn rỗi, phải đảm bảo hoàn trả đúng hạn

toàn bộ số vốn huy động được này với một khoản lợi tức nhất định. NHTM lại
dùng chính số vốn huy động được này để cấp tín dụng cho người có nhu cầu với
cam kết trả tiền và lãi suất. Quá trình đi vay để cho vay này thực chất là tạm thời
chuyển nhượng quyền sở hữu. Lãi suất mà người đi vay trả cho NHTM cũng
chính là giá cả quyền sở hữu các khoản tiền tệ và cũng là lợi nhuận mà các
NHTM hướng tới.
Đồng thời với đặc điểm kinh doanh tiền tệ thì đối với vai trò là doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ ngân hàng, NHTM đóng vai trò như là thủ quỹ cho
các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản
thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương
tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ
thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình
phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ
tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần
hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản
thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời
gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy
lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó
góp phần phát triển kinh tế.
- NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
Đây là đặc điểm rõ nét nhất để phân biệt NHTM với các ngân hàng khác
như ngân hàng chính sách và ngân hàng đầu tư. Và mục tiêu lợi nhuận với chức
năng tạo tiền được coi là yếu tố quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM.
Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và
9


phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của

mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Mục tiêu lợi nhuận và chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở là
trung gian thanh toán và dịch vụ ngân hàng. Thông qua đặc điểm trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra
lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số
dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ
phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch
vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh
toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. NHTM
tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng
đối với NHTM. Do vậy, ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng
cung tiền vào nền kinh tế lớn. Tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, các hoạt
động tín dụng chính sách của các NHTM nhà nước đang chuyển dần sang các
ngân hàng chính sách, nhờ đó những ngân hàng này đã nâng cao được lợi nhuận
và hiệu quả hoạt động kinh doanh và đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân
hàng Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại
Quản trị nội bộ NHTM cũng giống như quản trị nội bộ của một doanh
nghiệp và một công ty. Tuy nhiên, bên cạnh đó quản trị nội bộ NHTM có những
đặc biệt hơn so với quản trị nội bộ của doanh nghiệp.
Hiện nay, quan niệm và nội dung của quản trị công ty ở các quốc gia
khác nhau có những nét đặc trưng riêng. Điều này xuất phát từ nguồn gốc thể
chế luật pháp, đặc tính quốc gia, văn hóa và trình độ phát triển của thị trường
tài chính tại mỗi nước… từ đó ảnh hưởng đến quyền của cổ đông, quyền của
chủ nợ, và thực thi quyền tư hữu.
Cuốn “Các nguyên tắc quản trị công ty” xuất bản năm 2004 của Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm quản trị công ty
như sau:
10
i



“Quản trị công ty là một loạt mối quan hệ giữa Ban Giám
đốc (BGĐ), Hội đồng quản trị (HĐQT), các cổ đông và các bên có liên
quan khác trong một doanh nghiệp. Quản trị công ty còn là một cơ
chế để thông qua đó xác định các mục tiêu của doanh nghiệp,
phương tiện để đạt được các mục tiêu đó và theo dõi kết quả thực hiện”.
Quản trị công ty và quản lý công ty là hai khái niệm khác biệt. Nếu như
quản trị công ty tập trung vào các cơ cấu và các quy trình của công ty nhằm
đảm bảo sự công bằng, minh bạch, tính trách nhiệm và giải trình thì quản lý
công ty tập trung vào các công cụ cần thiết để điều hành doanh nghiệp [51].
Như vậy, quản trị công ty được đặt ở một tầm cao hơn nhằm bảo đảm rằng
công ty sẽ được quản lý một cách hiệu quả và phục vụ lợi ích của các cổ đông.
Một cấu trúc quản trị doanh nghiệp hoàn chỉnh và hiệu quả là cấu trúc
quản trị bao gồm đầy đủ các cấu phần: Chủ sở hữu, HĐQT, các Ủy ban giúp
việc cho HĐQT, Ban điều hành cấp cao, cấp trung và các nhân viên tác nghiệp
trực tiếp. Bên cạnh đó, một cấu trúc quản trị doanh nghiệp còn đòi hỏi phải chứa
đựng những yếu tố vô hình như sự bảo vệ quyền và lợi ích của các cổ đông, của
người gửi tiền đó là tính minh bạch trong việc cung cấp các thông tin, báo cáo;
tính tuân thủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế; văn hóa tổ chức lành
mạnh và những chuẩn mực đạo đức [40].
Sơ đồ 1: Cấu trúc quản trị doanh nghiệp hiện đại

Nguồn: The Essential Handbook of Internal Auditing
11


Bên cạnh các cấu phần đầy đủ và hoàn thiện như trên, cơ cấu quản trị
doanh nghiệp hiệu quả cần phải đảm bảo xây dựng được bốn giá trị cốt lõi [33]:
Tính công bằng: Khuôn khổ quản trị doanh nghiệp phải bảo vệ quyền lợi

của các cổ đông và đảm bảo đối xử công bằng với tất cả các cổ đông kể cả cổ
đông thiểu số và các cổ đông nước ngoài. Tất cả các cổ đông phải có cơ hội
được bồi thường thỏa đáng khi quền của họ bị vi phạm. Tất cả các cổ đông cùng
một hạng cần phải được đối xử công bằng.
Tính trách nhiệm: Khuôn khổ quản trị doanh nghiệp cần công nhận quyền
của các bên liên quan được thành lập theo pháp luật, và khuyến khích các hoạt
động hợp tác giữa các chi nhánh/công ty con trong tổng công ty và giữa các cổ
đông trong việc tạo ra tài sản, việc làm tính bền vững của các bộ phận/chi nhánh
trong tổng công ty/tập đoàn.
Tính minh bạch: Khuôn khổ quản trị doanh nghiệp cần đảm bảo việc công
khai kịp thời và minh bạch các thông tin liên quan đến (i) kết quả hoạt động và
tài chính của công ty trên báo cáo tài chính, (ii) các mục tiêu hoạt động của công
ty, (iii) sở hữu của các cổ đông chính, (iv) chính sách lương, thưởng cho HĐQT
và các nhà điều hành chủ chốt, (v) giao dịch với các bên liên quan, (vi) các yếu
tố có thể dẫn tới rủi ro, (vii) các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của người lao
động, (viii) các chính sách và cơ cấu quản trị.
Trách nhiệm giải trình của HĐQT: Khuôn khổ quản trị doanh nghiệp cần
thiết lập cơ chế trách nhiệm của HĐQT trước cổ đông và công ty. Khi được lập
ra nhằm đại diện cho cổ đông thì hai nghĩa vụ cơ bản của HĐQT là nghĩa vụ cẩn
trọng và nghĩa vụ trung thành cần phải được tuân thủ [40].
Thông qua khái niệm trên về quản trị công ty, có thể hiểu quản trị nội bộ
của NHTM như sau:
“Quản trị nội bộ NHTM là một loạt các mối quan hệ giữa Ban
Giám đốc (BGĐ), Hội đồng quản trị (HĐQT), Hội đồng thành viên,
các cổ đông, thành viên và các bên có liên quan khác trong một ngân
hàng. Quản trị ngân hàng còn là một cơ chế, quy trình, công cụ để
12


thông qua đó xác định các mục tiêu của ngân hàng, phương tiện để

đạt được các mục tiêu đó và theo dõi kết quả thực hiện”.
Như vậy, có thể thấy hoạt động quản trị nội bộ NHTM có những đặc
điểm sau:
Một là, quản trị nội bộ NHTM được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa
quản lý và sở hữu ngân hàng. Ngân hàng là của chủ sở hữu (nhà đầu tư,
cổ đông…) nhưng để tồn tại và phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT,
sự điều hành của Ban Giám đốc, sự giám sát của Ban kiểm soát (BKS) và sự
đóng góp của người lao động, những người này không phải lúc nào cũng có
chung ý chí và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải có một cơ chế để nhà
đầu tư cũng như các cổ đông có thể kiểm soát việc điều hành công ty nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất.
Hai là, quản trị nội bộ NHTM xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa
các nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong ngân hàng, bao gồm các cổ
đông, HĐQT, Ban Điều hành, BKS và những người liên quan khác của
ngân hàng như người lao động, nhà cung cấp. Đồng thời, quản trị nội bộ
NHTM cũng lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra quyết định trong
ngân hàng, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu
những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với các
bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc không có tiêu
chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin và không
minh bạch.
1.1.3. Khái niệm tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại
Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ và hoàn chỉnh về khái
niệm tái cơ cấu NHTM nói chung và tái cơ cấu quản trị nội bộ của NHTM nói
riêng.
Trong thực tế, thuật ngữ “Tái cấu trúc” hay “tái cơ cấu” mới chỉ xuất hiện
trong những năm trở lại đây. Theo từ điển Oxford: “tái cơ cấu là việc tổ chức lại
một cái gì đó như một hệ thống hoặc một công ty theo một cách mới hẳn và khác
13



hẳn”. Theo từ điển Cambridge: “Tái cấu trúc là tổ chức một công ty, một công
việc kinh doanh hoặc một hệ thống để nó vận hành hiệu quả hơn”. Hoặc theo từ
điển Robert của Pháp: “Tái cơ cấu là mang lại một cấu trúc mới, một cách tổ
chức mới” [18].
Xuất phát từ các quan điểm về tái cơ cấu nói trên, có thể định nghĩa tái cơ
cấu (restructuring) chính là quá trình tổ chức, sắp xếp lại NHTM nhằm tạo ra
“trạng thái” tốt hơn cho NHTM để thực hiện những mục tiêu đề ra. Nói một
cách đầy đủ hơn, có thể hiểu khái niệm tái cơ cấu NHTM nói chung như sau:
“Tái cơ cấu ngân hàng thương mại là việc sắp xếp lại cơ cấu tổ
chức của ngân hàng, bằng cách xây dựng lại sơ đồ cơ cấu tổ chức,
thay đổi các phòng ban chức năng với những tên gọi mới, thay đổi tư
duy quản lý, tái cấu trúc lại quá trình kinh doanh, trên cơ sở đó định
hình mô hình và cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và định hướng
kinh doanh của doanh nghiệp”.
Trong hệ thống NHTM việc tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM là một trong
những vấn đề trọng tâm hiện nay. Và xuất phát từ khái niệm tái cơ cấu ngân
hàng nói chung và quan điểm của Đảng và Nhà nước về tái cơ cấu hệ thống
NHTM, có thể định nghĩa “tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM” như sau:
“Tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM là quá trình sắp xếp, tổ
chức lại toàn bộ mô hình tổ chức, quản trị điều hành trong nội bộ các
ngân hàng, từ đó giảm thiểu tối đa nguy cơ rủi ro trong hoạt động của
từng ngân hàng đơn lẻ nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung,
đảm bảo hoạt động của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh kinh tế
hiện nay và đảm bảo an toàn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho cơ cấu
toàn bộ hệ thống ngân hàng”[14].
Quá trình tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM cũng như việc tái cơ cấu hệ
thống NHTM được thực hiện theo lộ trình và những giải pháp cụ thể do NHNN
và các cơ quan khác có thẩm quyền quyết định thông qua việc ban hành các văn
bản pháp luật quy định chi tiết từng giai đoạn, từng nội dung tái cơ cấu, phù hợp

14


với thực tiễn hoạt động của toàn bộ hệ thống cũng như điều kiện kinh tế của
từng ngân hàng.
Tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM là một nội dung của tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng. Tái cơ cấu quản trị bộ có tác động không nhỏ đến việc phát
triển của hệ thống ngân hàng. Mặt khác, trong khi vấn đề quản trị nội bộ NHTM
hiện nay có tính đặc thù rất cao, nó khác nhiều với quản trị công ty đơn thuần vì
hệ thống NHTM kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt, kinh doanh tiền tệ, do vậy
vấn đề quản trị nội bộ trong hoạt động của các NHTM liên quan mật thiết với
mọi lĩnh vực khác của nền kinh tế và xã hội trong nước, thậm chí vươn ra khỏi
khuôn khổ của quốc gia. Tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM hiện nay được coi là
vấn đề cốt lõi song song với quá trình tái cơ cấu NHTM nói riêng và hệ thống
ngân hàng nói chung. Nó giữ vai trò trọng yếu và quyết định đến sự hình thành,
tồn tại và phát triển của hệ thống NHTM. Chính vì vậy khi quản trị nội bộ ngân
hàng yếu kém sẽ kéo theo sự suy yếu của tất cả các lĩnh vực kinh doanh khác
của NHTM. Chỉ cần hệ thống quản trị nội bộ ngân hàng đổ vỡ, nguy cơ đổ vỡ
toàn hệ thống ngân hàng rất lớn, và lan truyền rộng khắp còn gọi là hiện tượng
Domino. Chính vì vậy tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM đòi hỏi phải thực hiện
một cách quyết liệt.
Tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM gắn với việc đề xuất cách hiểu, quản trị,
điều hành NHTM theo hướng phù hợp với các yếu tố quản trị NHTM hiện đại
và phù hợp với thực tế kinh doanh ngân hàng, nhằm bảo đảm tách bạch giữa sở
hữu và điều hành hướng tới hoạt động hiệu quả của ngân hàng.
1.2.

Mục đích và vai trò của tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng

thương mại

1.2.1. Mục đích của tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại
Theo thống kế tính đến tháng 6 năm 2013, hệ thống các TCTD Việt Nam
đã phát triển mạnh với số lượng: 5 ngân hàng thương mại nhà nước
(NHTMNN); 1 ngân hàng chính sách xã hội; 37 ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP); 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng liên doanh; 48
15


văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài; 17 công ty tài chính; 13 công ty cho
thuê tài chính. Ngoài ra, Việt Nam còn có Ngân hàng phát triển Việt Nam
(VDB) và Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương với 915 quỹ tín dụng nhân dân
cơ sở. Hệ thống tài chính của Việt Nam đã phát triển rất mạnh kể từ đầu thập
niên 90 thế kỷ XX đến nay và đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đất
nước. Với tổng tài sản gấp hơn 2 lần so với GDP, trong đó, tổng vốn tín dụng
cho nền kinh tế đã tăng rất nhanh và lên đến 125% GDP vào cuối năm 2010, hệ
thống các TCTD nói chung, NHTM nói riêng đã trở thành nguồn cung ứng vốn
chủ yếu cho nền kinh tế, cả vốn ngắn, trung và dài hạn, cả vốn bằng VND cũng
như bằng ngoại tệ. Một số NHTM và TCTD lớn đã vươn lên thành tập đoàn tài
chính với quy mô vốn điều lệ tương đương hàng trăm triệu USD, hoạt động đầu
tư trong nhiều lĩnh vực như chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, vàng và ngoại
tệ, cho thuê tài chính,… thông qua hệ thống hàng trăm chi nhánh, sử dụng hàng
vạn lao động, thành lập nhiều công ty con,… đạt lợi nhuận mỗi năm tới hàng
ngàn tỉ VND.
Tuy nhiên, chính sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa
dạng của hệ thống ngân hàng trong thời gian vừa qua đã tiềm ẩn những rủi ro và
nguy cơ lớn tác động trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống
NHTM. Đó là nguyên nhân quan trọng nhất buộc Việt Nam phải cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng nói riêng, cơ cấu lại hệ thống tài chính nói chung nhằm ngăn
chặn rủi ro hệ thống trước khi sự đổ vỡ của một tổ chức tài chính có thể kéo theo
sự đổ vỡ của cả hệ thống như bài học từ các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính

quốc tế đã chỉ ra [46].
Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi
ro đó tích tụ, trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn
kinh tế vĩ mô, khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán hay/và thị
trường bất động sản lao dốc hay do các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất
cập, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực và
đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu cầu,… thì ngân hàng sẽ không thể tránh
khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại, cả cơ cấu lại từng ngân hàng, cũng như
16


cơ cấu lại cả hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam
đang đối mặt với những rủi ro ngày một gia tăng, nổi bật là:
Rủi ro tín dụng: Một mặt, để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp và người dân, trong khi nguồn vốn kinh doanh
chỉ chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng, nên đã có hiện tượng “tín dụng nóng”.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, người vay nợ gặp khó khăn thì
rủi ro tín dụng gia tăng, nhất là trong những trường hợp ngân hàng quá dễ dãi
trong việc cấp tín dụng cho vay và không thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng đầy đủ. Đặc biệt, sự hấp dẫn của thị trường bất động sản và chứng khoán
trong thời gian vừa qua đã khiến nhiều NHTM tập trung quá nhiều vốn cho
những thị trường đầy rủi ro này, góp phần không nhỏ vào thổi phồng “bong
bóng” bất động sản và chứng khoán. Song, những lúc thị trường này đảo chiều
đi xuống thì nguy cơ rủi ro lại tăng cao. Mặt khác, do một số NHTM mới thành
lập nên mặc dù qui mô vốn không lớn song vẫn cần tăng nhanh qui mô tín dụng
để qui mô tài sản có phù hợp với qui mô vốn, đồng thời, nhằm đáp ứng yêu cầu
lợi nhuận của cổ đông, cũng như thỏa mãn tham vọng nhanh chóng vươn lên
bằng các NHTM có qui mô lớn và bề dày kinh nghiệm khác. Trong điều kiện
đó, những ngân hàng này đã bất chấp các qui tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi
ro để đạt tốc độ tăng tín dụng tới hàng chục phần trăm mỗi năm, kể cả tín dụng

cho những lĩnh vực rủi ro cao. Khi NHNN quyết định thắt chặt tín dụng cho bất
động sản, chứng khoán và tiêu dùng xuống mức 22% tổng tín dụng vào giữa
năm 2011 và mức 16% vào cuối năm 2011 thì rủi ro tín dụng của những NHTM
này tăng vọt. Ngoài ra, rủi ro đạo đức do sử dụng vốn tín dụng sai mục đích
cũng tăng cao, hậu quả là tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng mạnh. Theo công bố
của NHNN, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã tăng từ 2,2% tổng tín
dụng vào cuối năm 2010 lên 3,1% vào giữa năm 2011, trong đó, gần một nửa là
nợ xấu có khả năng mất vốn. Thậm chí, một số tổ chức tài chính thế giới còn
cho rằng tỷ lệ nợ xấu đã lên tới trên 10% (nếu tính theo chuẩn quốc tế). Thực tế,
một số NHTMNN như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công
khai tỷ lệ nợ xấu tới 6,6% và Vietcombank có tỷ lệ nợ xấu là 3,9% [26].
17


Rủi ro thanh khoản: Do một số NHTM có tốc độ tăng dư nợ tín dụng và
tài sản quá cao trong khi quy mô vốn còn hạn chế nên tính thanh khoản của
những NHTM này xuống thấp, thậm chí có những thời điểm mất tính thanh
khoản. Hậu quả là, để bảo đảm tính thanh khoản, một số NHTM đã phải chấp
nhận lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới 20%-30%/năm, thậm chí trên
40%/năm bất chấp lãi suất tái chiết khấu do NHNN công bố hiện nay chỉ là
13%/năm [52]. Có những giai đoạn NHNN đã phải bơm ròng đến hàng chục
ngàn tỉ VND trên thị trường mở và thị trường liên ngân hàng để bảo đảm thanh
khoản cho toàn hệ thống. Rủi ro thanh khoản còn đi đôi với rủi ro kỳ hạn khi
tuyệt đại đa số vốn huy động có kỳ hạn ngắn, thậm chí rất ngắn song các NHTM
lại cấp tín dụng ở tất cả các kỳ hạn với một tỷ lệ không nhỏ dành cho vay trung
và dài hạn.
Rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái: Những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
lạm phát cao và những chính sách thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ
thống NHTM trước những rủi ro rất lớn về lãi suất. Những biến động lớn, đột
ngột về lãi suất, cả huy động và cho vay, cùng với những biện pháp điều hành

lãi suất còn mang nặng tính hành chính đã khiến cho các NHTM thường xuyên
trong trạng thái đối phó, khi thì chạy đua tăng lãi suất huy động, khi lại giữ lãi
suất cho vay ở mức rất cao để phòng ngừa biến động lãi suất. Vì vậy, hiện tượng
“vượt trần, phá rào, hai lãi suất” diễn ra tương đối phổ biến làm giảm hiệu lực
của các chính sách tiền tệ, đồng thời làm suy giảm đạo đức kinh doanh của
không ít cán bộ quản lý cũng như cán bộ tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng...
Hoạt động của không ít NHTM rất bấp bênh, chênh vênh giữa trạng thái lãi - lỗ,
kỷ luật kinh doanh không được tuân thủ triệt để, tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu
lợi dụng.
Bên cạnh đó, do tình trạng đô-la hóa chậm được khắc phục, với tổng tiền
gửi ngoại tệ vẫn chiếm trên 20% tổng tiền gửi, thậm chí còn phát sinh thêm tình
trạng vàng hóa với cả trăm tấn vàng được các NHTM huy động song không
được sử dụng hiệu quả, nên các NHTM còn phải đương đầu với rủi ro tỷ giá hối
đoái và cả rủi ro giá vàng. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2011 tỷ giá hối đoái
18


×