BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
ĐẶNG THỊ THÊM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC VIÊN Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
CHU VĂN AN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Xuân Khoa
NGHỆ AN, 2014
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp luận văn được bảo vệ, xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám
hiệu, Phòng Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Vinh, các thầy giáo, cô
giáo, Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào Trường Đại học
Vinh, Ban Giám hiệu Trung tâm GDTX Chu Văn An, gia đình và bạn bè đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS. TS.
Đinh Xuân Khoa, người trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện song luận văn sẽ còn
nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các anh
chị và các bạn.
Xin chân thành cám ơn!
TP Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2014
Tác giả
Đặng Thị Thêm
MỤC LỤC
Trang
Từ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của cá nhân, mối quan hệ giữa
người với người và mở rộng ra là duy trì trật tự, sự ổn định của xã hội một
cách tự nhiên, đạo đức còn có nhiều chức năng cụ thể trong cuộc sống của
một cá nhân, một tập thể xã hội...................................................................12
- Chức năng điều chỉnh hành vi...................................................................12
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
HV:
Học viên
GV:
Giáo viên
GDTX:
Giáo dục thường xuyên
GDĐĐ:
Giáo dục đạo đức
Nxb:
Nhà xuất bản
QL:
Quản lý
TP:
Thành phố
THPT:
Trung học phổ thông
CSVC:
Cơ sở vật chất
BGH:
Ban Giám hiệu
CHXH:
Cộng hòa xã hội
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Đánh giá thực trạng đạo đức của HV Trung tâm GDTX Chu Văn
An thông qua đội qua ngũ cán bộ, GV.....Error: Reference source not found
Bảng 2 : Đánh giá xếp loại đạo đức HV Trung tâm GDTX Chu Văn An, TP
Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 – 2013........Error: Reference source not found
Bảng 3: Thực trạng nhận thức của HV Trung tâm GDTX Chu Văn An
trong việc giáo dục rèn luyện đạo đức bản thân. Error: Reference source not
found
Bảng 4: Đánh giá của GV, HV về mức độ thực hiện của công tác GDĐĐ
cho HV trong Trung tâm GDTX Chu Văn An.. .Error: Reference source not
found
Bảng 5: Nhận thức của HV Trung tâm GDTX Chu Văn An về tính hiệu quả
của các hình thức GDĐĐ Trung tâm đã áp dụngError: Reference source not
found
Bảng 6: Nhận thức về công tác QL GDĐĐ cho HV Trung tâm GDTX Chu
Văn An......................................................Error: Reference source not found
Bảng 7: Các loại kế hoạch họat động GDĐĐ được xây dựng ở Trung tâm
GDTX Chu Văn An..................................Error: Reference source not found
Bảng 8: Đối tượng tham gia kiểm chứng tính cần thiết và khả thi của các
giải pháp đã đề xuất.....................................................................................90
Bảng 9. Kết quả khảo sát về tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất.......91
Bảng 10. Kết quả khảo sát bề tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất
.................................................................. Error: Reference source not found
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giáo dục đạo đức (GDĐĐ) trong nhà trường là một hoạt động có tổ
chức, có mục đích, kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực đạo đức
theo yêu cầu của xã hội thành những phẩm chất, giá trị đạo đức của bản thân
HV, nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội. GDĐĐ tạo ra nhịp cầu gắn kết nhà trường và xã hội, con người
với cuộc sống. Ở nhà trường, GDĐĐ cho học viên (HV) là hình thành ở các
em ý thức đạo đức, hành vi, thói quen đạo đức, tình cảm đạo đức theo những
nguyên tắc đạo đức dân tộc, đạo đức cách mạng và đạo đức Xã hội chủ nghĩa
(XHCN).
Là một bộ phận của giáo dục, tất yếu GDĐĐ cũng cần phải được quản lý
chặt chẽ, khoa học. Quản lý tốt hoạt động GDĐĐ cho HV là góp phần thực
hiện nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm xây dựng những con người và thế hệ gắn bó
với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH.
1.2. Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta vẫn đang ngày phải đối diện với vấn
đề bạo lực học đường, tệ nạn xã hội học đường, những hành vi cư xử thiếu
văn hóa của HV với bạn bè, với người lớn, với môi trường tự nhiên... Một
trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng buồn này xuất phát từ việc
GDĐĐ trong nhà trường chưa thực sự mang lại hiệu quả do những hạn chế về
nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục. Các trường chủ yếu chú trọng
giáo dục trí dục, chưa quan tâm đúng mức đến mặt đức dục. Nội dung GDĐĐ
thiên về kiến thức mà xem nhẹ việc rèn ý thức, thái độ, hành vi cho HV.
Trong khi đó việc quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp của các nhà
trường mới chỉ dừng lại ở kế hoạch tổng thể, tức là lựa chọn những ngày lễ
lớn, để tổ chức hoạt động giáo dục, chưa cụ thể hóa các hình thức tổ chức có
2
tính sáng tạo. Các hình thức tổ chức chưa phong phú, đa dạng, có chiều sâu để
cuốn hút HV và nâng cao nhận thức sâu sắc, tình cảm và niềm tin mạnh mẽ để
hình thành và phát triển những hành vi đạo đức, chuẩn mực tích cực trong
mối quan hệ. Sự phối hợp các lực lượng chưa đồng bộ, thiếu sự nhất quán
giữa nhà trường và các đoàn thể xã hội, phụ huynh, nhất là các bậc cha mẹ
HV chưa nhận thức rõ mục tiêu, nội dung và các giải pháp GDĐĐ để cùng
cộng đồng trách nhiệm trong quá trình GDĐĐ cho HV... Chính vì vậy, việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác QL GDĐĐ là việc làm cần thiết để có
thể nhanh chóng khắc phục những hạn chế, tồn tại trên.
1.3. Trung tâm GDTX Chu Văn An có nhiệm vụ thu nhận, giáo dục HV
trên địa bàn các quận, huyện gần Trung tâm như Quận 3, Quận 11, Quận 8,
Quận 10, khu vực Tân Phú, Bình Tân, Bình Chánh... Thành phần HV chủ yếu
của Trung tâm là HV cá biệt: xếp loại học lực Trung bình, Yếu; hạnh kiểm
Khá và Trung bình chiếm số lượng lớn. Do vậy, công tác giáo dục toàn diện,
trong đó có GDĐĐ cho các em gặp vô vàn khó khăn, thách thức. Thực trạng
HV vi phạm nền nếp, nội quy, quy chế nhà trường, bạo lực học đường, ứng
xử thiếu văn hóa, sự xâm nhập của tệ nạn xã hội... vẫn nhiều và có xu hướng
gia tăng. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh và làm giảm sút chất
lượng giáo dục toàn diện của Trung tâm. Một trong những nguyên nhân của
thực trạng này bắt nguồn từ chính sự lỏng lẻo, chưa khoa học, thiếu sự đồng
bộ, nhất quán của công tác QL GDĐĐ.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý
giáo dục đạo đức cho học viên ở Trung tâm GDTX Chu Văn An, TP. Hồ
Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, đề xuất các giải
pháp nâng cao chất lượng QL công tác GDĐĐ cho HV nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện ở Trung tâm GDTX Chu Văn An, TP Hồ Chí Minh
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học viên ở Trung tâm giáo dục
thường xuyên.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học viên ở Trung tâm giáo dục
thường xuyên Chu Văn An, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng đồng bộ các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi
do chúng tôi đề xuất thì có thể nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức
cho học viên ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Chu Văn An, TP Hồ Chí
Minh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề QL công tác GDĐĐ cho HV
Trung tâm GDTX Chu Văn An, TP Hồ Chí Minh.
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề QL công tác GDĐĐ cho HV
Trung tâm GDTX Chu Văn An, TP Hồ Chí Minh.
5.3. Đề xuất các giải pháp QL công tác GDĐĐ cho HV Trung tâm
GDTX Chu Văn An, TP Hồ Chí Minh.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa tài liệu liên quan để xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp Điều tra qua các phiếu hỏi.
- Phương pháp Lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp Tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
4
- Phương pháp Nghiên cứu các sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp Khảo nghiệm, thử nghiệm.
6.3. Phương pháp Thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để xử lý các số liệu thu được về mặt định
lượng.
7. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Nêu và hệ thống hoá các cơ sở lý luận của việc QL công
tác GDĐĐ cho HV
- Về thực tiễn: Khảo sát thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả QL công tác GDĐĐ cho HV Trung tâm GDTX Chu Văn An, TP
Hồ Chí Minh.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài được công bố trong 01 bài báo: Xây
dựng tập thể học viên tự quản - giải pháp hiệu quả trong giáo dục đạo đức
cho học viên trung tâm giáo dục thường xuyên Chu Văn An thành phố Hồ Chí
Minh, Tạp chí Giáo dục, Số Đặc biệt (tháng 3/2014), tr.69-71.
8. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của QL giáo dục đạo đức cho học viên ở Trung
tâm GDTX
Chương 2: Thực trạng QL giáo dục đạo đức cho học viên ở Trung tâm
GDTX Chu Văn An, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số giải pháp QL công tác giáo dục đạo đức cho học viên
Trung tâm GDTX Chu Văn An, Thành phố Hồ Chí Minh
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC VIÊN Ở TRUNG TÂM GDTX
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
GDĐĐ trong nhà trường là một bộ phận không thể tách rời của giáo dục
tổng thể, góp phần hình thành ý thức, hành vi, thói quen đạo đức, tình cảm
đạo đức theo những nguyên tắc đạo đức dân tộc, đạo đức cách mạng và đạo
đức XHCN. Trong bối cảnh kinh tế thị trường và giao lưu văn hóa quốc tế
đang có những tác động tiêu cực đến nhân cách, lối sống của thế hệ trẻ hiện
nay thì việc GDĐĐ cho HV càng trở thành vấn đề được quan tâm nghiên cứu
hơn bao giờ hết.
Một trong những nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục
đạo đức cho HV, sinh viên Việt Nam là PGS.TS Phạm Minh Hạc. Trong công
trình Về phát triển con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ông đã
nêu rõ các định hướng giá trị đạo đức cần cung cấp cho con người Việt Nam
nói chung và HV nói riêng hiện nay là: “Trang bị cho mọi người những tri
thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo đức nhân văn, kiến thức pháp luật và
văn hóa xã hội, hình thành ở mọi công dân thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm
tin đạo đức trong sáng đối với bản thân, đối với mọi người, đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của dân tộc và với mọi hiện tượng xảy ra xung quanh.
Tổ chức tốt việc giáo dục và rèn luyện giới trẻ, để mọi người tự giác thực hiện
những chuẩn mực đạo đức xã hội, có thói quen chấp hành những quy định của
pháp luật, nỗ lực học tập, rèn luyện, tích cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [12; 169]. Để nâng cao hiệu
quả GDĐĐ cho thế hệ trẻ hiện nay, trong công trình Tâm lý học đại cương,
ông cũng nêu lên 6 giải pháp cơ bản là: “Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức
GDĐĐ trong các trường học; củng cố ý tưởng giáo dục ở gia đình và cộng
6
đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường trong việc GDĐĐ cho con
người; kết hợp chặt chẽ GDĐĐ với việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của
các cơ quan thi hành pháp luật; tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu
nước và các phong trào rèn luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết
cho cán bộ Đảng viên, cho thầy cô các trường học; xây dựng một cơ chế tổ
chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã hội về GDĐĐ; nâng cao nhận thức cho
mọi người” [11; 171 - 176].
Tác giả Lê Thị Hoài Thanh trong luận án Tiến sĩ Quan hệ biện chứng
giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt
Nam hiện nay (2002) đã đi sâu làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa truyền
thống và hiện đại trong sự phát triển đạo đức và trong GDĐĐ; phân tích đặc
điểm và xu hướng biến đổi về đạo đức của thế hệ thanh niên Việt Nam hiện
nay và thực trạng công tác GDĐĐ cho thanh niên; đề xuất một số giải pháp
chủ yếu trong GDĐĐ cho thanh niên theo hướng kết hợp truyền thống và hiện
đại.
Ngày 21/12/2012, Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường Đại học Sư
phạm TP Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo khoa học Giáo dục đạo đức cho
sinh viên trong các trường Cao đẳng, Đại học Việt Nam. Hội thảo đã thu hút
nhiều nhà nghiên cứu tham gia với 60 tham luận. Phải khẳng định rằng, đây là
sự kiện có ý nghĩa tập trung nhất bàn về vấn đề GD giá trị truyền thống cho
sinh viên. Trong số 60 tham luận, có những tham luận nổi bật như của
Nguyễn Thị Hằng - Phạm Xuân Hậu, Vũ Thị Liên - Lê Thị Thanh Hiếu… Tác
giả Nguyễn Thị Hằng - Phạm Xuân Hậu trong tham luận Giáo dục đạo đức
cho sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học Việt Nam ngày nay – Sự nhìn
nhận toàn diện về đối tượng, nội dung và cách thức thực hiện, đăng trong Kỷ
yếu Hội thảo “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các trường Cao đẳng, Đại
học Việt Nam” (12/2012) đã phân tích tương đối toàn diện về vấn đề GDĐĐ
cho sinh viên. Ở phần nội dung của công tác GDĐĐ, các tác giả nêu rõ: “Giáo
dục cho sinh viên về lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thế giới
7
quan cách mạng và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, khi có nhận
thức đúng lý tưởng, họ sẽ có niềm tin, có hành động đúng, biết nhìn về tương
lai. Giáo dục để sinh viên có được ý thức và trách nhiệm cộng đồng, tinh thần
mình vì mọi người, lòng khoan dung, ý thức tự giác trong học tập và hoạt
động cá nhân. Hiểu sâu sắc về những mặt trái của xã hội và kinh tế đang diễn
ra và nguy cơ làm xuống cấp đạo đức của bộ phận người và cội nguồn của sự
xuống cấp đó, để đấu tranh chống lại, và rèn luyện bản thân” [34; 25]. Tác giả
Vũ Thị Liên - Lê Thị Thanh Hiếu trong tham luận Biện pháp tăng cường giáo
dục đạo đức cho sinh viên Khoa Sư phạm Tự nhiên Trường Cao đẳng Sơn La
đã đi sâu phân tích tình hình đạo đức sinh viên Khoa Sư phạm Trường Cao
đẳng Sơn La, từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể (6 giải pháp). Trong quá trình
phân tích các luận điểm, 2 tác giả cũng đã khẳng định rằng: “Để thực hiện
thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế
thị trường và quá trình toàn cầu hóa, trong lĩnh vực giáo dục, các nhà trường
cần đặc biệt coi trọng GDĐĐ. Đây là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, hình
thành phẩm chất đạo đức của người công dân XHCN” [34; 122].
Đề tài NN7 Cải tiến công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và
lối sống cho HV, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân do Phạm Tất
Dong làm chủ nhiệm đã nêu nhiều nội dung mới về GDĐĐ, chính trị, tư
tưởng trong các trường từ Tiểu học đến Đại học những năm đầu thập kỉ 90.
Ngoài ra, chúng tôi còn tiếp cận với một số công trình nghiên cứu khác
như: công trình “Một số vấn đề thời đại và đạo đức” của nhà giáo Mai Văn
Bính (1991, Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội); “Một số vấn đề về giáo dục
đạo đức và giảng dạy đạo đức ở THPT” của Phạm Khắc Chương (1995); Một
số ý kiến về giáo dục nhân cách thế hệ trẻ, HV, sinh viên và phương pháp
giáo dục của Đặng Quốc Bảo; công trình Giáo dục lý tưởng cách mạng cho
thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới của Phạm Đình Nghiệp (1996,
Nxb Giáo dục); công trình Giáo dục đạo đức, hệ thống giá trị tư tưởng nhân
văn của Hà Nhật Thăng (1998, Nxb Giáo dục); công trình Phương pháp dạy
8
học đạo đức của Lưu Thu Thúy (2001, Nxb Giáo dục); công trình Hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp của Đặng Vũ Hoạt (2003, Nxb Giáo dục)…
Vấn đề GDĐĐ cho thế hệ trẻ hiện nay cũng được các nhà nghiên cứu đề
cập các bài viết trên một số báo như: “Mấy ý về giáo dục, rèn luyện đạo đức
Hồ Chí Minh” của Lê Xuân Vũ (Tạp chí Cộng sản, số 4 năm 1994); “Vai trò
của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường”
của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học, số 10 năm 1996); “Thực trạng và
một số giải pháp giáo dục đạo đức cho HS THPT” của Phạm Khắc Chương
(Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2 năm 1997); “Đổi mới hoạt động của GV
CN với việc giáo dục đạo đức cho HV” của Đặng Vũ Hoạt; “Công tác giáo
dục đạo đức, chính trị cho HV, sinh viên” của Nguyễn Quốc Anh (Tạp chí
Cộng sản, tháng 2/1997); “Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn mực giá trị
xã hội để phát triển toàn diện con người” của Nguyễn Khắc Vinh (Tạp chí
Thông tin lý luận, số 3, năm 1999)…
Nhìn chung các đề tài nghiên cứu trên đã đi sâu vào việc xác định các
nội dung GDĐĐ, định hướng các giá trị đạo đức, các biện pháp GDĐĐ cho
HV. Tuy nhiên, công tác QL GDĐĐ trong nhà trường vẫn chưa được quan
tâm nghiên cứu. Thực hiện đề tài, chúng tôi chỉ mới tiếp cận được với một số
luận văn Thạc sỹ QL giáo dục nghiên cứu về vấn đề này như: Một số biện
pháp phối hợp giữa Hiệu trưởng và tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong
công tác giáo dục đạo đức cho HS THPT Tỉnh Bình Dương (Võ Huỳnh Ngọc
Vân), Những giải pháp tổ chức phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội
nhằm giáo dục đạo đức cho HS THPT ở Thị xã Thái Bình (Trần Thị Hải Yến),
Một số giải pháp QL công tác giáo dục đạo đức ở các trường THPT TP
Thanh Hóa (Chu Hồng Văn)…
Đặc biệt, hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về những biện
pháp QL hoạt động GDĐĐ cho HV Trung tâm GDTX Chu Văn An, TP Hồ
Chí Minh. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp quản lý giáo dục đạo
9
đức cho học viên ở Trung tâm GDTX Chu Văn An, TP. Hồ Chí Minh” là
một việc làm có ý nghĩa, giúp tháo gỡ những khó khăn hiện nay của công tác
GDĐĐ trong Trung tâm GDTX Chu Văn An nói riêng và trong các cơ sở giáo
dục trên phạm vi cả nước nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Học viên và Học viên Trung tâm GDTX
Thông thường, từ học viên thường được dùng lẫn lộn với sinh viên,
nhưng đều chỉ chung những người học. Tuy nhiên, sự phân biệt của các từ
này ở chỗ: nếu sinh viên được dùng để chỉ người học ở bậc TCCN, Cao đẳng,
Đại học chuyên nghiệp và sau đại học, thì học viên tại các Trung tâm (Ngoại
ngữ, Tin học, GDTX...), trường bồi dưỡng (chính trị, nghiệp vụ), trường dạy
nghề...đa số đều là người lớn tuổi...Theo tự điển tiếng Việt phổ thông của Nhà
xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 2002: Học viên là người lớn tuổi, học
ở các trường lớp, không thuộc hệ thống giáo dục phổ thông, hay Đại học.
Trung tâm GDTX là cơ sở GDTX của hệ thống giáo dục quốc dân.
Trung tâm GDTX bao gồm trung tâm GDTX quận, huyện, thị xã, TP thuộc
tỉnh (sau đây gọi chung là trung tâm GDTX cấp huyện), trung tâm GDTX
tỉnh, TP trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là trung tâm GDTX cấp
tỉnh). Học viên Trung tâm GDTX là người đang theo học một hoặc nhiều
chương trình của trung tâm GDTX. Học viên Trung tâm GDTX có những
nhiệm vụ sau đây:
- Kính trọng thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý, nhân viên của trung tâm;
thực hiện nội quy của trung tâm và các quy định ngành nghề liên quan.
- Thực hiện đầy đủ các yêu cầu về học tập, lao động thực hành do trung
tâm đề ra.
- Giữ gìn và bảo vệ tài sản của trung tâm.
- Góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của trung tâm.
10
- Đóng học phí đầy đủ và đúng hạn (đối với HV thuộc diện phải đóng
học phí).
Bên cạnh đó, học viên cũng có những quyền sau đây:
- Được Trung tâm tôn trọng và đối xử bình đẳng, được cung cấp đầy đủ
thông tin về việc học tập của mình.
- Được chọn chương trình học, hình thức học, địa điểm học phù hợp với
khả năng, điều kiện của bản thân và trung tâm; Được tạo điều kiện chuyển đổi
chương trình, hình thức và địa điểm học nếu có nguyện vọng và được nơi
chuyển đến tiếp nhận.
- Tham gia hoạt động của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong trung tâm
theo quy định của pháp luật.
- Trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình, góp ý về nội dung, phương pháp giảng dạy, các hoạt động
khác của Trung tâm.
- Được hưởng một phần thành quả lao động sản xuất, thực hành kỹ
thuật, các hoạt động khác mà mình tham gia; được xét cấp học bổng trợ cấp
xã hội theo quy định của pháp luật.
- Học viên học hết các chương trình GDTX theo quy định thì được cấp
văn bằng, chứng chỉ.
Hiểu được quyền, nhiệm vụ, bản chất hoạt động học tập của HV Trung
tâm GDTX sẽ giúp các nhà quản lý đề xuất những giải pháp GDĐĐ phù hợp,
có hiệu quả.
1.2.2. Đạo đức và giáo dục đạo đức
* Đạo đức
Đạo đức là khái niệm quen dùng trong đời sống người Việt. Thông
thường, chúng ta thường hình dung đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp mà
con người cần hướng đến để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Để hiểu
11
chính xác, nhiều tác giả đã cố gắng phân tách hai yếu tố này. Trong cuốn Hán
– Việt từ điển, trên cơ sở phân tách 2 yếu tố đạo và đức, tác giả đã đi đến quan
niệm cho rằng đạo đức là “Cái lý pháp người ta nên noi theo” (Đào Duy Anh).
Theo Từ điển Tiếng Việt thì từ đạo đức là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được
dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với
nhau và đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp, đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của con
người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có” [27]. Hữu Ngọc Dương Phú Hiếp - Lê Hữu thì quan niệm “Đạo đức hay luân lý là một trong
những hình thái sớm nhất của xã hội, bao gồm những nguyên lý (đạo lý), quy
tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác
và với cộng đồng” [22; 145].
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những
phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là
“con đường”, “đường đi”. Về sau, khái niệm đạo được vận dụng trong triết
học để chỉ “con đường của tự nhiên”. Đạo còn có nghĩa là “con đường sống”
của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn
chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy,
có thể nói, đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu,
những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ngày nay, đạo đức được hiểu là: “một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá
và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và
sức mạnh của dư luận xã hội” [18; 816].
Trong định nghĩa này có mấy điểm cần chú ý sau:
- Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống xã hội.
12
- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
- Đạo đức là một hệ thống các giá trị.
Từ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của cá nhân, mối quan
hệ giữa người với người và mở rộng ra là duy trì trật tự, sự ổn định của
xã hội một cách tự nhiên, đạo đức còn có nhiều chức năng cụ thể trong
cuộc sống của một cá nhân, một tập thể xã hội.
- Chức năng điều chỉnh hành vi
- Chức năng giáo dục
- Chức năng nhận thức
Chính vì có vai trò và chức năng to lớn đối với từng cá nhân và xã hội
nên việc GDĐĐ cho mỗi người là công việc được ưu tiên hàng đầu trong quá
trình phát triển cá nhân toàn diện. Mỗi cá nhân, tập thể và toàn bộ xã hội phải
có ý thức hình thành cho mình những chuẩn mực đạo đức hoàn thiện, thống
nhất để từ đó, xây dựng xã hội ngày càng ổn định, văn minh, tốt đẹp hơn.
* Giáo dục đạo đức
Có thể hiểu quá trình GDĐĐ là một hoạt động có tổ chức, có mục đích,
có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu chuẩn mực, giá trị đạo đức của cá nhân
nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển
tiến bộ của xã hội. “Giáo dục đạo đức là quá trình tác động tới người học để
hình thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức, đích cuối cùng quan
trọng nhất là tạo lập được những thói quen hành vi đạo đức” [21; 85].
Thực chất của việc GDĐĐ phải bắt nguồn từ việc tác động về mặt nhận
thức, xây dựng những rung cảm đạo đức, hình thành nhu cầu và niềm tin
hướng đến các chuẩn mực đạo đức cũng như các yêu cầu có liên quan mới có
thể hình thành một hành vi đạo đức mang tính chất tâm lý chứ không phải kỹ
thuật. Mặt khác, đó còn là việc huấn luyện, bồi dưỡng những kỹ năng ứng xử
- giao tiếp cho HV nhằm hướng đến việc xây dựng văn hóa học đường theo
hướng tích cực.
13
GDĐĐ là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, có quan hệ biện
chứng với các quá trình bộ phận khác nhau như giáo dục trí tuệ, giáo dục
thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo dục hướng nghiệp giúp
cho HV hình thành và phát triển nhân cách toàn diện.
Quá trình GDĐĐ bao gồm các tác động của rất nhiều nhân tố khách
quan, chủ quan, bên trong và bên ngoài. Do đó GDĐĐ chỉ đạt hiệu quả khi
nhà sư phạm biết tổ chức và đưa ra các biện pháp tổ chức các hoạt động giáo
dục một cách có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu giáo dục.
1.2.3. Quản lý và Quản lý giáo dục đạo đức
* Quản lý
Trong các giáo trình và tài liệu về quản lí, khi trình bày khái niệm về
quản lí, ngoài việc trích dẫn những tư tưởng của các tác giả kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, các tác giả thường dẫn ra những quan điểm của một số
các tác giả nước ngoài như: Frederich Winslon Taylor (1855 – 1915); Henry
Fayol (1841 – 1925; Mary Parker Pollet (1868 – 1933); Harold Koontz,… và
một số tác giả Việt Nam như: Đỗ Hoàng Toàn, Nguyễn Ngọc Quang, Hồ Văn
Vĩnh, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Duy Quý, Bùi Trọng Tuân… Tuy nhiên, vẫn
có thể khái quát các nghiên cứu về quản lý theo những khuynh hướng sau:
Thứ nhất, nghiên cứu quản lí theo quan điểm của điều khiển học và lí
thuyết hệ thống; Thứ hai, nghiên cứu quản lí với tư cách là một hoạt động,
một lao động tất yếu trong các tổ chức của con người; Thứ ba, nghiên cứu
quản lí với tư cách là một quá trình trong đó các chức năng quản lí được thực
hiện trong sự tương tác lẫn nhau.
Quản lý đã xuất hiện và được áp dụng ngay từ buổi sơ khai của cuộc
sống cộng đồng, khi con người làm việc theo nhóm để thực hiện những mục
tiêu nhất định. Con người không thể đạt được mục tiêu với tư cách là những
cá nhân riêng lẻ nên quản lý xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp
những nỗ lực cá nhân, hướng tới những mục tiêu chung. Mục tiêu của mọi
14
nhà QL là nhằm hình thành một môi trường trong đó con người có thể đạt
được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc vật chất và sự bất mãn cá
nhân ít nhất nhưng thỏa mãn nhiều nhất.
Các Mác có phân tích bản chất quản lý là: “Nhằm thiết lập sự phối hợp
giữa những công việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy sinh
từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với sự vận động riêng lẻ của
nó. Một người chơi vĩ cầm riêng lẻ tự điều khiển mình. Còn dàn nhạc thì cần
người chỉ huy” .
Theo Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức,
có định hướng của chủ thể (người QL, người tổ chức QL) lên khách thể (đối
tượng QL) về các mặt chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế.... bằng một hệ thống
các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp
cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện phát triển của đối tượng [10, 97].
Tác giả Trần Kiểm định nghĩa “QL là những tác động của chủ thể QL
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức với hiệu quả cao
nhất” [24; 8].
Những khái niệm trên về QL khác nhau về cách diễn đạt, nhưng vẫn
cho thấy một ý nghĩa chung: QL là sự tác động có tổ chức có hướng đích của
chủ thể QL lên đối tượng QL và khách thể QL nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến động của môi trường. Hoạt động QL phải là sự tác động có định
hướng, có mục đích, có kế hoạch để đưa hệ thống vào một trật tự ổn định, tạo
đà cho một sự phát triển nhanh, mạnh và bền vững.
* Quản lý giáo dục đạo đức
Về bản chất, QL hoạt động GDĐĐ là quá trình tác động có định hướng
của chủ thể QL lên các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động nhằm thực
hiện có hiệu quả mục tiêu GDĐĐ (nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng, động
15
cơ, tình cảm, thái độ, hành vi và thói quen. Đó là những nét tính cách của
nhân cách ứng xử đúng đắn trong xã hội).
Quản lý hoạt động GDĐĐ bao gồm việc QL mục tiêu, nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục, huy động đồng bộ lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ GDĐĐ, biến quá trình giáo
dục thành quá trình tự giáo dục.
Mục tiêu của QL hoạt động GDĐĐ cho HV là làm cho quá trình GDĐĐ
vận hành đồng bộ, hiệu quả trong việc giáo dục hình thành và phát triển nhân
cách HV. Tính hiệu quả, chất lượng giáo dục chính là đích hướng đến cuối
cùng của công tác QL GDĐĐ.
1.2.4. Giải pháp, giải pháp quản lý giáo dục đạo đức
* Giải pháp
Theo Từ điển tiếng Việt, “giải pháp là phương pháp giải quyết một vấn
đề cụ thể” [27; 389]. Còn theo Nguyễn Văn Đạm, “giải pháp là toàn bộ những
ý nghĩ có hệ thống cùng với những quyết định và hành động theo sau, dẫn tới
sự khắc phục một khó khăn” [9; 325]. Trong nhiều trường hợp, giải pháp
thường được sử dụng đồng nhất với biện pháp và phương pháp bởi giữa
chúng có mối quan hệ khá gần gũi. Điểm giống nhau của các khái niệm là
đều nói về cách làm, cách tiến hành, giải quyết một công việc, một vấn đề.
Còn điểm khác nhau ở chỗ, biện pháp chủ yếu nói đến cách làm, cách hành
động cụ thể. Trong khi đó, phương pháp nhấn mạnh đến trình tự các bước có
quan hệ với nhau để tiến hành một công việc có mục đích. Còn khái niệm
giải pháp lại nhấn mạnh đến phương pháp giải quyết một vấn đề, với sự khắc
phục khó khăn nhất định, trong một điều kiện cụ thể.
* Giải pháp quản lý
Giải pháp QL là hệ thống các cách thức tổ chức, điều khiển hoạt động
của một nhóm (hay nhiều nhóm xã hội) cùng nhau thực hiện những mục đích
và nhiệm vụ chung.
16
Từ đó, đề xuất các giải pháp QL thực chất là đưa ra các cách thức tổ
chức, điều khiển có hiệu quả hoạt động của một nhóm (hệ thống, quá trình)
nào đó. Tuy nhiên, các cách thức tổ chức, điều khiển này phải dựa trên bản
chất, chức năng, yêu cầu của hoạt động QL.
* Giải pháp quản lý giáo dục đạo đức
Giải pháp QL GDĐĐ trước tiên cũng là giải pháp QL GD nhưng nó
hướng vào một đối tượng, hoạt động cụ thể chính là công tác GDĐĐ cho HV
trong nhà trường. Hoạt động này cũng cần phải được thực hiện nghiêm túc từ
khâu lập kế hoạch, triển khai thực hiện, giám sát quá trình thực hiện cho đến
công đoạn kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện như thế nào. Thực chất, đây là
tập hợp các cách làm, cách hành động cụ thể để nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho
HV. Nó hướng đến duy trì trật tự cho công tác GDĐĐ cho HV và để cho công
tác này đạt được mục tiêu đề ra một cách tốt nhất.
1.2.5. Giải pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học viên Trung tâm
GDTX
Căn cứ vào nội dung khái niệm giải pháp QL GDĐĐ, có thể hiểu giải
pháp QL GDĐĐ là các cách thức tổ chức, điều khiển hoạt động GDĐĐ cho
HV Trung tâm GDTX để khắc phục những hạn chế tồn tại trong công tác QL
GDĐĐ hiện tại, phát huy những kết quả đạt được sao cho công tác GDĐĐ
cho HV đạt được mục tiêu giáo dục mà Trung tâm đề ra. Những giải pháp này
được đề xuất cũng phải dựa trên đặc điểm của HV, tình hình thực tế tại các
Trung tâm, mục tiêu GDĐĐ mà Trung tâm hướng đến...
1.3. Một số vấn đề giáo dục đạo đức cho học viên Trung tâm GDTX
hiện nay
1.3.1. Vị trí, vai trò của công tác giáo dục đạo đức
- Vị trí của công tác GDĐĐ:
GDĐĐ là một bộ phận quan trọng nằm trong quá trình giáo dục tổng thể
gồm: GDĐĐ, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục
17
hướng nghiệp. Cha ông ta từ xưa luôn đặt GDĐĐ là việc làm đầu tiên trong
việc dạy người: Tiên học lễ, hậu học văn. Ngày nay, dù tồn tại không ít những
quan niệm dạy học thực dụng, coi trọng dạy chữ, dạy nghề mà xem nhẹ việc
dạy làm người nhưng vẫn không ai phủ nhận vị trí quan trọng của việc
GDĐĐ. Để tạo nền tảng phát triển toàn diện, bền vững cho một cá nhân (tập
thể), tất yếu phải bắt đầu bằng việc trang bị cho cá nhân (tập thể) ấy những
nền tảng GDĐĐ căn bản.
- Vai trò của công tác GDĐĐ:
Chúng ta đều biết hành vi con người tuân theo hệ thống quy tắc của xã
hội, do xã hội đặt ra. Thế nhưng khi xã hội chuyển biến dồn dập, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa nhanh chóng làm cho hệ thống quy
tắc dễ bị phá vỡ. Lúc đó, phải trái, đúng sai không còn rạch ròi. Trong hoàn
cảnh như vậy, con người dễ thờ ơ trước cái thiện, dửng dưng trước cái ác. HV
là đối tượng dễ phá vỡ những quy tắc đạo đức ràng buộc ấy hơn ai hết. Vì
vậy, GDĐĐ sẽ góp phần định hướng ý thức đạo đức, điều chỉnh hành vi, tạo
niềm tin của các em vào những giá trị đạo đức bền vững. Từ đó, giúp các em
có lối sống chuẩn mực trong hoàn cảnh kinh tế thị trường như hiện nay.
Ngày nay, cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người
vẫn nhận thức rằng: giá trị và giá trị đạo đức luôn là vấn đề có ý nghĩa đối với
bất cứ xã hội nào, thời đại nào. Trong nền văn minh hiện đại, việc đánh giá
trình độ tiến bộ của các hiện tượng xã hội, trên thực tế vẫn rất cần sự tham gia
của các tiêu chuẩn đạo đức. Chính vì vậy, việc GDĐĐ trong nhà trường sẽ
giúp các em hình thành một thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức
tốt đẹp và giúp các em “miễn nhiễm” với những ảnh hưởng tiêu cực từ bên
ngoài. HV Trung tâm GDTX phần lớn là những đối tượng có sự hạn chế cả
trong trình độ nhận thức lẫn rèn luyện đạo đức. Chính vì vậy, việc tăng cường
GDĐĐ cho các em lại càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
18
Hơn nữa, ở góc độ vĩ mô, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ
đem lại những yếu tố mới cho việc làm sâu sắc thêm, phong phú thêm những
giá trị truyền thống đồng thời cũng gây ra những xáo trộn, những thay đổi
trong lối sống, những quan niệm về các chuẩn mực đạo đức xã hội. Vấn đề ở
chỗ là làm thế nào để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà vẫn giữ
được nét đẹp riêng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Đây quả
là vấn đề bức xúc đang đặt ra cho toàn xã hội Việt Nam hiện nay và để làm
được điều ấy, tất yếu cần đến công tác GDĐĐ cho HV ở Trung tâm.
Tóm lại, GDĐĐ cho HV ở Trung tâm GDTX là một hoạt động có tổ
chức, có mục đích, kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực đạo đức
theo yêu cầu của xã hội thành những phẩm chất, giá trị đạo đức của bản thân
HV, nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội. Quản lý tốt hoạt động GDĐĐ cho HV Trung tâm GDTX là góp
phần thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm xây dựng những con người và
thế hệ gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH.
1.3.2. Mục tiêu, nhiệm vụ công tác giáo dục đạo đức
Mục tiêu của GDĐĐ cho HV Trung tâm là giúp cho mỗi cá nhân nhận
thức đúng các giá trị đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, biết sống vì mọi
người, trở hành một công dân tốt, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất
nước.
Để tiến tới thực hiện mục tiêu lớn đó, công tác GDĐĐ cho HV Trung
tâm phải thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tăng cường giáo dục thế giới quan khoa học, giúp các em có những
hiểu biết đúng đắn về thế giới hiện thực, có đầu óc khoa học với niềm tin
khoa học, biết sử dụng các quy luật để xây dựng cuộc sống.
19
- Tăng cường giáo dục tư tưởng cách mạng XHCN nhằm giúp các em có
ước mơ, hoài bão cao đẹp, có ý thức và khả năng chống lại lối sống thực
dụng, chạy theo đời sống vật chất, hưởng thụ.
- Nâng cao lòng yêu nước, yêu CNXH, tự hào và tin tưởng vào tiền đồ
tươi sáng của dân tộc.
- Tăng cường ý thức lao động và tự lao động.
- Tăng cường giáo dục pháp luật, kỷ cương giúp các em có ý thức và
thói quen sống làm việc và học tập theo pháp luật, có kỷ luật ở mọi nơi, mọi lúc.
- Tăng cường giáo dục lòng yêu thương con người, có lòng nhân ái trong
quan hệ với con người và cộng đồng, có hành vi ứng xử có văn hóa. Bản thân
phải thật thà, giản dị, khiêm tốn, biết tự trọng, tự tin. Đối với gia đình phải
gắn bó, đùm bọc. Với bạn bè phải trung thực, thẳng thắn, thông cảm, hiểu
biết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ.
Tóm lại, GDĐĐ là con đường tất yếu để góp phần thực hiện nhiệm vụ
và mục tiêu “Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và CNXH có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, có năng lực, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại...” (Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 2 khóa VIII).
1.3.3. Nội dung giáo dục đạo đức
Trong xã hội hiện đại, dù những giá trị đạo đức xưa như nhân, lễ, nghĩa,
trí, tín hoặc tam tòng, tứ đức vẫn còn giá trị nhưng đã có rất nhiều giá trị mới
được hình thành. Vì vậy, quá trình GDĐĐ cho HV, sinh viên hiện nay có nội
dung rộng mở, bao quát hơn, đó là: “Giáo dục thế giới quan, tư tưởng, chính
trị, pháp luật, đạo đức và cư xử có văn hóa” (Nội dung GDĐĐ cho HS THPT
theo văn bản mục tiêu và kế hoạch đào tạo, Quyết định 329 do Bộ trưởng Bộ
giáo dục và Đào tạo ký ngày 31/3/1990).