Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn Huyện Gia Lâm”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.15 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
Mặc dù đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” nhưng công tác dân số trong giai
đoạn hiện nay cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: Mất cân bằng
giới tính khi sinh và chất lượng dân số còn hạn chế có thể xem là những “mảng tối”
trong bức tranh dân số nước ta thời điểm hiện tại. Dự báo, với xu hướng mất cân bằng
giới tính như hiện tại, đến năm 2035, Việt Nam có thể sẽ dư thừa 10% nam giới trưởng
thành so với nữ giới. Tình trạng này nếu không được kiềm chế sẽ dẫn tới những hệ lụy
khôn lường, tác động tiêu cực tới cấu trúc dân số trong tương lai; Chất lượng dân số
gồm các vấn đề: Thể chất, trí tuệ và tinh thần của con người sống trong xã hội. Mặc dù
đã có những bước tiến nhất định nhưng nhìn chung, việc thực hiện các yếu tố trên còn
hạn chế. Về thể chất, tuổi thọ trung bình của người dân gia tăng nhưng số người già
đau yếu còn chiếm số lượng lớn, tình trạng trẻ sơ sinh bị dị tật bẩm sinh do di truyền
ngày càng cao. Điều kiện sống của một bộ phận không nhỏ người dân hiện vẫn còn
gặp nhiều khó khăn. Cuộc sống mưu sinh cùng gánh nặng cơm áo hàng ngày khiến họ
không có điều kiện thụ hưởng các giá trị văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần. Mặc dù
có nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta còn thấp, trình
độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế chủ yếu là lao động giản đơn nên giá
trị thặng dư từ lao động mang lại không cao theo số liệu năm 2010 hơn 60% người lao
động chưa qua đào tạo (Trần Quang Đại, 2011). Chỉ số phát triển con người (HDI) ở
nước ta thời gian qua đã từng bước được cải thiện, song vẫn ở mức thấp, xếp ở nhóm
sau cùng của thế giới, năm 2012 chỉ số HDI của Việt Nam đứng ở mức 127/186 trong
bảng xếp hạng về chỉ số phát triển con người của Liên Hợp Quốc. (tạp chí DS&PT).....5
Chất lượng dân số thấp đang là thách thức không nhỏ, cản trở sự phát triển
của đất nước. Do đó, việc nâng cao chất lượng dân số cần là ưu tiên hàng đầu của
đảng và nhà nước nhất là trong giai đoạn nước ta đang trong thời kỳ cơ cấu “dân số
vàng” như hiện nay. Điều này được thể hiện cụ thể trong điều 21 Pháp lệnh dân số
năm 2003; Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 20112030; chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Chương trình mục tiêu quốc
gia về dân số và KHHGĐ đến năm 2015,…....................................................................6
Huyện Gia Lâm có 22 xã, thị trấn, địa bàn rộng, số dân đông gần 26 vạn người,
mật độ dân số khoảng 2.100 người/km2, mỗi năm có gần 5.000 trẻ sinh ra. Trong nhiều
năm qua, công tác DS- KHHGĐ nói chung và vấn đề nâng cao chất lượng dân số nói


riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chương trình phát triển kinh tế-xã
hội của Huyện, nên luôn được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Ngành dân số từ Huyện đến
cơ sở đã tổ chức nhiều hoạt động, đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng trong thực hiện các hành vi dân số sức
khỏe sinh sản KHHGĐ, tiến tới nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn huyện. Tuy
nhiên, công tác DS- KHHGĐ huyện Gia Lâm vẫn đứng trước những khó khăn, thách
thức: tỷ lệ bà mẹ, trẻ em đến khám trước và sau sinh còn hạn chế gây khó khăn cho
các cán bộ dân số trong việc bảo đảm nâng cao sức khỏe cho bà mẹ trẻ em, Kết quả
giảm sinh và giảm sinh con thứ 3 trở lên chưa thực sự vững chắc, tâm lý sinh con trai
còn nặng nề ở một số hộ gia đình dẫn đến tỷ lệ chênh lệch giới tính ở trẻ sơ sinh đang
diễn biến phức tạp, khó kiểm soát và là vấn đề rất đáng lo ngại (tỷ số giới tính khi sinh
6 tháng đầu năm là 129 trẻ trai/100 trẻ gái) nếu không có biện pháp giải quyết sẽ gây
tác động tiêu cực đến cấu trúc dân số trong tương lai....................................................6
Trước đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về dân số, tuy nhiên chúng ta thường
chú trọng đến các chỉ số về tốc độ tăng dân số, số người sinh con thứ 3, tỷ lệ giới
tính…mà ít quan tâm đến chất lượng dân số. Trong khi đó việc nâng cao chất lượng
dân số có tác động lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước..................................7

1


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Gia Lâm (2011 – 2013).Error:
Reference source not found
Bảng 3.2: Một số chỉ tiêu về dân số - xã hội huyện Gia Lâm. Error: Reference
source not found
(2011-2013)..................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.3: Giá trị sản xuất các ngành kinh tế của huyện Gia Lâm 3 năm (20112013).............................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.1 Tăng trưởng dân số huyện Gia Lâm giai đoạn 2011 – 2013.....Error:
Reference source not found

Bảng 4.2 Tình hình tăng dân số tự nhiên và cơ học tại huyện Gia Lâm giai
đoạn 2011 - 2013..........................................Error: Reference source not found
Bảng 4.3 Tỷ lệ giới tính khi sinh tại Gia Lâm giai đoạn 2011 - 2013......Error:
Reference source not found
Bảng 4.4 Cơ cấu dân số huyện Gia Lâm......Error: Reference source not found
Bảng 4.5 Tổng tỷ suất sinh qua các năm của huyện Gia Lâm.Error: Reference
source not found
Bảng 4.6 Tỷ lệ gia tăng tự nhiên huyện Gia Lâm giai đoạn 2011 - 2013.Error:
Reference source not found
Bảng 4.8 Tỷ lệ biết đọc biết viết của người dân trên địa bàn huyện Gia Lâm
......................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.9 Trình độ chuyên môn kỹ thuật của dân cư huyện Gia Lâm......Error:
Reference source not found
Bảng 4.10 Tình hình nhà ở của các hộ dân huyện Gia Lâm....Error: Reference
source not found
Bảng 4.11 Điều kiện sinh hoạt của các hộ dân tại huyện Gia Lâm..........Error:
Reference source not found

2


Bảng 4.12 Tần suất tham gia của các hộ dân vào các tổ chức xã hội địa
phương..........................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.13 Tình hình y tế và chăm sóc sức khỏe huyện Gia Lâm............Error:
Reference source not found

3


DANH MỤC SƠ ĐỒ


4


1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết
Năm 2013 đánh dấu một sự kiện nổi bật trong công tác dân số đó là
ngày 01/11 dân số Việt Nam chạm mốc 90 triệu người. Sự kiện này đã được
các cơ quan thông tin đại chúng trong nước và quốc tế đăng tải - minh chứng
cho sự thành công của công tác DS-KHHGĐ trong thời gian qua. Với việc
chạm mốc 90 triệu dân đồng nghĩa với việc nước ta đã bước vào thời kỳ có cơ
cấu “dân số vàng” và theo dự báo của các nhà khoa học thời kỳ này sẽ kéo dài
từ 30 - 35 năm. Đây được coi là thời cơ hiếm có để thúc đẩy đất nước phát
triển về mọi mặt, khi chúng ta đang sở hữu một nguồn nhân lực lớn với hơn
62 triệu dân (chiếm 69% dân số) trong độ tuổi lao động. Thị trường rộng lớn,
nguồn nhân lực dồi dào hứa hẹn Việt Nam sẽ là điểm đến đầy tiềm năng hấp
dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Từng bước góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” nhưng công tác dân số
trong giai đoạn hiện nay cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách
thức: Mất cân bằng giới tính khi sinh và chất lượng dân số còn hạn chế có thể
xem là những “mảng tối” trong bức tranh dân số nước ta thời điểm hiện tại.
Dự báo, với xu hướng mất cân bằng giới tính như hiện tại, đến năm 2035,
Việt Nam có thể sẽ dư thừa 10% nam giới trưởng thành so với nữ giới. Tình
trạng này nếu không được kiềm chế sẽ dẫn tới những hệ lụy khôn lường, tác
động tiêu cực tới cấu trúc dân số trong tương lai; Chất lượng dân số gồm các
vấn đề: Thể chất, trí tuệ và tinh thần của con người sống trong xã hội. Mặc dù
đã có những bước tiến nhất định nhưng nhìn chung, việc thực hiện các yếu tố
trên còn hạn chế. Về thể chất, tuổi thọ trung bình của người dân gia tăng
nhưng số người già đau yếu còn chiếm số lượng lớn, tình trạng trẻ sơ sinh bị

dị tật bẩm sinh do di truyền ngày càng cao. Điều kiện sống của một bộ phận

5


không nhỏ người dân hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Cuộc sống mưu sinh
cùng gánh nặng cơm áo hàng ngày khiến họ không có điều kiện thụ hưởng
các giá trị văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần. Mặc dù có nguồn nhân lực
dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta còn thấp, trình độ tay
nghề và chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế chủ yếu là lao động giản đơn nên
giá trị thặng dư từ lao động mang lại không cao theo số liệu năm 2010 hơn
60% người lao động chưa qua đào tạo (Trần Quang Đại, 2011). Chỉ số phát
triển con người (HDI) ở nước ta thời gian qua đã từng bước được cải thiện,
song vẫn ở mức thấp, xếp ở nhóm sau cùng của thế giới, năm 2012 chỉ số
HDI của Việt Nam đứng ở mức 127/186 trong bảng xếp hạng về chỉ số phát
triển con người của Liên Hợp Quốc. (tạp chí DS&PT)
Chất lượng dân số thấp đang là thách thức không nhỏ, cản trở sự phát
triển của đất nước. Do đó, việc nâng cao chất lượng dân số cần là ưu tiên hàng
đầu của đảng và nhà nước nhất là trong giai đoạn nước ta đang trong
thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” như hiện nay. Điều này được thể hiện cụ
thể trong điều 21 Pháp lệnh dân số năm 2003; Đề án tổng thể phát triển thể
lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030; chiến lược dân số Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và
KHHGĐ đến năm 2015,…
Huyện Gia Lâm có 22 xã, thị trấn, địa bàn rộng, số dân đông gần 26
vạn người, mật độ dân số khoảng 2.100 người/km 2, mỗi năm có gần 5.000 trẻ
sinh ra. Trong nhiều năm qua, công tác DS- KHHGĐ nói chung và vấn đề
nâng cao chất lượng dân số nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng
trong chương trình phát triển kinh tế-xã hội của Huyện, nên luôn được quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Ngành dân số từ Huyện đến cơ sở đã tổ chức nhiều

hoạt động, đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nhằm
nâng cao kiến thức, kỹ năng trong thực hiện các hành vi dân số sức khỏe sinh
sản KHHGĐ, tiến tới nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn huyện. Tuy

6


nhiên, công tác DS- KHHGĐ huyện Gia Lâm vẫn đứng trước những khó
khăn, thách thức: tỷ lệ bà mẹ, trẻ em đến khám trước và sau sinh còn hạn chế
gây khó khăn cho các cán bộ dân số trong việc bảo đảm nâng cao sức khỏe
cho bà mẹ trẻ em, Kết quả giảm sinh và giảm sinh con thứ 3 trở lên chưa thực
sự vững chắc, tâm lý sinh con trai còn nặng nề ở một số hộ gia đình dẫn đến
tỷ lệ chênh lệch giới tính ở trẻ sơ sinh đang diễn biến phức tạp, khó kiểm soát
và là vấn đề rất đáng lo ngại (tỷ số giới tính khi sinh 6 tháng đầu năm là 129
trẻ trai/100 trẻ gái) nếu không có biện pháp giải quyết sẽ gây tác động tiêu
cực đến cấu trúc dân số trong tương lai.
Trước đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về dân số, tuy nhiên chúng ta
thường chú trọng đến các chỉ số về tốc độ tăng dân số, số người sinh con thứ
3, tỷ lệ giới tính…mà ít quan tâm đến chất lượng dân số. Trong khi đó việc
nâng cao chất lượng dân số có tác động lớn đến sự phát triển bền vững của đất
nước.
Xuất phát từ thực tiễn trên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu giải pháp nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn Huyện Gia Lâm”. Kết
quả mà đề tài mang lại sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho các nhà quản lý
trong việc đưa ra các giải pháp có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dân số
trên địa bàn Huyện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng chất lượng dân số, các yếu tố ảnh
hưởng từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng dân

số trên địa bàn huyện Gia Lâm.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
1- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng dân số;
2- Đánh giá thực trạng chất lượng dân số trên địa bàn huyện Gia Lâm
những năm qua;

7


3- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số trên địa bàn
huyện Gia Lâm;
4- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng dân số
trên địa bàn huyện Gia Lâm trong thời gian tới.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
1- Chất lượng dân số được phản ánh thông qua những chỉ số nào?
2- Thực trạng số lượng, chất lượng dân số trên địa bàn huyện Gia Lâm
được thể hiện thông qua các chỉ số phản ánh chất lượng dân số như thế nào?
3- Những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách trong việc nâng cao
chất lượng dân số trên địa bàn huyện Gia Lâm là gì?
4- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến chất lượng dân số trên địa bàn
huyện Gia Lâm?
5- Giải pháp nào nhằm nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn huyện
Gia Lâm?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động nhằm nâng cao chất
lượng dân số được thể hiện thông qua các đối tượng:
Các hộ dân trên địa bàn huyện Gia Lâm, Các cán bộ làm công tác dân
số và các phòng ban có liên quan trong việc thực hiện triển khai các hoạt động
về Dân số trên địa bàn huyện Gia Lâm

- Các nhóm dân số chủ yếu: công chức, người lao động,..
- Cơ quan quản lý dân số: Chi cục dân số, phòng dân số - KHHGĐ
- Tổ chức kinh tế xã hội khác
- Cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan về dân số
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Các vấn đề về dân số, hệ thống chỉ số về chất lượng dân số
trên địa bàn huyện, các hoạt động được triển khai, các kết quả đạt được, những
mặt tồn tại và nguyên nhân, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số.

8


Về không gian: Đề tài được thực hiện tại huyện Gia Lâm - TP Hà Nội;
một số nội dung chuyên sâu khảo sát ở một số xã đại diện.
Thời gian:
- Đề tài sử dụng các nguồn tin, dữ liệu thứ cấp tại địa phương từ năm
2011 đến nay;
- Dữ liệu sơ cấp: thu thập 2014
- Các giải pháp đề xuất cho 2015 - 2020

9


II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Các quan điểm, khái niệm về chất lượng dân số
2.1.1.1 Dân số
a. Khái niệm
Dân số là tập hợp của những con người đang sống ở một vùng địa

lý hoặc một không gian nhất định,, là nguồn lao động quý báu cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, thường được đo bằng một cuộc điều tra dân số và biểu
hiện bằng một tháp dân số. ()
Dân số chỉ tất cả những người sống trong phạm vi một địa giới nhất
định (một nước, một vùng kinh tế, một đơn vị hành chính, v.v...) có đến một
thời điểm hay trong một khoảng thời gian nhất định.
+ Dân số thường trú: hay trong thống kê, dân số được thu thập theo
khái niệm “Nhân khẩu thực tế thường trú”, khái niệm này phản ánh những
người thực tế thường xuyên cư trú tại hộ tính đến thời điểm thống kê đã được
6 tháng trở lên và những người mới chuyển đến ở ổn định tại hộ, không phân
biệt họ đã được đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã/phường/thị trấn đang ở hay
chưa. Nhân khẩu thực tế thường trú tại hộ bao gồm:
a) Những người vẫn thường xuyên ăn ở tại hộ tính đến thời điểm thống
kê đã được 6 tháng trở lên.
b) Những người mới chuyển đến ở ổn định tại hộ và những trẻ em mới
sinh trước thời điểm thống kê; không phân biệt họ đã có hay không có giấy tờ
pháp lý chứng nhận sự di chuyển đó.
c) Những người “tạm vắng” bao gồm:
- Những người đi nghỉ hè, nghỉ lễ, đi công tác, đi du lịch, dự lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, đi chữa bệnh, v.v…;

10


- Những người đang bị tạm giữ;
- Những người rời gia đình đi làm ăn ở nơi khác tính đến thời điểm
thống kê chưa đủ 6 tháng (nếu đã rời gia đình đi làm ăn ở nơi khác tính đến
thời điểm thống kê đủ 6 tháng trở lên thì được tính tại nơi đang ở). Chỉ tiêu
“Dân số” được chi tiết hoá theo một số chỉ tiêu cơ bản nhất như sau:
+ Dân số Tạm trú: Là những người không thường xuyên sinh sống tại

một địa phương, nhưng lại có mặt vào thời điểm điều tra tại địa phương đó.
+ Dân số tạm vắng: Là những người thường xuyên sinh sống tại một
địa phương, nhưng tại thời điểm điều tra lại vắng mặt tại địa phương đó.
b. Đặc điểm dân số
- Quy mô dân số là số người sống trong một quốc gia một khu vực,
vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định.
- Phân bố dân số là sự sắp xếp số dân trên một vùng lãnh thổ phù hợp
với điều kiện sống của người dân và các yêu cầu nhất định của xã hội.
- Cơ cấu dân số là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi,
dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng
khác.,...
c. Vai trò của dân số và phát triển
Dân số vừa là lực lượng sản xuất vừa là lực lượng tiêu dùng của cải của
xã hội. Vì vậy, qui mô, cơ cấu của dân số quyết định qui mô, cơ cấu của sản
xuất và tiêu dùng. Con người - dân số đóng vai trò trung tâm trong mọi
chương trình, chiến lược phát triển, nó vừa là điều kiện, phương tiện, vừa là
mục tiêu của phát triển. Phát triển kinh tế xã hội dù ở đâu và thời kỳ nào đều
nhằm hướng tới việc phục vụ cho mục tiêu phát triển toàn diện con người.
(Giáo trình Dân số và Phát triển, Nguyễn Nam Phương)
d. Các chỉ tiêu đo lường về dân số

11


Quy mô dân số: Tổng dân sinh sống trong một lãnh thổ nhất định
(vùng, địa phương, quốc gia) vào một thời điểm xác định ( Đầu năm, giữa
năm, cuối năm,..)
Phân bố dân số: Là sự sắp xếp số dân trên một vùng lãnh thổ phù hợp
với điều kiện sống của người dân và các yêu cầu nhất định của xã hội.
Cơ cấu dân số: Là sự phân chia tổng dân số thành các bộ phận theo một

tiêu thức nhất định. Trong đó cơ cấu tuổi và giới tính của dân số là quan trọng
nhất vì không những nó ảnh hưởng đến mức sinh, mức chết và di dân mà còn
ảnh hưởng đến quá trình phát triển KT - XH.
2.1.1.2 Chất lượng dân số
a. Quan điểm, khái niệm về chất lượng dân số
- Quan điểm chất lượng dân số ở nước ngoài
Khái niệm “chất lượng dân số” xuất hiện từ thế kỷ 18, khoa học tư sản
nghiên cứu chất lượng dân số một cách hạn hẹp chỉ dựa trên cơ sở gen. Điển
hình là thuyết chủng tộc xuất hiện ở cuối thế kỷ 19. Nội dung cơ bản của
thuyết này là: Có chủng tộc thượng đẳng và chủng tộc hạ đẳng. Điều này dựa
trên cơ sở tự nhiên, mang tính di truyền và bất biến.
Ăng-ghen cho rằng: “Chất lượng dân số là khả năng của con người thực
hiện các hoạt động một cách hiệu quả nhất”.
Theo quan điểm của các nhà nhân khẩu học Nga, chất lượng dân số là
“khái niệm trung tâm của hệ thống tri thức của dân số” được phản ánh bởi các
chỉ tiêu:
- Trình độ giáo dục
- Cơ cấu nghề nghiệp, xã hội
- Tính năng động của tình trạng sức khỏe
Chất lượng dân số hình thành nhờ chăm sóc y tế, giáo dục và đào tạo
nghề cũng như các hoạt động cụ thể khác như văn hóa thể thao, du lịch… Nó
tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .

12


- Quan điểm trong nước
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam năm 1995, “Chất lượng” là
phạm trù triết học biểu thị những bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính
ổn định tương đối của nó, phân biệt nó với các sự vật khác. Như vậy, “chất

lượng dân số phải được biểu thị bằng các thuộc tính bản chất của dân
số”, tổng hợp lại đó có thể là các thuộc tính về thể lực, trí lực, năng lực xã hội
và tính năng động xã hội…
Chất lượng dân số hàm chứa một hệ thống các đặc trưng của dân số:
Trình độ học vấn, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu xã hội, tính năng động, tình
trạng sức khoẻ và các đặc trưng khác của dân số. Mỗi trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ tương ứng với một mức độ chất
lượng dân số nhất định. Như vậy, nó được phản ánh thông qua các tiêu chí cụ
thể liên quan đến tình trạng tầm vóc, thể lực, sức khoẻ sinh sản, trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật, cơ cấu và kỹ năng nghề nghiệp,
đời sống vật chất và các dịch vụ xã hội cơ bản, đời sống tinh thần và các vấn
đề văn hoá thông tin, gắn kết cộng đồng và an ninh xã hội. (Tạp chí DS&PT)
Pháp lệnh dân số Việt Nam năm 2003 đã định nghĩa: “Chất lượng dân
số phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”.
Như vậy, chất lượng dân số là một phạm trù rộng, được hiểu là tổng thể
các thành tố tạo nên thể lực, trí lực và tinh thần của con người nói chung. Một
dân số cụ thể, dân số của mỗi nước hoặc mỗi vùng và vào những thời kỳ nhất
định sẽ có một chất lượng nhất định. Chất lượng dân số được nhìn nhận liên
quan biện chứng đến số lượng dân. Chất lượng dân số bao hàm chất lượng
người từ lúc mới sinh cho đến khi chết, cả nam và nữ. Chất lượng dân số
không chỉ được đánh giá về nhân trắc học (chiều cao, cân nặng, các số đo cơ
bản về vòng ngực, bụng, tay, chân, sự cân đối của cơ thể với từng lứa tuổi...),
tố chất, sức chịu đựng dẻo dai… mà còn được nhìn nhận thông qua cuộc sống
tinh thần, con người quan hệ với nhau như thế nào, họ có cơ hội bình đẳng

13


không trước sự lựa chọn việc làm, giáo dục, phúc lợi, hôn nhân gia đình..., có
được tôn trọng và tự do cá nhân không, họ có môi trườn g để phát huy khả

năng sáng tạo hay không trong thực tế. Chất lượng dân số bao hàm các khái
niệm về chất lượng nguồn nhân lực, khái niệm chất lượng lao động.
b. Thành phần của chất lượng dân số
Thep pháp lệnh dân số, chất lượng dân số bao gồm các thành phần sau
- Thể chất: Gồm nhiều yếu tố khác nhau trong đó các số đo về chiều
cao, cân nặng, sức mạnh, tốc độ, sức bền, sự khéo léo, dinh dưỡng, bệnh tật,
tuổi, thọ, gen di truyền của người dân.
- Trí tuê: Gồm các yếu tố như trình độ học vấn, thẩm mỹ, chuyên môn
kỹ thuật, cơ cấu ngành nghề... thể hiện qua tỷ lệ biết chữ, số năm bình quân đi
học/người, tỷ lệ người có bằng cấp được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ.
- Tinh thần: Gồm các yếu tố về ý thức và tính năng động xã hội thể hiện
qua mức tiếp cận và tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa, thông tin,... cùng
người dân.
c. Đặc trưng của chất lượng dân số
Chất lượng dân số có 3 đặc trưng cơ bản sau:
1- Chất lượng dân số có tính đặc trưng theo từng vùng, từng thời kỳ.
2- Trong chất lượng dân số yếu tố chất lượng con người đòi hỏi phải
được tích lũy, phát triển, rèn luyện qua thời giai, nó sẽ mất dần đi nếu không
được sử dụng, rèn luyện và phát triển thường xuyên.
3- CLDS gắn liền với quá trình tái sản xuất dân số nên nó cũng mang
tính mâu thuẩn và tính quán tính, để đổi mới chất lượng dân số chúng ta cần
thời gian và thế hệ.
2.1.2 Nâng cao chất lượng dân số
2.1.2.1 Ý nghĩa nâng cao chất lượng dân số
Có sự liên quan chặt chẽ giữa chất lượng dân số và phát triển con người,
phát triển nguồn nhân lực, chất lượng giống nòi và chất lượng cuộc sống.

14



Việc cải thiện, nâng cao chất lượng dân số sẽ góp phần cải thiện các vấn đề
đó. Nâng cao chính chất lượng dân số cho thấy sự cải thiện chất lượng cuộc
sống và là cách nâng cao chất lượng cuộc sống tốt hơn nữa.
Theo điều 20 PLDS 2003 chỉ rõ:
1. Nâng cao chất lượng dân số là chính sách cơ bản của Nhà nước trong
sự nghiệp phát triển đất nước.
2. Nhà nước thực hiện chính sách nâng cao chất lượng dân số về thể
chất, trí tuệ và tinh thần nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người của Việt
Nam lên mức tiên tiến của thế giới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước
2.1.2.2 Nội dung nâng cao chất lượng dân số
a. Nâng cao yếu tố thể chất
Thể chất con người phụ thuộc vào quy luật di truyền (chi phối tầm vóc,
thể lực nhu chủng tộc, giống nòi, giới tính, các yếu tố gen,..), phụ thuộc vào
yếu tố môi trường, yếu tố chăm sóc dinh dưỡng đặc biệt trong giai đoạn bào
thai, sơ sinh và đầu đời từ (1-5 tuổi) và giai đoạn vị thành niên (10-19 tuổi);
phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, hoạt động thể lực (sự rèn luyện sức khỏe,
thể dục thể thao, lao động, vui chơi giải trí...); phụ thuộc vào chất lượng đời
sống gia đình và xã hội.
b. Nâng cao yếu tố trình độ học vấn và chuyên môn
Nâng cao trí tuệ là nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật,
cơ cấu ngành nghề, phát triển tài năng, phát huy năng lực sáng tạo... Trình độ
học vấn của dân cư được nâng cao sẽ là chìa khóa cho việc phát triển trí tuệ
của họ. Học vấn được nâng lên người dấn sẽ có được cái nhìn và thay đổi
hành vi ứng xử với thế giới và quan trọng nhất là giúp họ cải thiện được việc
làm và thu nhập. Nhưng các hoạt động này còn phụ thuộc vào bản thân người
dân tức là phụ thuộc vào nhận thức, thói quen, văn hóa,...

15



Nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp là điều kiện để người dân
có cơ hội và tận dụng cơ hội tham gia vào các khóa đào tạo nghề để có được
nghề nghiệp chuyên môn nào đó đem lại thu nhập cho họ.
c. Nâng cao yếu tố tinh thần
Nâng cao yếu tố tinh thần phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản: Giáo dục,
đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa, chính trị, truyền thống gia đình, dân tộc, chất
lượng đời sống văn hóa, thông tin và giải trí, điều kiện môi trường xã hội phát
triển, phong tục, tập quán và các phong trào xã hội và sinh hoạt tôn giáo.
Nâng cao yếu tố tinh thần của con người là nhằm nâng cao ý thức và
tính năng động xã hội của con người thể hiện qua sự gia tăng mức độ tiếp cận,
hưởng thụ và tham gia các dịch vụ xã hội, văn hóa, thông tin, vui chơi, giải
trí... của người dân.
d. Nâng cao đời sống vật chất và các dịch vụ xã hội cơ bản
Dịch vụ là một hình thức lao động để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống
và sản xuất, là sản phẩm của sức sản xuất và trình độ khoa học kỹ thuật phát
triển đến một giai đoạn nhất định.
Dịch vụ xã hội là một loại dịch vụ có tổ chức của nhà nước nhằm cung
cấp những trợ giúp hay tư vấn trong những vấn đề như sức khỏe, nhà ở, chăm
sóc trẻ em, luật pháp,...
(Hoàng Lê Đông Thảo, 2012)
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Tuy nhiên, ở trong
nghiên cứu này chúng ta sẽ nghiên cứu chủ yếu các nhóm yếu tố sau:
2.1.3.1. Yếu tố sinh học và di truyền
Như trên đã phân tích, yếu tố về di truyền và sinh học dưới giác độ
chủng tộc không tác động đến chất lượng dân số. Tuy nhiên, nhiều nghiên
cứu đã cho thấy, những đứa trẻ sinh ra từ các bà mẹ chưa thành niên (dưới 18
tuổi) và từ những bà mẹ quá lớn tuổi (trên 40 tuổi) có nguy cơ cao về chậm


16


phát triển thể chất. Vì vậy, tuyên truyền rộng rãi cho phụ nữ, không sinh con
trước tuổi 22 và sau tuổi 35 cũng là một giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng dân số.
2.1.3.2. Chất lượng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống có nội dung rất phong phú liên quan đến mọi mặt
của cuộc sống con người. Nó thể hiện thông qua mức độ thỏa mãn nhu cầu về
vật chất, cũng như tinh thần của cá nhân, cộng động và toàn thể xã hội. Chất
lượng cuộc sống là một khái niệm động, không ngừng thay đổi từ thấp đến
cao phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, chế độ chính trị, quan niệm
về văn hóa và truyền thống của mỗi dân tộc ở từng giai đoạn phát triển của xã
hội. Vì vậy, cần phải sử dụng nhiều chỉ tiêu đánh giá mới phản ánh hết bản
chất của chất lượng cuộc sống. Theo William Bell, chất lượng cuộc sống có
thể được đánh giá thông qua 12 chỉ báo: (1)An Toàn; (2) Sung túc về kinh tế;
(3) Công bằng về pháp luật; (4) An ninh quốc gia; (5) Bảo hiểm lúc tuổi già,
ốm đau; (6) Hạnh phúc về tinh thần; (7) Sự tham gia vào đời sống xã hội; (8)
Bình đẳng về giáo dục, nhà ở và nghỉ ngơi; (9) Chất lượng đời sống văn hóa;
(10) Quyền tự do công dân; (11) Chất lượng môi trường kỹ thuật (giao thông,
nhà ở, thiết bị sinh hoạt, thiết bị giáo dục, thiết bị ytế…; (12)Chất lượng môi
trường sống.
Như vậy, có thể hiểu là chất lượng cuộc sống phản ánh sự thỏa mãn
nhu cầu, trước hết là nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người. Mức độ đáp ứng
sự thỏa mãn càng cao thì chất lượng cuộc sống càng cao. UNDP đã từng
thống kê tới nhu cầu cơ bản của con người khi đánh giá chất lượng cuộc sống.
Chất lượng cuộc sống càng cao sẽ giúp cho con người phát triển cả về thể
chất, trí tuệ và tinh thần. Điều này làm cho chất lượng dân số được cải thiện.
Ngược lại, nếu mức độ thỏa mãn nhu cầu, đặc biệt là các nhu cầu cơ bản của
cuộc sống con người không được đáp ứng đầy đủ, là một nhân tố làm cho con


17


người không phát triển về thể lực; trí lực và tinh thần. Đây là nguyên nhân
làm cho chất lượng dân số giảm sút.
2.1.3.3. Kinh tế
Có thể phân chia ảnh hưởng của kinh tế đến chất lượng dân số thành
hai cấp độ: cấp độ kinh tế vĩ mô (sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia) và ở
cấp độ vi mô (kinh tế của hộ gia đình). Nếu xét ở cấp độ kinh tế vĩ mô, với
một nền kinh tế phát triển, Chính phủ sẽ có điều kiện đầu tư cho phát triển
giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho người dân, từ đó cải thiện trí lực của
dân số. Thứ hai, với một nền kinh tế phát triển, Chính phủ sẽ có điều kiện để
đảm bảo an ninh xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao sức khỏe về
thể lực cho người dân. Mặt khác, nếu kinh tế phát triển, Chính phủ sẽ có điều
kiện để đầu tư phát triển hạ tầ ng cơ sở y tế, tăng cường đào đạo cán bộ y tế
và mua sắm trang thiết bị y tế hiện đại phục vụ cho công cuộc chăm sóc sức
khỏe của người dân từ đó nâng cao chất lượng dân số.
Ở cấp độ kinh tế gia đình (lao động, việc làm), những gia đình giàu có
thường có tiền đầu tư về giáo dục cho con cái để nâng cao trình độ học vấn.
Đối với những gia đình này vấn đề bình đẳng nam nữ về giáo dục (giữa con
trai và con gái cũng được chú ý). Đồng thời những gia đình này thường có
điều kiện sống tốt (nhà ở và môi trường gần cận gia đình: công trình vệ sinh,
nước sạch). Đây cũng là điều kiện để giúp con người ít mắc bệnh hơn đặc biệt
là các bệnh thường gặp ở nước nghèo như: Giun sán, bệnh phổi, thấp khớp,
lao... Do điều kiện kinh tế gia đình khá giả họ có điều kiện tận hưởng dịch vụ
y tế hiện đại nhằm bảo vệ sức khỏe và đẩy lùi cái chết. Tuy nhiên, khi nói đến
điều kiện kinh tế ở cấp độ gia đình có ảnh hưởng đến nâng cao chất lượng dân
số là phải nói đến điều kiện kinh tế của đại bộ phận dân cư chứ không phải là
điều kiện kinh tế của một vài hộ gia đình đơn lẻ. Vì vậy, công cuộc cải cách

kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống chung của toàn xã hội chính
là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới cải thiện chất lượng dân số.

18


2.1.3.4. Y tế và chăm sóc sức khỏe
Sức khoẻ là vốn quý của con người. Giữ gìn sức khoẻ, bảo vệ và chăm
sóc sức khoẻ là nhiệm vụ của mỗi người và toàn xã hội. Sức khoẻ của mỗi
người lại phụ thuộc vào rấ t nhiều yếu tố: sinh học, điều kiện sống, trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của từng nước, môi trường và chính sách chăm sóc
sức khoẻ quốc gia.
Ngày nay, trình độ phát triển y học và phương tiện phòng trị bệnh ngày
càng cao, nhưng lại không đồng đều giữa các quốc gia. Điều đó làm cho tỷ lệ
người có sức khoẻ tốt ở các nước nghèo thấp hơn các nước giàu. Tại các nước
nghèo tỷ lệ người mắc các bệnh như: lao, sốt rét, suy nhược cơ thể ở người
lớn, suy dinh dưỡng trẻ em, bệnh giun sán rất cao. Do sự tiến bộ về y học trên
thế giới, loài người đã không còn khiếp sợ các loại bệnh trên. Tuy nhiên, thế
giới lại xuất hiện một số bệnh khác, các bệnh này lại lan truyền rất nhanh ở cả
các nước đang phát triển và phát triển như: HIV/AIDS; bệnh căng thẳng thần
kinh (stress); H1N1…Các chỉ báo đánh giá sự chăm sóc bảo vệ sức khoẻ của
nhân dân, nâng cao chất lượng dân số là:
- Chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ em: Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng
các loại vác-xin; số nhà hộ sinh trên tổng số dân; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy
dinh dưỡng…
- Chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại cộng đồng: số cơ sở y tế; số giường
bệnh; số nhân viên y tế (y sỹ, bác sỹ, y tá…) trên 10.000 dân; tỷ lệ các loại
bệnh đặc trưng theo vùng địa lý; tỷ lệ người nhiễm HIV…
- Sàng lọc trước sinh và sơ sinh: Tỷ lệ các cơ sở y tế có cung cấp dịch
vụ sàng lọc trước sinh và sơ sinh; Tỷ lệ phụ nữ mang thai được xét nghiệm

sàng lọc khi mang thai; Tỷ lệ trẻ sơ sinh được xét nghiệm xác định dị tật; Tỷ
lệ trẻ em được điều trị sớm các dị tật bẩm sinh…

19


2.1.3.5. Giáo dục
Những chỉ báo phản ảnh tình trạng của giáo dục là: tỷ lệ người đi học;
số luợng học sinh ở các cấp (nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, trung học, cao đẳng,
đại học), tỷ lệ đi học đúng tuổi ở các cấp học…
Giáo dục ảnh hưởng tới chất lượng dân số thông qua cơ chế sau:
Giáo dục ảnh hưởng tới chất lượng dân số về mặt trí tuệ. Nhờ phát triển
giáo dục, người dân được nâng cao hiểu biết và kiến thức giúp cho họ có đủ
trình độ tiếp thu khoa học – kỹ thuật mới, tiên tiến. Trình độ học vấn cao giúp
con người có tính năng động và sáng tạo, lao động tự giác, có kỷ luật và có
năng suất cao.
Giáo dục để nâng cao chất lượng dân số là quốc sách của mỗi quốc gia.
Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của các quốc gia đó mà Chính phủ quyết
định mức đầu tư cho giáo dục thích hợp.
Giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến mức sinh. Khi trình độ học vấn càng
cao thì mức sinh càng thấp. Tuy nhiên, ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh
chỉ dừng lại ở một giới hạn nhất định. Nếu trình độ học vấn vượt khỏi giới
hạn trên thì tác động của giáo dục đến mức sinh không còn nữa. Cần chú ý
rằng, chỉ có trình độ học vấn trung bình của toàn bộ phụ nữ cả một vùng , một
tỉnh, một nước… mới có thể tác động làm giảm mức sinh của vùng, chứ
không phải là trình độ học vấn của đơn lẻ một phụ nữ. Mức sinh giảm, số con
trung bình của mỗi phụ nữ (mỗi gia đình) ít đi, người dân có điều kiện hơn
trong việc chăm sóc dinh dưỡng, sức khoẻ và giáo dục cho các con, không
phân biệt con trai hay con gái. Qua đó, chất lượng dân số được nâng lên.
Giáo dục có tác động trực tiếp đến việc đẩy lùi cái chết. Những người

có trình độ học vấn cao thường có kiến thức về cơ chế lây truyền bệnh tật để
phòng và chữa bệnh kịp thời. Mặt khác, khi có trình độ học vấn cao, họ có
điều kiện để làm những công việc đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao và do đó
thu nhập cao. Khi thu nhập cao, người ta có điều kiện tận hưởng những dịch

20


vụ chăm sóc sức khoẻ tốt hơn và vì vậy sức khoẻ của người dân được đảm
bảo. Đó cũng là một nhân tố để nâng cao chất lượng dân số.
2.1.3.6. Môi trường
Thiên nhiên đã sinh ra con người, cung cấp tài nguyên và tạo nên môi
trường sống cho con người. Mối quan hệ giữa con người và môi trường là mối
quan hệ luôn gắn bó mật thiết với nhau. Ở những vùng khí hậu ôn hoà, tài
nguyên phong phú, con người có điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Ngược lại , ở những nơi điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, con người khó có
điều kiện để cải thiện cuộc sống, nâng cao chất lượng dân số.
Tuy nhiên, cần thấy rằng các thành tố của môi trường luôn không ổn
định hoặc không hoàn toàn có lợi để con người có thể duy trì tốc độ tăng
trưởng của phát triển như một hằng số. Một thành tố của môi trường trong
những điều kiện nhất định có thể trở thành những nhân tố cản trở sự phát triển
của con người. Ví dụ , thiên tai có thể làm người chết, mùa màng bị phá hoại ,
làm khó khăn rất nhiều cho việc nâng cao chất lượng sống của người dân. Mặt
khác, trong mối quan hệ với môi trường, do mức sinh cao, dân số tăng nhanh,
để nâng cao chất lượng cuộc sống con người đã không ngừng phát triển sản
xuất và tăng cường khai thác tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, con người đã tàn
phá môi trường, làm thay đ ổi hệ sinh thái, thay đổi môi trường sống của các
sinh vật và của chính bản thân con người với xu hướng môi trường ngày càng
xấu đi, gây tác hại đến sức khỏe của con người. Hiện nay, do tình trạng đất,
nước, không khí bị ô nhiễm mà lương thực, thực phẩm mà con người sử dụng

cũng bị ô nhiễm, bị nhiễm độc, chủ yếu do phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ,
thuôc trừ sâu.
Giữa gia tăng dân số và ô nhiễm môi trường có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Sự gia tăng dân số quá mức dẫn tới quá tải về môi trường gây ra những
phản ứng không có lợi cho bản thân con người và qua đó làm cản trở quá
trình nâng cao chất lượngdân số.

21


2.1.3.7. Các yếu tố khác
Các yếu tố khác như chính sách của nhà nước; văn hóa, thể dục thể thao
, du lịch, vui chơi giải trí cũng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân và qua đó cũng góp phần nâng cao chất lượng dân số.
(PGS.TS. Nguyễn Thị Thiềng, 2011)
2.1.4 Các chủ trương chính sách của đảng và nhà nước có liên quan
Pháp lệnh Dân số 06/2003/PL-UBTVQH11 ngày 09/01/2003 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định: “Nâng cao chất lượng dân số là chính sách
cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước. Nhà nước thực hiện
chính sách nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần nhằm
nâng cao chỉ số phát triển con người của Việt Nam lên mức tiên tiến của thế
giới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, xác định
“Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh
thần của toàn bộ dân số”. Các thành phần của chất lượng dân số bao hàm: Thể
chất gồm nhiều yếu tố khác nhau trong đó có các số đo về chiều cao, cân
nặng, sức mạnh, tốc độ, sức bền, sự khéo léo,.. dinh dưỡng, bệnh tật, tuổi thọ,
các yếu tố giống nòi, gen di truyền (như tật nguyền bẩm sinh, thiểu năng trí
tuệ, nhiễm chất độc hóa học, chất độc màu da cam…) của người dân; Trí
tuệ gồm các yếu tố trình độ học vấn, thẩm mỹ, trình độ chuyên môn kỹ thuật,
cơ cấu ngành nghề… thể hiện qua tỷ lệ biết chữ, số năm bình quân đi học/đầu

người, tỷ lệ người có bằng cấp, được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật... ; Tinh
thần gồm các yếu tố về ý thức và tính năng động xã hội thể hiện qua mức độ
tiếp cận và tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thông tin, vui chơi, giải trí
... của người dân.
Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản (DS-SKSS) Việt Nam giai đoạn
2011 – 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt qua Quyết định số
2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011. Chiến lược đã đề ra 11 mục tiêu nhằm thực
hiện thành công việc nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe

22


sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu
dân số và phân bố dân số, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chiến lược quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030 với mục tiêu chung là đảm bảo mọi
người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, mở rộng tiếp
cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Người dân được sống trong
cộng đồng an toàn phát triển tốt cả về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc
bệnh tật, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, nâng cao chất lượng dân số.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Bài học kinh nghiệm về nâng cao chất lượng dân số trên thế giới
a. Trung Quốc
Trong khoảng 30 năm về trước, Trung Quốc đã gặt hái được nhiều
thành tựu quan trọng trong việc giảm đói nghèo và phát triển kinh tế xã hội.
Nếu năm 1950 bình quân mỗi phụ nữ trung bình sinh 6,08 con thì đến năm
2002 giảm xuống chỉ còn 1,8 con. Hàng năm, tổng suất sinh giảm bình quân
0,17 con. Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên trong toàn đất nước chỉ có 19,32%
(năm 2000). Mức độ sử dụng các BPTT năm 2001 là 86%, trong đó 94% sử

dụng BPTT hiện đại. Đây là mức phấn đấu ước mơ của nhiều quốc gia đang
phát triển. Trong khi tìm tòi các biện pháp để giải quyết vấn đề dân số một
cách toàn diện và củng cố phát triển xã hội bền vững, Trung Quốc đã rút ra
nhiều kinh nghiệm về ba khía cạnh. Khía cạnh đầu tiên là xây dựng một xã
hội cân bằng về dân số, tiết kiệm tài nguyên và thân thiện với môi trường với
phương châm phối hợp là chủ yếu. Thứ hai là thực hiện phương pháp lấy
người dân làm trung tâm, bảo vệ quyền công dân bằng mọi cách và chú trọng
đến phát triển gia đình. Thứ ba là đặt sự hợp tác lên hàng đầu, cải tổ nguồn
thông tin và liên tục đẩy mạnh sự đổi mới trong các chương trình dân số và kế
hoạch hóa gia đình.

23


Kế hoạch 5 năm (2011-2015) lần thứ mười hai là một thời kỳ quan
trọng để kết nối những giai đoạn trước và sau của công cuộc phát triển dân số
ở Trung Quốc. Những thử thách cho việc phát triển dân số ở Trung Quốc lúc
đó bao gồm sự gia tăng không ngừng của dân số toàn quốc, trình độ giáo dục
và y tế thấp, mâu thuẫn về cấu trúc ngày càng rõ rệt, số dân nhập cư gia tăng
liên tục và chức năng truyền thống của gia đình bị giảm đi. Nắm được những
vấn đề này, Chính phủ Trung Quốc coi công tác dân số và phát triển cân bằng
dân số là nhiệm vụ chiến lược dài hạn và lồng ghép vào kế hoạch tổng thể của
quốc gia trong kế hoạch 5 năm lần thứ mười hai. Chính phủ cũng đã thay đổi
định hướng phát triển của Trung Quốc từ chú trọng nâng cao GDP sang quan
tâm tới sự phát triển toàn diện của con người. (TS. Nguyễn Quốc Anh, Tạp chí
DS&PT);
b. Malaysia với vấn đề: “Đẩy mạnh phát triển gia đình và sức khỏe
sinh sản trong bối cảnh toàn cầu hóa và đô thị hóa”.
Phó chủ tịch Ủy ban Dân số và Phát triển gia đình quốc gia Malaysia,
đã phát biểu với chủ đề “Đẩy mạnh phát triển gia đình và sức khỏe sinh sản

trong bối cảnh toàn cầu hóa và đô thị hóa: Kinh nghiệm của Malaysia,” giới
thiệu tình trạng, những vấn đề và khó khăn các gia đình tại Malaysia đã phải
đối mặt. Trong vòng mười năm trở lại đây, các hộ gia đình ở Malaysia đã trải
qua nhiều biến động về cấu trúc gia đình (gia đình 3 thế hệ chuyển thành gia
đình 2 thế hệ gồm bố mẹ và con, v.v...) và đời sống gia đình chịu sự tác động
của quá trình toàn cầu hóa, công nghiệp hóa và phát triển kinh tế -xã hội. Cấu
trúc gia đình truyền thống dần bị lung lay do sự phát triển về mặt giáo dục,
các hoạt động kinh tế, sự phổ cập văn hóa, vấn đề nhập cư, đô thị hóa và mức
sống. Các thay đổi khác gồm có tỷ lệ sinh giảm, số thành viên trong một gia
đình giảm, số gia đình hai thế hệ tăng lên, tỷ lệ ly hôn và nuôi con một mình
tăng, giá trị gia đình truyền thống bị hạ thấp, dân số già đi và lực lượng lao
động nữ tăng lên. Những xu hướng này sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng của

24


gia đình trong việc hoàn thành các chức năng cơ bản gồm sản xuất, sinh sản
và hòa nhập xã hội cũng như nhu cầu của các thành viên trong gia đình về sức
khỏe, dinh dưỡng, nhà ở, chăm sóc thể chất, tinh thần và phát triển cá nhân,
gây khó khăn cho sự ổn định xã hội và văn hóa của các gia đình.
Nhận biết được tầm quan trọng của vấn đề, Malaysia đã đề ra những
chính sách về gia đình một cách thích hợp. Hợp tác với các tổ chức phi chính
phủ và khu vực kinh tế tư nhân, các ban ngành chức năng của Chính phủ đã
thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền nhằm đảm bảo sự ổn định về xã hội
và văn hóa cho các gia đình, củng cố lợi thế vốn có của gia đình và trợ giúp
về mặt nhu cầu cho các gia đình. Chính phủ hi vọng sẽ có thể xây dựng một
xã hội thân thiện, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân và phát triển
quốc gia. (TS. Nguyễn Quốc Anh, Tạp chí DS&PT)
c. Bài học rút ra từ kinh nghiệm nâng cao chất lượng dân số của các nước
- Chính sách có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dân

số của mỗi nước, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia mà cần
nghiên cứu để đưa ra hệ thống chính sách hợp lý.
- Sự phối hợp giữa các bên trong quá trình tìm kiếm và thực hiện các
biện pháp nâng cao chất lượng dân số đóng vai trò quyết định đến sự thành
công của các hoạt động và để có được sự tham gia phối hợp của tất cả các
thành phần liên quan thì bên cạnhviệc tăng cường năng lực và nhận thức của
cả đội ngũ cán bộ chính quyền và người dân về sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng dân số cần có sự liên tục đẩy mạnh sự đổi mới trong các chương
trình về nâng cao chất lượng dân số.
2.2.2 Bài học kinh nghiệm về nâng cao chất lượng dân số tại Việt Nam
a. Thái Bình
Những năm gần đây, Thái Bình luôn coi trọng thực hiện công tác dân
số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGÐ). Ðặc biệt, nhiều mô hình nâng cao
chất lượng dân số được triển khai rộng khắp ở các địa phương mang lại hiệu

25


×