Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước – những tồn tại và các giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228 KB, 31 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), cổ phần hoá (CPH) DNNN là
một quá trình tất yếu có tính phổ biến của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu.
Bởi vì việc sắp xếp và chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần tiến lên hình thành các tập đoàn, công
ty đa quốc gia đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả ở thị trường trong nước để đổi mới khu vực kinh tế nhà
nước ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.
Ở Việt Nam vấn đề CPH - DNNN được đặt ra từ năm 1991. Thực tiễn 10 năm đổi mới đã khẳng
định CPH - DNNN không phải là tư nhân hoá mà là quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu, tạo cơ sở cho
đổi mới các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn
nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, tạo động lực cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
đồng thời CPH - DNNN cũng không phải làm suy yếu nền kinh tế Nhà nước mà là một giải pháp quan
trọng để kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo thật sự của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Nghị quyết Đại hội IX đã nhấn mạnh: “Thực hiện chủ trương CPH những doanh nghiệp mà Nhà
nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc
đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quá”. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công việc CPH-DNNN ở
nước ta và từ những kiến thức, lý luận đã được trang bị ở trường kết hợp với kiến thức thực tế, em đã
chọn đề tài: “Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước – những tồn tại và các giải pháp” để nghiên
cứu trong bài viết của mình.
VI CPH - DNNN là một chương trình gồm nhiều công việc, nhiều khâu, nhiều thủ tục phức tạp,
cho nên trong quá trình nghiên cứu em chỉ tập trung đi sâu vào một số vấn đề về thực tế CPH - DNNN.
Qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình CPH diễn ra nhanh hơn nhằm đáp ứng và hoàn
thành được kế hoạch mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em
rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn để đề tài được hoàn thiện
hơn.
Bô cục của đề tài được chia làm 3 phần:
Phần I: LÝ LUẬN CHƯNG VỀ CPH-DNNN
Phần II: THỰC TRẠNG VAN ĐỀ CPH-DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Phần III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CPH-DNNN.



PHẦN I
LÝ LUẬN CHƯNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. NHŨNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Những khái niệm chung.
Cổ phần hoá (CPH) các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) hay nói cách khác chuyển đổi các
DNNN thành Công ty cổ phần là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức
sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều cổ phần do tối thiểu
hai cổ đông sở hữu, được phép phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân. Các cổ đông chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn mà họ đã góp.
Đặc điểm của Công ty cổ phần.
+ Về thành viên công ty, trong suốt quá trình hoạt động phải có ít nhất 7 thành viên tham gia Công
ty cổ phần.
+ Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ
phần được gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu,
mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phiếu.
+ Cổ phiếu được phát hành dưới hai hình thức: cổ phiếu có ghi tên và cổ phiếu không ghi tên. Các
cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng; các cổ phiếu có ghi tên là cổ phiếu của các sáng lập
viên thuộc Hội đồng quản trị Công ty và chỉ được chuyên nhượng theo các điều kiện quy định.
+ Trong quá trình họat động, Công ty cổ phần được phép phát hành các loại chứng khoán như cổ
phiếu, trái phiếu ra thị trường để huy động vốn.
+ Về chế độ trách nhiệm , Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khỏan nợ của công ty bằng các
tài sản của công ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty đến hết giá trị các
cổ phần mà họ sở hữu.
Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần:
+ Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của Công ty gồm tất
cả các cổ đông.
+ HĐQT là cơ quan quản lý công ty gồm từ 3 - 12 thành viên. HĐQT có toàn quyền nhân danh
công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty từ những vấn đề thuộc
thẩm quyền của HĐQT.

+ Giám đốc (Tổng giám đốc) Công ty: Là người tiến hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của
công ty, là người đại diện pháp lý cho công ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT về việc thực hiện các


quyền hạn, nghĩa vụ được giao.
+ Công ty có 2 kiểm soát viên do đại hội đồng bầu ra. Kiểm soát viên thay mặt các cổ đông kiểm
soát các hoạt động của Công ty, chủ yếu là ccác vấn đề tài chính, vì vậy phải có ít nhất một kiểm soát viên
có trình độ chuyên môn về kế toán.
2. Tại sao phải cổ phần hóa các DNNN?
Trong thập kỷ 80, quá trình chuyển đổi sở hữu Nhà nước đã trở thành một hiện tượng chủ yếu có
tính toàn cầu. Hoà chung với quá trình đó thì ở nước ta, vấn đề CPH - DNNN được đặt ra từ năm 1991,
xuất phát từ tình hình kinh tế Thế giới và đặc biệt là tình hình kinh tế của Việt Nam, trong đó khu vực
kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, CPH - DNNN ở nước ta diễn ra với tốc độ chậm, do
nhiều nguyên nhân trong đó có cả khách quan và chủ quan, ở đây, trước hết chúng ta phải khẳng định lại
rằng,CPH-DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn, phù hợp với quá trình đổi mới, mở cửa, thực hiện mục tiêu công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Hiện nay, ở nước ta với khoảng gần 5.740 DNNN, nắm giữ 58% tổng số vốn của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh doanh còn thấp. Chỉ khoảng 50% doanh nghiệp Nhà nước
làm ăn có lãi, trong đó thực sự làm ăn có lãi chỉ chiếm một tỷ lệ thấp, chưa đến 30%. Trên danh nghĩa,
DNNN nộp tới 70 - 80% tổng doanh thu cho ngân sách Nhà nước, nhưng nếu trừ khấu hao tài sản cố định
và thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được khoảng 30% tổng doanh thu cho ngân sách Nhà nước. Đặc
biệt, nếu tính đủ chi phí về tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì DNNN hoàn toàn không tạo ra
được tích luỹ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là tài sản cố định, đăc biệt là máy
móc thiết bị quá cũ, lạc hậu về kỹ thuật so với Thế Giới từ 2 đến 3 thế hệ, có ngành từ 4 đến 5 thế hệ.
Hiện nay có đến 54% DNNN Trung ương và DNNN địa phương còn sản xuất bằng công nghệ thủ công.
Quy mô DNNN còn nhỏ, vốn ít. Thực tế vốn hoạt động chỉ bằng 80% vốn ghi trong danh sách, riêng vốn
lưu động chỉ có 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi- tài sản, vật tư,
hàng hoá mất mát, kém phẩm chất và thua lỗ chưa được xử lý.
Với thực trạng kỹ thuật và tài chính như trên, DNNN hầu như không có khả năng đổi mới công

nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Ngân sách Nhà nước cũng không có khả năng cấp vốn
và bao cấp cho DNNN như trước đây., Ngân hàng cho vay cũng đòi hỏi DNNN phải có những điều kiện
đảm bảo như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Các DNNN ở trong cái
vòng luẩn quẩn, vốn thiếu nhưng không có cách nào để huy động. Để khắc phục những khó khăn đó, hiện
nay CPH các DNNN được coi là một giải pháp lớn nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho
DNNN đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên
thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra sức bật mới trong sản xuất kinh doanh.
3. Mục tiêu của CPH - DNNN
CPH - DNNN nhằm đạt được 3 mục tiêu đã được cân nhắc kỹ theo thứ tự ưu tiên như sau:


3.1 Mục tiêu thứ nhất là phải chuyển một phần sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ
đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ nhất: Chúng ta hiểu rằng mục đích CPH - DNNN là chuyển quyền sở hữu cho các cổ đông,
chứ không phải là quyền sử dụng - nghĩa là mua đứt bán đoạn, chứ không phải như cho thuê, cho vay.
Thứ hai: Tài sản nói ở đây chủ yếu được thể hiện dưới hình thức tổng hợp và vốn. Vì vậy, không
cần thiết phải xem là nên CPH phần nào: tư liệu sản xuất hay vật phẩm tiêu dùng. Bởi vì, trong nền kinh
tế thị trường thì sự chuyển hoá giữa hai hình thức là thường xuyên và không khó khăn gì.
Thứ ba, như chúng ta đã biết, hiện nay các DNNN làm ăn rất kém hiệu quả. Đó vừa là gánh nặng
cho ngân sách Nhà nước vừa là nguy cơ đối với nền tài chính quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường mà
làm ăn kém hiệu quả thì nhất định sớm muộn cũng bị phá sản. Vì vậy mục tiêu cao nhất cuối cùng của
CPH là phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của CPH là phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nhưng nếu duy trì sở hữu Nhà nước thì nhất định sẽ dẫn đến hiệu quả kém. Vì
vậy mục tiêu số 1 của CPH là phải giải quyết vấn đề quyền sở hữu, tức là phải đa dạng hoá quyền sở hữu
thì mới có thể nâng cao được hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
3.2. Mục tiêu thứ hai là, phải huy động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để phát
triển sản xuất kinh doanh.
Các DNNN đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển. Nhưng lấy ở đâu? Nhà nước không thể và
không nên tiếp tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng sẽ không bao giờ cho
DNNN vay nếu DNNN khống được cải tổ và có phương án làm ăn tốt có sức thuyết phục. Còn nước

ngoài thì không bao giờ cho DNNN vay nếu giữ nguyên trạng họ chỉ có thể làm ăn với DNNN thông qua
các hình thức mua, thuê, liên doanh, mua cổ phần...
Vậy là muốn có vốn để đầu tư cho phát triển, DNNN chỉ có thể huy động được thông qua hình thức mua
bán cổ phần.
3.3 Mục tiêu thứ ba của CPH- DNNN là tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.
Chúng ta đã phải trải qua một thời kỳ tìm kiếm lâu dài và cứ loay hoay mãi mà chưa đưa lại cho người lao
động một sự làm chủ thực sự “ làm chủ tập thể” đã biến thành “vốn chủ” làm chủ thông qua “bộ tứ” đã
biến thành “tự bố” tức là giám đốc quyết định tất cả ( QĐ217/HĐBT).
Ngoài ra người lao động đã giác ngộ ra rằng nếu không làm chủ được về kinh tế thì mọi sự làm chủ đều
vô nghĩa chỉ là hình thức. Chỉ khi có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong HĐQT thì
lúc đó người lao động mới có quyền làm chủ thực sự, không bị một sự o ép nào.
4. Nội dung của CPH
4.1 Đối tượng áp dụng CPH
Đối tượng làm thí điểm CPH là các DNNN có đủ ba điều kiện sau:


Thứ nhất: Là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Thứ hai: Các DNNN không thuộc diện nhà nước cần đầu tư 100% vốn (như an ninh, quốc phòng hoặc
một số ngành then chốt)
Thư ba: Các DNNN đang làm ăn có lãi hoặc tuy trước mắt gặp khó khăn nhưng tương lai hoạt động tốt.
4.2 Các phương pháp CPH - DNNN
Hiện nay có một số phương pháp CPH - DNNN hay được sử dụng trên thế giới là:
• Bán cổ phần cho công chúng:
Là việc nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp cho công chúng.
Việc bán này thường được thực hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán hay một tổ chức tài chính
trung gian. Cũng có khi việc bán một số cổ phần cho công chúng được thực hiện cùng với các biện
pháp khác như bán một phần nhất định cho một số nhà đầu tư được định trước.




Bán cổ phần cho tư nhân:

Thực hiện phương pháp này có nghĩa là: Nhà nước bán một phần hay một số cổ phần của doanh nghiệp
thuộc sở hữu một phần hay hoàn toàn của nhà nước cho một số cá nhân hay một nhóm nhà đầu tư tư nhân
thông qua đấu thầu có tính cạnh tranh hay những người mua đã được xác định trước.


Những người quản lý và lao động mua doanh nghiệp.

Phương pháp CPH thường được lựa chọn để thực hiện đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Phương pháp này tạo ra sự khuyến khích lớn đối với việc tăng năng suất lao động, đồng thời cũng là cách
giải quyết vấn đề lao động trong trường hợp doanh nghiệp sắp bị giải thể. Phương pháp này được áp dụng
với kết quả rất hạn chế vì nó đòi hỏi cần phải có nguồn tài chính và tín dụng đảm bảo việc chuyển giao
doanh nghiệp cho cán bộ quản lý và người lao động.
Ớ Việt nam hiện nay, CPH-DNNN được tiến hành theo ba phương pháp sau:
+ Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm
vốn để phát triển.
+ Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp.
+ Tách một phận của doanh nghiệp có đủ điều kiện để CPH.
5. Xác định giá trị hiện có của doanh nghiệp Nhà nước trước khi CPH.
Giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm CPH là giá trị thực tế của doanh nghiệp mà người bán và người
mua cổ phần đều chấp nhận được, xác định bằng số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời
điểm CPH đã được kiểm toán hợp pháp xác nhận.


5.1 Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp.
DNNN trước khi chuyển thành công ty cổ phần, cần được tiến hành xác định giá trị theo các nguyên tắc:
- Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH
mà người mua, người bán đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá
trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả.

- Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về địa lý, uy tín, mặt hàng (nếu có). Lợi thế ở tỷ suất lợi nhuận
thực hiện tính trên vốn bình quân 3 năm trước khi CPH.
Giá trị lợi thế nói trên chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp.
Khi xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp không nhất thiết phải thuê kiểm toán độc lập. Những doanh
nghiệp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê thì cơ quan quyết định giá trị
doanh nghệp xem xét thuê tổ chức kiểm toán độc lập xác định. Tiền thuê kiểm toán được tĩnh vào chi phí
CPH.


5.2 Căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp.
- Trên sổ sách:
+ Số liệu giao vốn gần nhất.
+ Biên bản xét duyệt kế toán 3 năm trước khi CPH.
+ Toàn bộ chứng từ sổ sách liên quan.
- Số liệu kiểm kê thực tế.
+ Tài liệu kiểm kê và tài sản tiền vốn, vật tư hàng hoá.
+ Biên bản đối chiếu công nợ các bên đã xác nhận.
+ Hợp đồng giấy phép liên doanh, liên kết (nếu có)
+ Các tài liệu khác về đầu tư tài chính.
- Hiện trạng và giá trị hiện hành của từng loại tài sản, vật tư, hàng hoá.
5.3 Xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp.

Giá trị thực Số lượng thực
tế tài sản - tế của từng
tài sản

Giá thị trường của tài sản
X

tại thời điểm xác định giá

trị doanh nghiệp

X

Chất lượng còn lại
của tài sản (%)

a. Đối với tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê tính theo công thức sau:
b. Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư vốn bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại
thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Nếu số dư là ngoại tệ thì phải quy đổi ra tiền Việt nam theo tỷ giá
liên ngân hàng công bố tại thời điểm gần nhất.
c. Đối với nợ phải thu là các khoản nợ đã được đối chiếu xác nhận.
d. Đối với các khoản chi phí dở dang (bao gồm chi phí sản xuất, kinh doanh, chi phí sự nghiệp, chi phí
đầu tư xây dựng) thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ sách kế toán.
e. Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn thì tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản mà công
ty cổ phần sẽ tiếp tục kế thừa.
g. Đối với tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ sách kế toán đã
đối chiếu xác nhận tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
h. Đối với tài sản vô hình (nếu có) thì tính theo giá tộ còn lại đang hạch toán trên sổ kế toán.


i. Đối với doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh thì phải tính thêm giá trị lợi thế vào giá trị thực tế của
doanh nghiệp như sau:
- Trường họp giá trị lợi thế (như uy tín mặt hàng, vi trí địa lý) đã được đánh giá thì lấy số dư thực tế
trên sổ sách kế toán để tính vào giá trị doang nghiệp.
- Trường hợp chưa xác định được giá trị lợi thế kinh doanh thì căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch
bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp đế tính lợi thế theo công thức:
Tổng số lợi nhuận của 3 năm liền kề
Tỷ suất lợi nhuận bình quân
3 năm của doanh nghiệp


=
Tổng số vốn Nhà nước theo sổ kế toán 3 năm liền kề

suất lợi nhuận
TỷVốn
suấtnhà
lợi nước
nhuậntheo
bìnhsổ kế toán bình Tỷ
quân
Tỷbình
suấtquânchung
lợi nhuận của
của
3
năm
liền
kề
siêu
ngạch
doanh nghiệp Nhà nước cùng ngành nghề
quân 3 năm của doanh

Giá
trị lợi
tính siêu
vào
Tỷ suất
lợithế

nhuận
giá
trị
DN
ngạch
=

nghiệp

X

trên cùng địa bàn ( Tỉnh, Thành phố )

Tý suất
=

X

Giá trị thực tế của doanh nghiệp để CPH là tổng các khoản nó trên (a + b + c + d + e + g + h + i ) .
k. Những doanh nghiệp không thực hiện đúng qui định của pháp luật về kế toán, thống kê thì cơ quan
quyết định giá trị doanh nghiệp xem xét thuê tổ chức kiểm toán độc lập xác định. Tiền thuê kiểm toán
được tĩnh vào chi phí CPH.
5.4

Xác định giá trị thực tê phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là phần còn lại của giá trị thực tế doanh nghiệp trừ đi các
khoản nợ thực tế phải trả, kể cả số dư Quĩ phúc lợi, khen thưởng.

6. Ưu thế của CPH - DNNN.

Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và đầy rẫy những biến động, CPH - DNNN là lối ra phù
hợp với khu vực kinh tế Nhà nước, là giải pháp ưu thế trên nhiều mặt sau:

30%


Thứ nhất: CPH giải toả được bế tắc khủng hoảng về vốn cho doanh nghiệp CPH để tạo điều kiện
cho nó mở rộng sản suất kinh doanh. CPH có chức năng thúc đẩy quá trình xã hội hoá tư bản (vốn ), thu
hút và tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội đế đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện
nguyên lý kinh tế “ Tiền đẻ ra tiền” theo công thức: T - H - T (T > T). CPH có ưu điểm làm giảm nhẹ
gánh nặng tài chính cho nhà nước, Nhà nước có thể thu hồi bớt vốn đầu tư ở doanh nghiệp để chuyển sang
đầu tư cho các hoạt động cần ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển toàn bộ xã hội, như đầu tư
cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công trình phúc lợi, giáo dục khoa học kỹ thuật.
Thứ hai: CPH thông qua đa dạng hoá sở hữu để tạo động lực cho người lao động. CPH đảm bảo
sở hữu hoá cho người lao động tại công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu,
thực hiện quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất trên phần vốn đóng góp của họ và thật sự phấn đấu hăng
hái cho nâng cao hiệu quả đồng vốn đó.
Động lực kinh tế này góp phần khắc phục tư tưởng công chức, tác phong hành chính, bị động, sợ
sệt, không dám mạnh dạn trong sản xuất kinh doanh vốn là nhược điểm của một số cán bộ lãnh đạo
DNNN. Biến họ từ vị trí công tróc nhà nước thành nhà kinh doanh thực sự sống chết vì sự tồn tại và phát
triển của công ty. Đồng thời đây còn là điều kiện xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh.
Thứ ba, CPH cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách của nhà nước, gạt bỏ được sự chí
đạo nhiều khi phi kinh tế của các cơ quan chủ quản bên trên, đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở
thành chủ thế kinh doanh, chỉ hoạt động vì mục tiêu của doang nghiệp vì tập thể cổ đông giao phó và hoạt
động bình đẳng theo pháp luật, luật công ty, không bị chi phối, ràng buộc phi kinh tế, phi lợi ích, gây tác
hại và làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiêp. Từ đó, thực hiện được quyền làm chủ và động lực
thực sự cho công ty cổ phần, khắc phục được nhược điểm làm chủ trừu tượng chung chung trong các
DNNN, thực hiện thống nhất hài hoà về lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Thứ tư, CPH tạo điều kiện cải tiến, đổi mới công tác lãnh dạo, quản lý doanh nghiệp, tập trung
vào đồng bộ thống nhất thực sự vì lợi ích chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp. Thông qua bộ máy

điều hành của công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị - Giám đốc điều hành, để kết hợp
phân phối theo lao động với phân phối lợi nhuận ròng theo cổ phần, giải quyết thoả đáng cùng một lúc
quyền lợi của người cổ đông có vốn với người lao dộng tham gia sức lao động trong quá trình sản suất,
kinh doanh. Giám đốc điều hành có thể được lựa chọn và thuê từ các nhân tài có tư duy khoa học và kinh
nghiệm xuất sắc trong sản xuất kinh doanh, các doanh nhân chuyên nghiệp. Đây là tiền đề đảm bảo thành
công cho đổi mới, quản lý, cải tiến công ty cổ phần.
Thứ năm, CPH tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần được tự chủ, tự động trong quan hệ tự
nguyện liên doanh liên, kết kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự
nguyện hợp tác kinh doanh.


II. NHỮNG YÊU TỔ TẮC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CPH - DNNN Ở NƯỚC TA.
Công việc CPH các DNNN ở nước ta được tiến hành trong điều kiện đặc thù với những yếu tố
thuận lợi và khó khăn nhất định, cụ thể là:
1. Về các yếu tô thuận lợi
- Điều kện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp họat
động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện CPH các DNNN.
- Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề CPH các DNNN và quyết tâm thực
hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản pháp luật và dưới luật nhằm thực hiện chương trình
CPH DNNN như luật công ty, Quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế nhà
nước, Nghị định 338- HĐBT về thành lập và giải thể DNNN, đặc biệt là quyết định 202- HĐBT và chỉ thị
84-TTg của thủ tướng Chính phủ về thí điểm CPH một số DNNN... Ngoài ra còn có các quyết định, thông
tư của các Bộ và liên Bộ cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này xác định rõ quan điểm và phương
hướng chí đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.
- Tinh hình kinh tế của đất nước đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Giá cả thị trường đã
được duy trì theo hướng tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã được
giá, lãi suất ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh... Điều này đã tạo điều
kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh
nghiệp Nhà nước được CPH.

- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Nhà nước
mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giẩ ở thành thị và nông thôn ngày càng
nhiều. Đây là là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh
nghiệp được CPH.
- Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà
quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng
được về ý thức, tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và
hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho công việc thực hiện
CPH các DNNN.
- Với luật đầu tư nướcc ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của
nước nngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các DNNN sẽ được tiến hành CPH.
- Ngoài ra, với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nướcc trên thế giới trong quá
trình CPH - DNNN sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch dịnh chính sách và
tổ chứcthực hiện công việc CPH các DNNN tại Việt Nam.


2. Về các yếu tô khó khăn và cản trở
- Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình CPH ở nước ta là do khu vực tư nhân nhỏ bé và
yếu ớt. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị
trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty
cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn
người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu,do đó làm cho việc tiến hành chương trình CPH ở nước
ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ
phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng.
- Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài
chính thực sự, trong đó có thị trường chứng khoán. Như chúng ta biết, thị trường chứng là trung tâm phản
ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện,
vừa là tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động vốn trên thị
trường tài chính. Sự thiếu vắng thị trường chứng khoán đi liền với nó là thiếu hệ thống pháp lý và tổ chức

vận hành đã gây khó khăn và cản trở cho quá trình CPH. Đó là việc định giá doanh nghiệp để CPH, việc
phát hành và lưu thons cổ phiếu, việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu, hệ thống pháp lý và tổ chức để
bảo đảm duy trì được hoạt động của thị trường chứng khoán.
Đây là hai yếu tố quan trọng gây khó khăn và cản trở đến việc thực hiện CPH các DNNN ở Việt
Nam. Ngoài ra, còn có một số yếu tố đặc thù khác cũng góp phần không nhỏ gây khó khăn và cản trở cho
việc CPH đó là:
Sự chưa ổn định irons chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp , thuế khoá, tiền tệ,... chứa
đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách ra đời chồng chéo, mâu
thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột, lạm phát chưa được kiềm chế một cách chắc chắn và vẫn còn ở mức
hai con số; sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm trễ so với đòi hỏi
của cơ chế thị trường là những yếu tố gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước, và do đó gây bất lợi
cho quá trình CPH các DNNN.
- Các DNNN hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng
cạnh tranh thấp., do đó khó có thể tiến hành CPH các doanh nghiệp này; số doanh nghiệp có đủ khả năng
hấp dẫn để CPH còn quá ít. Và những doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì Nhà nước lại chưa có ý định tiến
hành CPH. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp CPH cũng như thu hút sự hưởng
ứng của đông đảo những người có vốn muốn đầu tư bằng cổ phiếu.
- Về tư tưởng và tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này,
thậm chí còn có những phản ứng nhất định 0 những người đang sống yên ổn trong khu vực Nhà nước, về
mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý Nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan
điểm coi kinh tế Nhà nước là CNXH và vì vậy, thu hẹp khu vực này có nghĩa là rời xa CNXH, là phá vỡ
cơ sở của CNXH. Đa số các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp thì ngần ngại, thậm chí phản đối vì


sợ chuyển từ “người chủ” thành người “làm thuê cao cấp”, sẽ chịu sự đánh giá và kiểm soát của Hội đồng
quản trị và các cổ đông về trình độ năng lực của mình, còn những người lao động thì lo sợ mất việc làm,
mất biên chế Nhà nước... Đó là những trở ngại chủ quan không thể không được tính đến trong quá trình
tiến hành CPH các DNNN.
- Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến chương
trình CPH như các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian

tìm việc, các chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm, các chi phí để thực hiện công việc tư vấn, quảng
cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ về buôn bán cổ phiếu.. .Những khoản phí tổn này là
không thế bỏ qua được và thường rất lớn. Đây là chưa kế đến chính sách bán cổ phiếu giá thấp và tín
dụngcho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội sẽ làm cho chi phí tăng
lên nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ sẽ lợi dụng cơ hội này để tẩu tán tài sản của
Nhà nước nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ.
- Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Điều này gây nhiều trở
ngại cho việc định giá giá trị của doanh nghiệp, tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp được CPH...và do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực, tin cậy cho
những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu vói những doanh nghiệp này.
3. Chủ trương và chính sách của Chính phủ về CPH - DNNN
Mặc dù quan niệm và phương thức tiến hành CPH DNNN ở mỗi nước có những khác biệt nhất
định, song đều nhằm mục đích chung là tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển để đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá không ngừng tăng lên của xã hội.
Để tạo cơ sở pháp lý cho CPH - DNNN, Chính phủ và các Bộ, ngành hữu quan đã đua ra nhiều
chủ truơng, chính sách theo huớng ngày càng đổi mới, thông thoáng hợp với tình hình thực tế ở nuớc ta.
Chủ truơng CPH - DNNN đuợc Chính phủ đề ra tại điều 22 của quyết định số 217/HĐBT ngày
14/11/1997 của Hội done bộ truởng (nay là Chính phủ) và đã đuợc nhấn mạnh troné Nghị quyết khoá họp
thứ tu Quốc hội Khoá VIII, sone vì chua có huớne dẫn của các bộ, ngành chức năng nên chỉ có số ít các
DNNN triển khai thực hiện và mỗi nơi làm một kiểu, dẫn đến tình trạng rời rạc không hiệu quả. Chỉ đến
khi có quyết định số 202/CT ngày 08/06/1992 của Chủ tịch Hội đồng bộ truởng (nay là Thủ tuớng chính
phủ), kèm theo đề án triển khai thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần, thì chủ truơng này
mới thực sự đuợc tiến hành có tổ chức, có hệ thống. Mặc dù vậy vẫn còn phải có sự đôn đốc của Thủ
tuớng Chính phủ bằne chỉ thị số 84/TTg neày4/3/1993, Thông tu số 36/TC-CN neày 7/5/1993 của Bộ tài
chính, thông tu số 09/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ lao động thuơng binh và xã hội thì CPH mới
thực sự đi vào sự nghiệp cải cách khu vực kinh tế Nhà nuớc.
CPH một số DNNN là một chủ truơne đúng đắn, sone phải mất một thời gian dài, chính thức là 5
năm, từ phác thảo đến mô hình, cách đặt vấn đề cho đến lúc triển khai thực hiện một cách có tổ chức có
hệ thống.



• Doanh nehiệp CPH đuợc huửng những iru đãi sau:
a. DNNN chuyển thành công ty cổ phần là hình thức đầu tu mới, đuợc huởng un đãi theo quy định
của luật khuyên khích đầu tu troné nuớc (sửa đổi).
Truờne hợp những doanh nehiệp không đủ điều kiện huởng uu đãi theo quy địng của luật khuyến
khích đầu tu trong nuớc thì đuợc giảm 50% thuế lợi tức (thuế TNDN) trong hai năm liên tiếp kể từ sau khi
chuyên sang hoạt động theo luật công ty.
b. Đựơc miễn lệ phí truớc bạ đối với việc chuyển nhữne tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của
DNNN-CPH thành sở hữu của Cône ty cổ phần.
c. Đuợc tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng Thuơng mại, Công ty Tài chính, các tổ chức tín dụng khác
của Nhà nuớc theo cơ chế và lãi suất nhu áp dụng đối với DNNN.
d. Đuợc tiếp tục XNK hàng hoá theo các chế độ quy định hiện hành nhu đối với DNNN truóe khi
CPH.
e. Truớc khi CPH đuợc chủ động sử dụng số du quỹ khen thuởng và quỹ phúc lợi (bằng tiền) chia
cho nguời lao động đang làm việc (không phải nộp thuế thu nhập) để mua cổ phần.
Đuợc duy trì và phát triển quỹ phúc lợi duới dạng hiện vật các công trình văn hoá, câu lạc bộ,
bệnh xá, nhà điều duỡng để đảm bảo phúc lợi cho nguời lao động trong Công ty cổ phần. Những tài sản
này thuộc sở hữu của tập thể nguời lao động do Công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức công
đoàn.
f. Các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển DNNN thành Công ty cổ phần
được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước theo quy định của Bộ tài chính.
• Người lao động trong doang nghiệp CPH được hưởng những ưu đãi sau:
a. Được nhà nước bán với giá uu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp tuỳ theo năm công tác
của từng người. Một năm làm việc cho nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá một cổ phần:
100.000 đồng) với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác. Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động
không quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Người lao động sở hữu cổ phần nói trên có quyền
chuyển nhượng để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức
hoạt động của công ty cổ phần.
b.


Người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần theo giá ưu đãi thì được hoãn trả

trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức và trả dần tối đa trong 10 năm không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua
trả dần cho người lao động nghèo không vượt quá 20% tổng số cổ phần nhà nước bán theo giá ưu đãi.
Người sở hữu cổ phần trả dần không đượcc chuyển nhượng khi chưa trả tiền cho nhà nước.
c. Sau 12 tháng kể từ khi DNNN chyển thành Công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức lại hoạt động
kinh doanh, thay đổi công ghệ dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với những
người lao động này được giải quyết theo những quy định hiện hành của Chính phủ.


PHẦN II: THỰC TRẠNG VÂN ĐỂ CPH CÁC DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1.

Tình hình tiến triển.

CPH-DNNN được bắt đầu từ những năm 90, đã trải qua các thời kỳ thí điểm đến thực hiện một cách
bình thường đối với các DNNN nằm irons danh mục cần tién hành CPH và đa dans hoá các hình thức sở
hữu, mô hình tổ chức quản lý.
1.1 Thời kỳ thí điểm.
Thời kỳ này, thực hiện quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởns (nay là Thủ
tướng Chính phủ), các bộ, các ngàns đã hướns dẫn DNNN đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang
Công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng DNNN đã đăng ký, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết
định số 203/CT ngày 8-6-1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành Công ty
cổ phần:
-

Nhà máy xà bông (Thuộc liên hiệp Công ty bột giặt miền Nam, Tổng Công hoá chất II, Bộ công

nghiệp nặng).
-


Nhà máy diêm Thống Nhất (thuộc liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu giấy gỗ diêm, Bộ công

nghiệp nhẹ).
- Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc (thuộc Công ty chăn nuôi và thức ăn gia súc I, Bộ
Nông nshiệp và công nghệ thực phẩm).
- Xí nghiệp chế biến sỗ Lons Bình (thuộc Tổng Công ty dịch vụ, sản xuất và xuất nhập khẩu lâm
sản 3, Bộ lâm nghiệp).
- Công ty vật tư tổng họp Hải Hưng (thuộc Tổng Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Hà
Nội, Uy ban nhân dân thành phố Hà Nội).
-

Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt - da - may Legamex, UBND TP. Hồ Chí Minh).
Tuy nhiên sau thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp Nhà nước Chính phủ chọn thí điểm đều xin
rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH như Nhà máy xà bông miền Nam, Xí nghiệp may
mặc (thuộc Công ty dệt - da - may Legamex)...
Trong số hơn 30 DNNN đăng ký với Bộ Tài chính để thực hiện CPH thì sau hơn bốn năm
thực hiện Quyết định số 202/CT có năm DNNN chuyển thành Công ty cổ phần là:

-

Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thôns vận tải).

-

Công ty cổ phần cơ điện lạnh (TP. Hồ Chí Minh)

-

Công ty cổ phần giầy Hiệp An (Bộ công nghiệp).

Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Lons An (tỉnh Long An).

- Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp).


1.2 Thời kỳ mở rộng thí điểm và thực hiện bình thường (1996 -2000)
Từ năm 1996 - 2000 ià giai đoạn mở rộng thí điểm.
Ngày 7/5/1996 chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP “ về việc chuyển một số DNNN thành
Công ty cổ phần”, thay thế cho quyết định số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn.
Thực hiện nghị định số: 28/CP, công tác CPH-DNNN đã được quan tâm hơn cụ thể: có 30 tỉnh,
thành phố, Bộ , ngành và các tổng công ty 91 đã đăng ký thực hiện CPH hơn 200 DNNN, nhưng đến đầu
năm 1998 mới có 18 DNNN thực hiện CPH, chuyển sang hoạt động theo luật Công ty với tổng số vốn là:
121384.000.000d, trong đó:
- Phân theo ngành:
Ngành Giao thông vận tải

4 doanh nghiệp

Ngành Công nghiệp

7 doanh nghiệp

Ngành xây dựng

1 doanh nghiệp

Ngành chế biến Nông lâm thuỷ hải sản

3 doanh nghiệp


Ngành dịch vụ

3 doanh nghiệp

- Phân theo lãnh thổ:
TP. Hồ Chí Minh

10 doanh nghiệp

TP. Hà Nội

1 doanh nghiệp

TP. Hải Phòng

1 doanh nghiệp

Tỉnh Long An

1 doanh nghiệp

Tỉnh Ninh Bình

1 doanh nghiệp

Tỉnh Bình Định

1 doanh nghiệp

Tỉnh Cà Mau


1 doanh nghiệp

Tỉnh An Giang

1 doanh nghiệp

TP. Đà Nẩng

1 doanh nghiệp

Trong số 18 công ty cổ phần có 1 công ty cổ phần nhà nước không nắm giữ cổ phần, 17 công ty
còn lại nhà nước nắm giữ cổ phần ít nhất là 18%, cao nhất là 51%, cổ phần còn lại do cổ đông ngoài xã
hội chiếm giữ.
So với yêu cầu cải cách doanh DNNN và số lượng doanh nghiệp nhà nước trone diện CPH thì kết
quả đạt được trong các năm 1992 - 1998 là quá ít, tốc độ cổ phần hoá rât chậm.


Từ năm 1998 đến nay là giai đoạn thực hiện bình thường và phổ biến đối với tất cả các DNNN
tthuộc danh sách cần phải CPH. CPH DNNN có chuyển biến rõ rệt và đáng khích lệ từ khi có nghị định
số 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ “ về việc chuyển DNNN thành Công ty cổ phần”. Riêng 6
tháng cuối năm 1998 đã cổ phần hoá được 90 DNNN. Năm 1999 cổ CPH được 250 DNNN, gấp 7 lần so
với 6 năm trước đó (1992 - 1997) cộng lại. Đến đầu năm 2000 cả nước đã CPH được 370 DNNN, và đến
cuối năm 2000 cả nước đã có 523 DNNN chuyển thành Côn ty cổ phần chiếm 8,5% tổng số DNNN hiện
có. Tính đến tháng 9/2001 thì cả nước đã có khoảng 700 DNNN được CPH. Con số này quả là đáng
khích lệ. Tốc độ thực hiện CPH một bộ phận DNNN ở nước ta gần đây đang gia tăng, nhưng so với kế
hoạch được duyệt từ 150 - 200 doanh nghiệp được CPH trong năm 1998; 400 - 500 doanh nghiệp trong
năm 1999 là 1000 doanh nghiệp cho năm 2000 thì tốc độ CPH hiện nay vẫn còn quá chậm.
2.


Kết quả thực hiện

Bên cạnh những chuyển biến về mặt số lượng như trên, bước đầu quá trình CPH DNNN đã
tạo ra một số kết quả tích cực sau:
2.1 Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã kế thừa được nhiều nội dung tốt nếu trong các quy định của
nghị định 28/CP, đồng thời bổ sung sửa đổi và phát triển được nhiều điểm mới để đáp ứng yêu cầu CPH.
Đặc biệt nghị định 44/1998/NĐ-CP đã quy định cụ thể các chính sách khuyên khích đối với doanh nghiệp
và người lao động trong doanh nghiệp CPH thể hiện ở nhiều cơ chế ưu đãi đồng thời có phân cấp cụ thể
đối với các cấp trong quá trình triển khai thực hiện CPH, do đó tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và các
cấp quản lý triển khai thực hiện quy trình kế hoạch CPH.
2.2 Công tác hướng dẫn phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
CPH đã được chú trọng triển khai tích cực hơn. Thông qua các lớp tập huấn cho cán bộ, các văn bản
hướng dẫn thì các chủ trương chính sách và chính sách và quy trình CPH được phổ biến sâu rộng làm cho
nhiều người, nhiều cấp quan tâm hiểu rõ cách thức CPH. Các phương tiện thông tin đại chúng như các
báo, đài ở trung ương và địa phương bằng nhiều hình thức phong phú: mở chuyên mục, diễn đàn, đối
thoại, phỏng vấn...về CPH đã đưa tin kịp thời góp phần tích cực tuyên truyền phổ biến, biểu dương các
đơn vị điển hình, phản ánh kịp thời những vướng mắc cần thiết phải tháo gỡ để đẩy nhanh tiến trình CPH.
2.3 Về thực hiện mục tiêu CPH-DNNN, tuy số lượng doanh nghiệp CPH mới chiếm 7% tổng số
doanh nghiệp hiện có nhưng qua đó bước đầu đã huy động thêm được các nguốn vốn khác ngoài nguồn
vốn nhà nước để đầu tư vào doanh nghiệp CPH. Mặt khác, thực tế cho thấy, phần vốn nhà nước tại các
doang nghiệp CPH không những không bị giảm đi mà ngược lại đã tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi
trên sổ sách. Thay đổi phương thức quản lý tạo độg lực cho thúc đẩy kinh doanh đạt hiệu quả cao. Vai trò
làm chủ thực sự của người lao động với tư cách là cổ đông trong công ty cổ phần bước đầu khơi dậy, phát
huy thể hiện ở tinh thần hăng say, tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh được nâng lên, nhằm chi tiêu kinh tế tăng lên rõ rệt so với thời kỳ trước khi CPH.
2.4 Về phạm vi và tổ chức chỉ đạo thực hiện CPH thì hiện nay theo tinh thần của Nghị định


44/1998/NĐ-Cp có nhiều Bộ, ngành, địa phương, nhiều Tổng công ty 91 đã chủ trương lựa chọn và xác
định diện DNNN cần thực hiện CPH, không chỉ bó hẹp trong một vài doanh nghiệp của TP. Hồ Chí Minh
và một số tỉnh phía Nam như trước đây. Hiện tại đã có 7/13 bộ, 10/17 Tổng công ty 91,43/61 tỉnh thành

đã có DNNN được CPH. Đặc biệt là có một số Bộ, ngành, tỉnh, Tổng Công ty 91 đã tích cực triển khai
CPH doanh nghiệp như: Hà nội, TP. HCM, Nam định, Thanh Hoá, Tuyên Quang, Bình Định, Lầm Đồng,
Bộ Xây Dụng, Bộ NN và PTNT, Tổng công ty Hàng Hải, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty cà phê.
2.5 Hiệu quả kinh doanh có tiến bộ đáng kể. Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp nhà nước đã cổ
phần hoá hơn một năm cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt, kể
cả các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá bị thua lỗ, doanh thu hàng năm tăng trên 25%, có một số tăng
50%. Trong 6 tháng đầu năm 1999 có công ty cổ phần đạt doanh thu gấp đôi so với trước khi CPH. điển
hình là công ty cơ điện lạnh đạt 353 tỷ đồng so với 78 tỷ đồng, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận
chuyển đạt 163 tỷ đồng so với 16 tỷ đồng.
Số lao động không bị giảm mà còn tăng bình quân 10%, có công ty tăng trên 20%. Ví dụ công ty
cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An từ 900 người lên 1280 người, công ty cổ phần cơ điện lạnh từ
334 người tăng lên 739 người, công ty cổ phần đại lý liên hợp vận chuyển từ 85 người tăng lên 350
người.
Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%(chưa kể thu nhập cổ tức), điển hình là công ty
liên hiệp vận chuyển, trước khi CPH thu nhập là 1.1 triệu đồng/người/tháng, nay đạt 4.4 triệu
đồng/người/tháng. công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc từ 524 ngàn đồng tăng lên 1.3 triệu đồng.
Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng lên 26%, có công ty đạt tổng lợi nhuận gấp hai ba lần so với
trước khi CPH. Ví dụ: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển lãi từ 4.1 tăng lên 37 tỷ đồng, công ty
cổ phần cơ điện lạnh lãi từ 8.8 tỷ đồng tăng lên 34 tỷ đồng.
Nộp ngân sách hàng năm tăng bình quân trên30%, một số công ty đạt gấp đôi so với trước khi
CPH. Chẳng hạn năm 1998, công ty CP Cơ điện lạnh nộp ngân sách 68 tỷ đồng so với 3,7 tỷ đồng trước
khi CPH; Công ty CP đại lý Liên hiệp vận chuyển nộp ngân sách 40 tỷ đồng so với 5,1 tỷ đồng trước khi
CPH.
Vốn điều lệ tăng bình quân trên 25%/năm, có một số tăng lên 2 lần.
Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân đatẹ 12% /tháng, Công t CP sửa chữa và đóng tàu
thuyền Bình Định đạt 20% trong năm 98, các Côngty CP sơn Bạch Tuyết , chế biến thức ăn gia súc, chế
biến hàng xuất khẩu Long An đều đạt cổ tức 2% /tháng.
3. Tình hình CPH- DNNN ở một sô địa phương.
3.1. CPH-DNNN ở thành phô Hà Nội.
Hà Nội là một trong số các địa phương có nhiều DNNN được CPH. Trong số 880 DNNN trên địa

bàn Hà Nội có 320 DN do địa phương quản lý. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn số doanh nghiệp Nhà


nước do địa phương quản lý có quy mô nhỏ bé, trong đó 87 DN quy mô vốn chỉ dưới 1 tỷ đồng(chiếm
26,5%). Xét về hiệu quả trong số 320 DN có 219 DN làm ăn có lãi, gần 1/3 kinh doanh chỉ hoà hoặc lỗ
vốn, trong đó 33 DN thua lỗ kéo dài. Do vậy CPH - DNNN ở Hà Nội là một vấn đề cấp thiết. Trong thời
gian 5 năm từ 1992 - 1997, Hà Nội mới chỉ thực hiện CPH được 5 DNNN. Năm 1998, Hà Nội hoàn
thành CPH 30 DNNN và đến hết tháng 10/1999 lại tiếp tục CPH thêm 30 DNNN nữa trong chỉ tiêu 40
DNNN cần CPH của năm 1999.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, tuy các DNNN được thực hiện vào nhiều thời điểm khác nhau,
song đều sớm đi vào ổn định và phát triển, cụ thể là: Công ty sứ Bát Tràng 6 tháng đầu năm 1998 chí có 5
mẫu hàng mới - bị thua lỗ 13 triệu đồng; sau khi thực hiện CPH, 6 tháng cuối năm cho ra đời 44 mẫu
hàng mới, lãi 164 triệu đồng, mức cổ tức đạt l,438%/tháng;Công ty Phú Gia sau khi CPH, hệ số sử dụng
buồng phòng đạt 70%, hàng tháng tiết kiệm được 50% tiền điện so với trước,chi phí hành chính vệ sinh
giảm 30%. Đặc biệt là Simex sau khi CPH, doanh thu tăng 18%, lợi nhuận trước thuế tăng 83%, thu nhập
bình quân đầu người đạt hơn 1,9 triệu đồng/tháng., lợi tức cổ phiếu đạt 1,59%/tháng.
3.2. CPH-DNNN ở Thành phô Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong các địa phương đi đầu trong thí điểm thực hiện CPHDNNN. Trong thời kỳ thí điểm thành phố có hai DNNN chuyển thành Công ty CP là Công ty CP cơ điện
lạnh và Công ty Ong mật, sau đó lại chững lại. Tính đến cuối năm 1997, do thực hiện Nghị định 28/CP,
Thành phố CPH thêm được 4 DNNN là:
-

Khách sạn Sài Gòn(tháng2/1997)

-

Trung tâm nghiên cứu và sản xuất hoá mỹ phẩm(tháng6/1997)

-


Xí nghiệp sơn Bạch Tuyết(l 1/1997)


-

Xí nghiệp bons Bạch Tuyết( 12/1997)
Mặc dù vậy, tiến triển CPH ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn rất châm. Tính đến tháng 5/1999,

toàn thành phố mới chuyển đổi được 10 DNNN sang hoạt động theo luật Công ty CP. Đến quýIII/1999,
Thành phố dự kiến xét duyệt chuyển 13 DNNN thành Công ty CP, hỗ trợ 16 DNNN có vướng mắc về
tài sản,công nợ, chọn thêm 50 DNNN xin đưa vào kế hoạch CPH năm 2000
3.3. CPH - DNNN ở Hải Phòng.
Hải Phòng nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm ở phía Bắc có nhiều lợi thế để thúc đẩy kinh tế
phát triển.Tuy nhiên, quá trình CPH-DNNN lại chưa được đẩy lên tương xứng.Trên địa bàn thành phố
hiện nay có 140 DNNN, nhưng cho đến nay tổng số DNNN được CPH cũng chỉ dừng lại ở con số 17.
Trong năm 2000, Hải Phòng tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu cho khoảng 80 DNNN và áp
dụng một số biện pháp mạnh mẽ để đẩy nhanh quá trình CPH-DNNN, tập trung vào các DN làm ăn có
hiệu quả.
3.4. CPH - DNNN ở TP Đà Nẵng.
So với các thành phố lớn khác trong cả nước, tiến độ CPH-DNNN ở Đà Nẵng trong các năm qua
diễn ra một cách chậm chạp. Đến nay, sau 3 năm kể từ ngày chia cách địa giới hành chính, toàn thành
phố đã chuyển được 4 DNNN sang công ty CP là:
-

Công ty CP Khí công nghiệp và hoá chất Đà Nẵng.

-

Công ty CP khai thác và dịch vụ thuỷ sản Đà Nẵng.


-

Công ty CP xây dựng Miền Trung.

-

Công ty CP xi măng Ngũ Hành Sơn.
Sau khi đã được CPH cả 4 DN trên đều làm ăn có hiệu quả.
Trong năm 2000, Đà Nẵng tiến hành CPH 10 DNNN, trong đó có nhiều doanh nghiệp trong

danh sách từ các năm trước chuyển sang và hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Đến quý 1/2000,
trong số 10 DNNN được đề cử CPH, có 3 DN đã xây dựng xong đề án CPH, xác định dự án doanh
nghiệp hiện đang bán cổ phần, có 6 DN đã và đang thẩm tra giá trị,hoàn chỉnh đề án CPH.
Quá trình CPH - DNNN còn diễn ra ở nhiều tỉnh thành khác trên cả nước, tuy nhiên so với kế
hoạch của Nhà nước và công tác CPH còn diễn ra quá chậm chạp, chưa năm nào đạt được chí tiêu đăt ra.
Đây là vấn đề đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tìm ra những giải pháp để thúc đẩy
nhanh việc cải cách và sắp xếp lại DNNN trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta.
20


• Một số nhận định bước đầu:
-

Các DNNN thực hiện CPH do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ

nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả, lợi nhận cao hơn trước.
-

Quyền lợi của người lao động trong công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công


ty. Người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác
cũng yêu cầu HĐQT, giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để lợi
nhuận cao hơn.
-

Phương pháp quản lý, điều hành doanh nghiệp thay đổi, từ việc Giám đốc doanh nghiệp nhà

nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu HĐQT, Ban kiểm soát và Ban giám độc do đó
trách nhiệm của hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của doanh nghiệp có tính
đến hiệu quả cụ thể hơn.
-

CPH là chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, tạo điều kiện cho người lao

động thật sự làm chủ doanh nghiệp, làm cho tài sản xã hội tăng lên. Tính khả thi và hiệu quả của các
DNNN - CPH nói riêng và các doanh ngiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh. Một không
khí sản xuất mới đã dược thiết lập.
Tinh trạng lãng phí của cải, tài sản giảm thiểu, vấn đề ăn nhậu xa hoa không còn, tiền phong bao
cũng không có. Bởi vì thông thường điều lệ của các công ty quy định rất rõ định mức các khoản chi nhất
là chi tiếp khách.
-

Nhà nước đã thu về được một lượng vốn đáng kể, các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc

làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể.
-

Nhờ sự làm ăn có hiệu quả tốt nên giá cổ phiếu của công ty CPH đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu

bình quân tăng 2 đến 3 lần

4 Một sô vấn đề tồn tại.
Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21/4/1998 “về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN” quy định
đến hết năm 2000, sẽ chuyển khoảng 20% DNNN, tức là 1200 đơn vị thành công ty cổ phần. Nhưng cho
đến hết năm 1999 mới thực hiện được 370 DNNN, năm 2000 thực hiện được 500 DNNN và đến tháng 9
năm 2001 cũng chỉ thực hiện được khoảng 700 DNNN. Còn cách quá xa chỉ tiêu dự định CPH - DNNN
trong năm 2000.
4.1 Số DNNN được CPH còn chiếm tỷ trọng thấp so với kết quả phân loại doanh nghiệp. Số DNNN đã
CPH chỉ chiếm 6,8% tổng số DNNN do địa phương quản lý và khoảng 36% tổng số DNNN cần CPH tại
địa phương. Đối với các Bộ, ngành Trung ương thì con số tương tự là 5,5% và 29,6%.


Một trong những mục tiêu của CPH - DNNN là thu hút vốn ngoài xã hội để cơ cấu lại doanh
nghiệp, nhưng phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đã CPH đều nhỏ, khoảng 90% có số vốn Nhà
nước dưới 5 tỷ đồng. Tổng số vốn Nhà nước tại DNNN. CPH chỉ chiếm khoảng 0,7% tức không vượt
qua 1000.000.000 đồng.
Tỷ lệ bình quân cổ phần do Nhà nước và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nắm giữ
khoảng 70 - 80%, suy ra vốn thu hút từ ngoài xã hội không nhiều.
Nước ta đi theo con đường XHCN, kiên trì chủ nghĩa Mac - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh lâu
nay trong nhận thức của mỗi người đã khẳng định một ý tưởng muốn xây dựng một xã hội mới công
bằng dân chủ và văn minh thì phải xoá bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất. Song trong một thời gian dài đã
đồng nhất kinh tế quốc doanh với CNXH, vì vậy đã có không ít người phản đối CPH - DNNN, cho rằng
như vậy là “ rời xa CNXH, phá vỡ cơ sở kinh tế của CNXH”. Trong nhận thức của một số cán bộ quản
lý doanh nghiệp và ở một số cấp quản lý chưa thực sự quyết tâm tiến hành CPH - DNNN, còn ngần ngại
do dự. Nhất là khi CPH bộ phận hoặc doanh nghiệp thành viên, còn có tâm lý sợ CPH sẽ làm giảm
doanh thu, vốn và tài sản, lợi nhuận giảm quy mô và xếphạng của công ty, tổng công ty. Một số các Bộ
quản lý doanh nghiệp sợ CPH sẽ làm cho mất sức mất quyền, mất lợi.
Đối với người lao động thì một bộ phận sợ mất việc làm vì trình độ tay nghề thấp nên dễ bị sa
thải, một số chưa quen chuyển từ công nhân viên chức Nhà nước thành nguời lao động trong các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, một số có tâm lý muốn làm việc trong các DNNN để có thu nhập ổn định.
Cơ sở pháp luật của CPH - DNNN chậm được ban hành đồng bộ, thiếu cụ thể. Một số nội dung liên

quan đến quy định trong pháp lệnh chống tham nhũng, pháp lệnh cán bộ công chức, Nghị định
44/1998/NĐ-CP và các văn bản khác, vẫn còn có những điểm chưa phù hợp, thậm chí chưa thúc đẩy
mạnh mẽ việc huy động vốn của các cổ đông tham gia vào công ty cổ phàn. Ví như khống chế tỷ lệ tối
đa được mua cổ phần với giá ưu đãi không vượt mức cổ phần bình quân của các cổ đông trong doanh
nghiệp. Một số nội dung chậm được hướng dẫn cụ thể, đã gây nhiều lúng túng trong thực hiện: Qui chế
bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, quỹ hỗ trợ và sắp xếp CPH - DNNN, cơ chế khuyến khích
người cung ứng nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến khi tiến hành CPH, quyền và trách nhiệm cụ thể
của doanh nghiệp và giải quyết tài sản tồn đọng, chờ thanh lý hoặc phải điều đi, cơ chế và nguồn chi trả
để giải quyết việc một số bộ quản lý doanh nghiệp không bố chi đượcchỗ làm khi chuỷen sang công ty
cổ phần.
Trong quá trình tiến hành CPH - DNNN thường vấp phải không ít tồn tại, vướng mắc về tài sản,
tiền vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước như: Đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ không theo
đúng nguồn vốn, thậm chí sử dụng cả vốn lưu động, vốn chiếm dụng trong thanh toán để xây dựng, mua
sắm vật tư, thiết bị; Hàng hoá tồn kho, ứ đọng không có khả năng tiêu thụ, nợ


dây dưa, khó xác nhận, khó thu hồi... Xác định giá trị doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,nhiều doanh nghiệp
chưa có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu tài sản cố định, nhà xưởng, vật kiến trúc. Mặt khác quy trình
CPH vẫn chưa thật khoa học, các khâu xác định giá trị doanh nghiệp và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp vẫn
phải kéo dài vì cần phối hợp với nhiều cơ quan tham gia chưa có đầy đủ văn bản hướng dẫn cụ thể về mặt
nghiệp vụ.
Chuyển DNNN thành công ty cổ phần và hướng dẫn nó hoạt động theo luật công ty là một vấn
đề mới mẻ mà chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong điều kiện đó, quản lý của nhà nước đối với
doanh nghiệp CPH lại chưa được quy định cụ thể và kịp thời, gây cho các doanh nghiệp CPH có nhiều
bỡ ngỡ, lúng túng trong hoạt động hoặc có tâm lý ngần ngại khi chuyển đổi từ DNNN thành công ty cổ
phần.
Về quy trình CPH: Theo Quyết định số 01/CPH ngày 4/9/1996 của Ban chỉ đạo trung ương cổ
phần hoá thì qui trình CPH chỉ phân thành 4 bước nhưng có rất nhiều công đoạn và trình tự thủ tục kèm
theo, gây tốn nhiều thời gian.
Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại các DNNN - CPH.

Còn tình trạng hạn chế tiêu chuẩn và mức hưởng cổ tức trên số cổ phần thuộc sở hữu nhà nước, vì chỉ có
những người có thâm niên từ 3 năm trở lên mới được hưởng, mức hưởng cũng không đáng kế ( chỉ 6 tháng
lương cấp bậc ).
- Còn tình trạng hạn chế mức mua chịu cổ phần cho người lao động, vì cũng chỉ những người
có thâm niên từ 3 năm trở lên mới có quyền mua chịu. Đồng thời trong qui định là tổng mức mua chịu
không vưọt quá tổng mức mua tiền mặt, nhưng không rõ trong từng người có mua chịu được nhiều hơn
không, những ai không mua tiền mặt có mua chịu được hay không?
- Bên cạnh đó còn có tình trạng cách biệt về số lượng mua cổ phiếu giữa công nhân và cán bộ
lãnh đạo trong doanh nghiệp, thực ra là giữa người có nhiều tiền và người có ít tiền mua cổ phiếu.
4.8 Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ. Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ lại nhiều năm
vận hành trong cơ chế cũ, nên trình độ kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nề, chưa
thích ứng với cơ chế mới. Kiến thức thiếu hụt nhất trong nhân dân và cán bộ ta hiện nay là về kinh tế thị
trường, công nghệ, tin học và ngoại ngữ. Ngay cả đội ngũ giám đốc các DNNN cũng phần lớn chưa
ngang tầm nhiệm vụ được giao. Qua khảo sát 506 DNNN có 37 giám đốc chưa tốt nghiệp văn hoá phổ
thông, chỉ có 187 người sử dụng đuợc ngoại ngữ nhưng chưa thành thạo, đội ngũ này trình độ đào tạo
mới chỉ được nâng lên về mặt hình thức. Ngay cả những người làm công tác đào tạo cũng chưa được
đào tạo lại. VI vậy những tri thức về thị trường, kinh doanh... chưa được chuyến tải kịp thời và đầy đủ
cho đội ngũ cán bộ doanh nghiệp. Đây là lực cản không nhỏ đối với tiến trình CPH.
về mặt tâm lý: Do bị ảnh hưởng tư tưởng trong xã hội cũ, những năm bao cấp, nên nhân dân ta còn
mang nặng tâm lý (đồng tiền đi liền khúc ruột), chưa quen với việc đầu tư tiền vào mua cổ phiếu. Những
hiện tượng như lừa đảo, chiếm dụng vốn của nhau, tham nhũng, coi thường kỷ cương phép nước... đã có ảnh


hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào mua cổ phiếu của người có vốn. Thực tế, vốn trong dân có nhiều
nhưng do môi trường pháp lý chưa thực sự đảm bảo nên họ không giám đầu tư.
Không chỉ những khó khăn trên mà còn rất nhiều các tác động tiêu cực của các yếu tố khác như một
môi trường kinh doanh chịu tác động ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và quốc tế,
tác hại to lớn của thiên tai, dịch hoạ...đã làm cho quá trình CPH - DNNN ở nước ta thời gian qua và trong
một số năm tới không thể diễn ra một cách “thuận buồm xuôi gió”.Trái lại nó đòi hỏi phái quyết tâm cao và
cố gắng lớn, tìm ra cách làm phù hợp để hoàn thành chương trình CPH - DNNN ở nước ta góp phần xây

dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.


PHẦN III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH CPH - DNNN.
I. Một sô quan điểm cơ bản trong quá trình tiến hành CPH - DNNN.
Từ thực tiễn CPH trons những năm qua cho thấy, cần phải xác định rõ một số quan điểm cơ bản có
tính chất chỉ đạo cho việc thực hiện chương trình CPH các DNNN.
- Quan điểm thứ nhất: Việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần phải
được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và sáp xếp lại các DNNN.
- Quan điểm thứ hai; việc lựa chớn các doanh nghiệp để tiến hành CPH thuộc thẩm quyền và
chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý kiến cử giám đốc và tập
thể lao động trong doanh nghiệp. Nguyên tắc này được nêu ra đế làm cơ sở cho các cơ quan chủ quản
của nhà nước phân loại các doanh nghiệp do mình quản lý đế thực hiện CPH.
- Quan điểm thứ ba: dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, cần xác định các mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với từng doanh nghiệp được lựa chọn
CPH.
- Quan điểm thứ tư: mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu nhà nước trừ quỹ phúc lợi
xã hội của tập thể là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp cùng hưởng. Phần “vốn tự có” của các DNNN hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu
hao được nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên là thuộc về nhà nước và
trở thành vốn cổ phần của nhà nước trong công ty cổ phần sẽ được hình thành. Vì vậy, lẽ đương nhiên
khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp, xác lập giá trị tài sản còn lại để CPH thì cũng
không thể đưa “vốn tự có” ra ngoài bảng cân đối vì nó là của tập thể. Xác định quan điểm này để bảo
đảm việc chống lại sự phân tán tài sản của Nhà nước và phân phối không công bằng trong quá trình
chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần.
- Quan điểm thứ năm: Việc xác định giá trị của DNNN để CPH phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu
thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình. Trong yếu tố giá trị hữu hình về cơ bản có hai bộ phận: giá trị
toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp và giá trị đất đai mà doanh nghiệp đang sử dụng làm mặt bằng
sản xuất kinh doanh. Trong yếu tố giá trị vô hình như uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp ưu
thế về thị trường và khả năng cạnh tranh, các điều kiện về địa điểm, quảng cáo, bạn hàng... tựu chung lại

đều biểu thị ở khả năng sinh lợi hay tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Quan điểm thứ sáu: Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được lựa chọn CPH cần
thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người.
- Quan điểm thứ bảy: Để thực hiện thành công chương trình CPH, Nhà nước không chỉ chú ý
đến thu hồi vốn mà cần phải biết chấp nhận một khoản phí tổn nhất định.
Đó là những khoản phí tổn cần thiết, phải có như những chi phí bảo hiểm, trợ cấp cho người lao
động bị mất việc làm và tìm kiếm nghề mới, những chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi những tầng lớp


dân cư nhất định theo những mục tiêu chính trị, xã hội của Chính phủ, những chi phí cho bộ máy thực
hiện và các cơ quan môi giới, tư vấn, quảng cáo.
- Quan điểm tứ tám: các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá cần phải thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật hiện hành.
- Quan điểm thứ chín: Các doanh nghiệp được lựa chọn để CPH cần phải có sự giải quyết rõ
ràng, dút điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần.
Quá trình CPH sẽ diễn ra một cách trôi chảy nếu trong quá trình thực hiện tốt theo nội dung các
quan điểm đã nêu trên.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐAY NHANH TIÊN ĐỘ CPH DNNN.
Như chúng ta đã biết tiến độ CPH DNNN ở nước ta trong những năm vừa qua diễn ra hết sức
chậm chạp, chưa năm nào hoàn thành được kế hoạch đặt ra. Vì vậy, để tiến độ CPH DNNN được
diễn ra nhanh hơn, hoàn thành được chỉ tiêu đã đề ra thì cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây:
1. Cần tạo sự thống nhất về nhận thức, quan điểm về chủ trương CPH một bộ phận DNNN từ Trung
Ương đến cơ sở phải có sự quan tâm, lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền mới đẩy nhanh được
tiến độ CPH.
Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt, tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ
trương chính sách của Đảng về CPH DNNN, CPH phải xuất phát từ yêu cầu của DNNN nhằm huy động
thêm vốn từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp đế đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công
nghệ tạo thêm công ăn việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất tăng tích luỹ cho doanh
nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập của người lao động.
Tổ chức Đảng, chính quyền tại doanh nghiệp được CPH phải nắm vững về chủ trương CPH của

Đảng và Nhà nước tránh tình trạng không hiểu sâu dẫn đến những lo ngại CPH sẽ làm mất chủ quyền
của Nhà nước, làm mất vai trò kinh tế quốc doanh.
Việc thực hiện CPH hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm sắp xếp lại khu vực
kinh tế Nhà nước - nó không phải là một giải pháp tình thế mà là một phương thức đổi mới cơ chế quản
lý cho thích nghi với sự vận động của cơ chế thị trường. Do đó chủ trương CPH phải được chủ động giải
quyết từ phía Nhà nước, không chỉ dựa vào sự tự nguyện của các doanh nghiệp
Phải tuyên truyền chủ trương CPH sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, giải đáp các
thắc mắc dù nhỏ của người lao động tại doanh nghiệp, không phải chí tuyên truyền chung chung mà phải
xuống tận cơ sở, tiếp xúc với người lao động và cả Giám đốc của họ. Khi quần chúng lao động nhận
thức được và lãnh đạo doanh nghiệp có quyết tâm, tiến độ CPH sẽ rất nhanh.
2. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ đồng bộ về CPH - DNNN
CPH - DNNN cũng có nghĩa là bán đi một phần tài sản Nhà nước có giá trị lớn hàng chục ngàn tỉ
đồng. Vậy liệu Nghị định 44/1998/NĐ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính của Ban đổi mới
doanh nghiệp Trung Ương có đủ tầm cỡ và sức mạnh pháp lý để điều chỉnh hay phải có văn bản pháp


×