Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.1 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TRƯƠNG THỊ THÙY DUNG

VAI TRß CñA T¦ PH¸P
TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TRƯƠNG THỊ THÙY DUNG

VAI TRß CñA T¦ PH¸P
TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trương Thị Thùy Dung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ QUYỀN TƯ PHÁP ........................................................................ 11
1.1.

Khái quát về quyền con người ............................................................. 11

1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về quyền con người .............................................. 11

1.1.2. Cách thức ghi nhận các quyền con người ............................................... 15
1.2.

Khái quát về quyền tư pháp ................................................................ 17

1.2.1. Quan niệm chung về quyền tư pháp ....................................................... 17
1.2.2. Các đặc trưng của quyền tư pháp............................................................ 19
1.2.3. Tính độc lập của quyền tư pháp .............................................................. 21
1.3.

Vai trò tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ........................... 26

1.3.1. Mối quan hệ giữa quyền tư pháp với việc bảo vệ quyền con người......... 26
1.3.2. Các đặc trưng cơ bản của việc bảo vệ quyền con người bằng tư pháp..... 29
1.3.3. Một số vai trò cụ thể của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người..... 31
1.4.

Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người theo luật quốc tế ..... 37

Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM............................. 42
2.1.

Khái quát hệ thống tư pháp ở Việt Nam ............................................. 42

2.2.

Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở
Việt Nam ............................................................................................... 44


2.2.1. Đánh giá chung ...................................................................................... 44
2.2.2. Những điểm còn hạn chế và nguyên nhân .............................................. 48


Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO VAI TRÒ CỦA TƯ PHÁP TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................ 57
3.1.

Một số quan điểm nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.................................................... 57

3.1.1. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ
quyền con người ..................................................................................... 57
3.1.2. Một số quan điểm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ
quyền con người ở Việt Nam ................................................................. 58
3.1.3. Những phương hướng cơ bản cho cải cách tư pháp ................................ 61
3.2.

Một số giải pháp nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ
quyền con người ở Việt Nam ............................................................... 65

3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền
con người ............................................................................................... 65
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật bảo đảm vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ
quyền con người ..................................................................................... 67
3.2.3. Nâng cao tính độc lập của tư pháp .......................................................... 75
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 86



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cả trong lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, trong mối quan hệ giữa nhà
nước với công dân, thì các nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư
pháp) đều rất dễ có xu hướng lạm dụng quyền lực, xâm hại các quyền con
người, cụ thể:
Đối với nhánh lập pháp: với nhiệm vụ là xây dựng những chính sách, quy
tắc điều chỉnh hành vi của con người, liệu hệ thống pháp luật có đầy đủ và tạo ra
cơ chế hữu hiệu để bảo vệ quyền con người hay chưa? Các nội dung Quy định
của pháp luật thật ra là đang bảo vệ hay hạn chế quyền con người? Bởi, quyền
con người, theo học thuyết về quyền tự nhiên thì mọi cá nhân sinh ra đều được
hưởng, là bẩm sinh, vốn có của con người.
Đối với nhánh hành pháp: có một điều rất dễ nhận thấy, đó là, từ khi sinh
ra cho đến khi mất đi, tất cả những hoạt động của con người hầu như gắn liền
với các cơ quan quản lý nhà nước. Trên thực tế, vấn đề vi phạm những quyền lợi
chính đáng, thiết thân của con người trong lĩnh vực quản lý, hành chính nhà
nước là câu chuyện đã được truyền thông, báo chí phản ánh rất nhiều với những
bức tranh hiện thực muôn màu. Nhận thức được điều này, công cuộc cải cách
thủ tục hành chính đã được Đảng và nhà nước tiến hành trong hơn 10 năm qua
và đã thu được nhiều kết quả, phản hồi tích cực.
Đối với nhánh tư pháp: mặc dù chúng ta cũng đã tiến hành cải cách tư
pháp từ sau Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 về Một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đặc biệt là Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-06-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhưng
những kết quả đạt được còn rất ít. Chính vì những đổi mới về nhận thức, lý luận
và áp dụng trong hệ thống tư pháp các cấp còn hạn chế nên quyền con người
trong lĩnh vực tư pháp thường bị vi phạm rất nhiều.

1



Khác với lĩnh vực hành pháp, trong lĩnh vực tư pháp, hậu quả của hành vi
lạm quyền, xét xử không theo nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật thường là rất
nghiêm trọng vì nó liên quan đến uy tín, danh dự, nhân phẩm, vận mệnh và có
thể cả là tính mạng, sự sống của con người, của đời người. Các bản án oan, sai,
xét xử không đúng hạn, vi phạm các thủ tục tố tụng, vi phạm quyền con người là
câu chuyện không còn xa lạ trong đời sống của chúng ta. Vì sao hệ thống tư
pháp lại còn nhiều bất cập đến vậy? Đó là do các nhánh quyền lực nhà nước còn
chưa độc lập, còn chồng chéo lẫn nhau. Quyền lực nhà nước của chúng ta không
được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền như nhiều nước khác trên thế giới.
Chúng ta đang chủ trương kiên trì con đường xây dựng nhà nước pháp
quyền, nhà nước pháp quyền nghĩa là phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con
người và tư pháp phải độc lập. Hiện nay chúng ta chưa thể có tư pháp độc lập
khi mà cả lập pháp, hành pháp và tư pháp vẫn theo cách phân công phân nhiệm
chứ không phải phân quyền. Quyền lực nhà nước vẫn theo nguyên tắc tập
quyền, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng thực sự nhân dân có
làm chủ quyền đó hay không khi mà chỉ thông qua cơ quan đại diện của nhân
dân là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp mà trong đó nhân dân với tư cách
“người làm chủ” không được quyền bãi nhiệm người đại diện của mình.
Việc phân công, phối hợp quyền lực nhà nước giữa quyền tư pháp với các
quyền lập pháp và hành pháp cần phải bảo đảm nguyên tắc độc lập của tư pháp.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của tòa án nước ta chưa bảo đảm được tính độc
lập. Tư pháp chưa thể độc lập khi mà hệ thống tòa án còn được tổ chức theo các
cấp quản lý hành chính, bị chi phối, tác động theo các cấp ủy, Đảng địa phương.
Vì vậy, có thể nói, quyền con người trong lĩnh vực tư pháp của chúng ta
hiện nay chưa được đảm bảo, chưa có cơ chế bảo vệ hữu hiệu và vẫn còn bộc lộ
những bất cập cả về lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Những bất cập này đã
ít nhiều gây thiệt hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp


2


pháp của công dân; vi phạm đến các vấn đề về dân chủ, công bằng, bình đẳng
trong xã hội; làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Đó là nguyên cớ để các thế lực thù địch tìm cách chống phá lại sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang tích cực triển khai những
nhiệm vụ khác nhau nhằm hiện thực hóa việc xây dựng nhà nước pháp quyền, là
một mô hình tổ chức nhà nước chống lại sự lạm quyền, đề cao, bảo vệ và tôn
trọng các quyền con người. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi
chính quyền phải chịu sự kiểm soát của pháp luật. Nhà nước pháp quyền yêu cầu
chính quyền phải chịu sự ràng buộc bởi pháp luật để bảo vệ con người, trong đó
tư pháp là lĩnh vực có chức năng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và bảo
vệ con người. Do đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền không thể tách rời với
quá trình xây dựng, cải cách nền tư pháp, hướng tới một nền tư pháp công minh,
độc lập, hiệu quả, bảo vệ các quyền con người. Chính vì vậy, để xây dựng thành
công nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh cải cách tư
pháp, hướng tới một nền “tư pháp độc lập” nhằm “bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân”.
Trên thực tế, thời gian vừa qua công luận đã liên tiếp đưa ra ánh sáng tình
trạng bắt người tùy tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người
không có căn cứ, khởi tố điều tra sai, khởi tố điều tra khi không đủ căn cứ dẫn
đến xâm hại nghiêm trọng đến nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Do hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật
khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp
không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội
phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra.
Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này.
Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội


3


đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều
tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an
toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án
Vườn Mít là một ví dụ.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2003, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ
chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu
chứng minh mình vô tội. Tuy nhiên trên thực tế chỉ vì im lặng mà xảy ra những
cái chết đau lòng tại trụ sở công an. Vụ án 05 công an đánh chết nghi can trong
quá trình điều tra ở Phú Yên trong thời gian vừa qua là một minh chứng.
Thực tế cho thấy vấn đề đảm bảo quyền con người nói chung và đảm bảo
quyền con người trong hoạt động tư pháp ở nước ta tuy đang từng bước được
củng cố và đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá
về sự công bằng, dân chủ và tiến bộ trong xã hội, tuy nhiên còn bộc lộ nhiều bất
cập, thiếu sót, hạn chế, lý thuyết và là nội dung khá mới mẻ trong nhận thức của
công dân, trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong việc tổ
chức thực hiện trên thực tế. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một
cách toàn diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn để góp phần thiết thực vào
việc đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người trong hoạt động tư
pháp nói riêng, làm cơ sở cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Chính vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của tư pháp
trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về tư pháp và quyền con người nói
chung, về bảo đảm quyền con người bằng hoạt động tư pháp trong nhà nước

pháp quyền nói riêng, chẳng hạn như:

4


- Bài viết: Vai trò của tư pháp độc lập của tác giả Philippa Strum, được
dịch và in trong cuốn Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu luận
của học giả nước ngoài, NXB Lao động xã hội (2012), đã chứng minh những
đóng góp quan trọng của nhánh quyền lực tư pháp trong việc bảo vệ và thúc đẩy
các quyền con người ở Hoa Kỳ.
- Bài viết: Tầm quan trọng của tư pháp độc lập của tác giả Sandra Day
O’Connor, được dịch và in trong cuốn Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến:
Một số tiểu luận của học giả nước ngoài, NXB Lao động xã hội (2012), đã cho
thấy tính phổ biến của tư pháp độc lập trong việc bảo vệ quyền con người, thông
qua hoạt động xét xử.
- Ấn phẩm: Phương thức hoạt động của tòa án Hoa Kỳ của Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ (1999) bao gồm nhiều bài viết của nhiều tác giả về các phương diện của
hệ thống tư pháp Hoa Kỳ, trong đó chủ yếu đều cập đến lịch sử hình thành và
phát triển của nền tư pháp Hoa Kỳ, những thành tựu của Hiến pháp Hoa Kỳ
trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Bên cạnh đó, ấn phẩm này
cũng cung cấp những kinh nhiệm quý báu trong việc bảo đảm sự vô tư, khách
quan của thẩm phán bằng hệ thống đạo đức nghề nghiệp của thẩm pháp và
phương thức kỷ luật thẩm phán trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về tư pháp, cải cách tư pháp và
quyền con người, có thể kể ra một số nghiên cứu sau:
Một số sách, công trình nghiên cứu:
- Lê Cảm – Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) (2004), Cải cách tư pháp ở
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã tình bày những vấn đề cơ bản cần đặt ra trong

quá trình cải cách tư pháp trong mối quan hệ với những yêu cầu của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa về tổ chức, hoạt động của quyền tư pháp; vị trí, vai

5


trò và đặc điểm của mối quan hệ giữa các thiết chế bên trong cũng như mối quan
hệ giữa quyền lực tư pháp với quyền lập pháp và hành pháp.
- Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội. Tác phẩm đã đề cập đến vấn đề lý luận về
thể chế tư pháp, thể chế tư pháp ở nhà nước pháp quyền dân chủ và thể chế tư
pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, NXB. Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2012), Tòa án Việt Nam trong bối cảnh
xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác
phẩm đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của tòa án, phạm vi
của hoạt động xét xử cũng như tầm quan trọng của độc lập tư pháp trong nhà
nước pháp quyền.
- Phạm Hồng Thái – Nguyễn Sĩ Dũng – Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công
Giao – Hoàng Minh Hiếu – Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên) (2012), Sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp 1992: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Hồng Đức,
Hà Nội. Tác phẩm này gồm nhiều chuyên luận có giá trị tham khảo rất lớn của
các nhà nghiên cứu trong nước về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền,
các yêu cầu cần phải đảm bảo trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp.
- Nguyễn Đăng Dung – Phạm Hồng Thái – Lã Khánh Tùng – Vũ Công
Giao (đồng chủ biên) (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con
người, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên)
(2011), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp một khối lượng kiến thức
trọng tâm về pháp luật về quyền con người, nhằm đưa đến cho người đọc một sự
hiểu biết toàn diện và khái quát nhất.

6


- Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân (2012), Giới
thiệu Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR, 1966), NXB
Hồng Đức, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp những phân tích sâu sắc về nội hàm
của các quyền con người, đồng thời cũng trình bày sơ lược về quá trình phát
triển của các quyền con người.
- Nguyễn Đăng Dung – Phạm Hồng Thái – Lã Khánh Tùng – Vũ Công
Giao (đồng chủ biên) (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, NXB
Hồng Đức, Hà Nội.
- Gudmundur Alfredsson – Asbjorn Eide (đồng chủ biên) (1999), The
Universal Declaration of Human rights: A common standard of Achivement
(Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của Nhân loại), NXB
Martinus Nijhoff.
Một số bài viết:
- Lê Cảm (2006), “Tổ chức quyền tư pháp, yếu tố quan trọng nhất đảm
bảo cho thành công của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nhà nước
và pháp luật, (5).
- Ngô Huy Cương (2003), “Tổ chức tư pháp hướng tới Nhà nước pháp
quyền: Một số vấn đề cơ bản”, Nhà nước và pháp luật, (7).
- Nguyễn Đăng Dung (2007), “Trọng tâm của công tác cải cách tư pháp
hiện nay là bảo đảm cho nguyên tắc độc lập có hiệu lực trên thực tế”, Dân chủ
và Pháp luật, (178).
- Nguyễn Hải Ninh (2008), “Cải cách tư pháp ở Canada, Trung Quốc và
Nhật Bản”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 2008.

Những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập, phân tích rất sâu những
khía cạnh của nhà nước pháp quyền; vị trí, vai trò của tư pháp trong nhà nước
pháp quyền và yêu cầu của tư pháp độc lập nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước,
bảo vệ công lý và pháp luật; những yêu cầu và định hướng cải cách tư pháp

7


nhằm đảo bảo yêu cầu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, vẫn chưa đề cập đến vai trò cụ thể của tư pháp trong
việc bảo vệ quyền con người, cả trong lý luận và thực tiễn qua hoạt động xét xử
của tòa án ở Việt Nam. Cho nên, luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách toàn diện vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích mối quan hệ, vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con
người trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết được các
nhiệm vụ như sau:
- Làm rõ nội hàm và các đặc trưng của khái niệm nhà nước pháp quyền,
quyền con người và quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền.
- Phân tích các yêu cầu, đặc trưng và các nội dung vai trò của tư pháp
trong việc bảo vệ quyền con người.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn

về quyền tư pháp, quyền con người trong nhà nước pháp quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những nội dung về quyền tư pháp, quyền con người
trong nhà nước pháp quyền, vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con
người theo những tiêu chuẩn chung của pháp luật thế giới và được áp dụng trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

8


5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về hệ thống pháp luật và
quyền con người. Quan điểm của Liên hợp quốc về vai trò của tư pháp trong
việc bảo vệ các quyền con người.
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn này bao gồm: phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và khảo cứu tài liệu.
Cách tiếp cận của luận văn bao gồm: triết học, chính trị học và luật học.
6. Những nét mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư pháp và quyền
con người ở Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào phân tích toàn diện và
thấu đáo về mối quan hệ, vai trò của tư pháp độc lập trong việc bảo vệ, thúc đẩy
quyền con người. Luận văn này góp phần khỏa lấp khoảng trống đó, bổ sung
cho các nghiên cứu hiện hành về hai lĩnh vực này ở Việt Nam. Tuy vậy, các
công trình đã nghiên cứu sẽ là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác
giả trong quá trình thực hiện luận văn.
7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học
cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề cải cách hoạt động tư pháp, nâng cao

chất lượng hệ thống tư pháp nhằm bảo vệ hiệu quả những quyền cơ bản của
công dân nói riêng và quyền con người nói chung.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu ở khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác
ở Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các nghiên cứu, hội thảo, chuyên đề có liên quan đến vấn đề tư pháp và quyền
con người.

9


8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết như sau:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người và quyền tư pháp.
- Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư
pháp ở Việt Nam.
- Chương 3. Một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam
hiện nay.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ QUYỀN TƯ PHÁP

1.1. Khái quát về quyền con người
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về quyền con người
Quyền con người là một khái niệm tiến triển theo thời gian. Sự phát triển

của nó “gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của các tôn giáo, tư tưởng, tập quán
và pháp luật trong các giai đoạn lịch sử của nhân loại” [14, tr.19]. Trong thời
kì cổ và trung đại, các giáo lý của một số tôn giáo lớn như Phật giáo, Thiên chúa
giáo và Hồi giáo đều đã chứa đựng những tư tưởng có ý nghĩa đạo đức về bình
đẳng, hạnh phúc và tự do. Một số bộ luật cổ còn lưu giữ lại được như Bộ luật
Hammurabi cổ đại (khoảng 1780 tr.CN), Bộ luật của Cyrus Đại đế (khoảng 550
tr.CN), Bộ luật Ashoka (khoảng 273-231 tr.CN),… đã đề cập đến việc bảo vệ
các quyền lợi chính đáng của con người. Trong các tác phẩm của mình, các nhà
tư tưởng có ảnh hưởng trong thời kì này như Aristotle, Platon, Khổng Tử, Mặc
Tử,… đều đã đề cập đến những khía cạnh về sự bình đẳng, tự do và các quyền
của con người.
Tiếp theo, cho đến trước cách mạng tư sản, nhiều văn kiện như Đại
Hiến chương Anh (Magna Carta, 1215), Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of
Rights, 1689),… đã chứa đựng những quy định nhằm bảo vệ nhân phẩm của
con người – “chịu ảnh hưởng của các tư tưởng nhân văn trong các học thuyết
tôn giáo” [14, tr.20].
Thời kỳ Khai sáng và cách mạng tư sản, tư tưởng về quyền con người đã
đánh dấu một bước phát triển mới. Nhiều tư tưởng, học thuyết tiến bộ về chính
trị – xã hội ra đời hoặc hồi sinh, nổi bật trong số đó là tư tưởng về quyền tự
nhiên (natural rights) với một số học giả tiêu biểu như Thomas Hobbes, John

11


Locke, Thomas Paine,… Họ cho rằng: “quyền con người là những gì bẩm sinh,
vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành
viên của gia đình nhân loại” [14, tr.20]. Điều này cũng có thể được hiểu rằng,
các quyền con người “không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống
văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay
nhà nước nào” [12, tr.39]. Cho nên, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có

quyền ban phát hay tước bỏ các quyền gắn với con người này.
Ngược lại, các nhà tư tưởng về học thuyết quyền pháp lý (legal rights) với
đại diện Edmund Burke và Jeremy Bentham lại cho rằng: “quyền con người
không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà
nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát
từ truyền thống văn hóa” [12, tr.39].
Những tư tưởng trong thời kì Khai sáng nêu trên đã có những tác động, ảnh
hưởng to lớn đến các cuộc cách mạng tư sản – với ngọn cờ quyền con người nhằm
chống lại xã hội phong kiến thần quyền. Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập của Mỹ
(1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), hay Bộ luật về
Quyền của Mỹ (1791) đã khẳng định quyền con người như một chân lý tự nhiên
rằng: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” [15, tr.115]. “Con người sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi và phải luôn được tự do, bình đẳng về quyền lợi” [15, tr.119].
Từ thế kỉ XIX cho đến nay, quyền con người càng trở nên phổ biến, được
thừa nhận và tuân thủ bởi nhiều quốc gia trên thế giới, bất chấp sự khác biệt về
thể chế chính trị, hệ tư tưởng, truyền thống văn hóa và pháp luật. Cùng với sự ra
đời của những khái niệm khác có liên quan đến quyền con người như dân chủ,
phát triển, hòa bình, an ninh,… làm cho “quyền con người trở thành một trong
những khái niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường
xuyên và nồng nhiệt nhất hiện nay” [12, tr.56].

12


Mặc dù có một quá trình phát triển lâu dài như đã trình bày ở trên, vẫn
chưa có một khái niệm thống nhất về quyền con người, bởi đây là một phạm trù
đa diện, đa ngành. Với mỗi cách tiếp cận (luật học, chính trị học, triết học, văn
hóa học, đạo đức, tôn giáo,…) ta lại có một định nghĩa hoặc khái niệm riêng.

Năm 1994, theo một tài liệu của Liên hợp quốc cho thấy “có đến gần 50 định
nghĩa về quyền con người đã được công bố” [12, tr.37]. Đầu tiên phải kể đến
định nghĩa được đưa ra bởi Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc –
định nghĩa này cũng thường được trích dẫn bởi nhiều nhà nghiên cứu, đó là:
“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [12, tr.37].
GS. TS Nguyễn Đăng Dung – một người có nhiều năm kinh nghiệm
nghiên cứu trong lĩnh vực quyền con người lại đưa ra một định nghĩa như sau:
Quyền con người là những quyền cơ bản nhất của con người,
được có một cách tự nhiên, gắn bó mật thiết với con người – một động
vật cao cấp có lý trí và có tình cảm, làm cho con người khác với các
động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ
quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [4].
Từ hai định nghĩa nêu trên, có thể rút ra được một số khía cạnh chung về
cách hiểu, nhận thức về quyền con người là: thứ nhất, quyền con người là những
quyền cơ bản, gắn với cá nhân con người, xuất phát từ phẩm giá vốn có của họ
mà không có bất kì sự phân biệt nào. Nhờ những quyền đó con người mới tồn tại
và phát triển được bản thân trong đời sống cộng đồng; thứ hai, các quyền con
người yêu cầu phải được pháp luật ghi nhận và bảo đảm – đây chính là công cụ
hữu hiệu nhất để bảo vệ các quyền con người, ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế.
Về các đặc trưng của quyền con người, theo cách hiểu hiện nay của luật
nhân quyền quốc tế, quyền con người có bốn đặc trưng cơ bản, đó là:

13


Thứ nhất, tính phổ biến (universal). Theo đặc trưng này, “quyền con
người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng
cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại mà không có bất cứ sự phân

biệt nào về chủng tộc, màu da, tôn giáo, xuất thân,…” [12, tr.41] Tuy nhiên, sự
bình đẳng ở đây không phải là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà bình đẳng về tư
cách chủ thể, và bình đẳng về cơ hội để thụ hưởng các quyền con người.
Thứ hai, tính không thể phân chia (indivisible). Đặc trưng này chỉ ra các
quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, không quyền nào được coi là
có giá trị hơn quyền nào. Bất kì một sự tước bỏ hay hạn chế quyền con người
nào đều sẽ gây ra những “tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát
triển của con người” [12, tr.42]. Mặc dù vậy, trong những điều kiện, hoàn cảnh
thực tế, tùy theo những yêu cầu cụ thể mà có những quyền được ưu tiên thực
hiện. Chẳng hạn như trong chiến tranh, bệnh dịch, hay đói nghèo thì các quyền
như quyền sống, quyền về y tế, quyền về lương thực sẽ được ưu tiên thực hiện
hơn các quyền con người khác.
Thứ ba, tính không thể tước bỏ (inalienable). Về cơ bản, các quyền con
người là các quyền nhân thân, nó gắn liền với các cá nhân, cho nên không một
chủ thể nào, kể cả cơ quan nhà nước có thể tùy tiện tước đoạt hay giới hạn. Sự
tước đoạt hay giới hạn phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt của pháp luật
– được thừa nhận chung bởi các quốc gia trên thế giới. Ví dụ như, trong tình
trạng khẩn cấp quốc gia (state emergency) thì một số quyền con người có thể bị
giới hạn, như quyền tự do đi lại, quyền hội họp, biểu tình,… hoặc khi một cá
nhân vi phạm những tội ác nghiêm trọng nhất, quyền sống của cá nhân đó có thể
sẽ bị tước đoạt (hình phạt tử hình).
Thứ tư, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated & interdependent).
Đặc trưng này nói lên rằng các quyền con người có mối liên hệ phụ thuộc và tác
động qua lại lẫn nhau: “Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây

14


ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong
việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặ gián tiếp tác động tích cực đến việc

bảo đảm các quyền khác” [12, tr.43].
1.1.2. Cách thức ghi nhận các quyền con người
Trong một nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân
là bình đẳng dựa trên cơ sở của pháp luật, và Hiến pháp – bản khế ước thể hiện
sự đồng thuận của những người bị trị – đóng vai trò rất quan trọng. Các quyền
con người, quyền công dân, thường là một phần trong các bản Hiến pháp. Chẳng
hạn, Bộ luật về Quyền của Mỹ (Bill of Rights, 1791) chính là 10 Tu chính án
Hiến pháp đầu tiên, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789)
chính là một phần của Hiến pháp Pháp, hay Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of
Rights, 1689) là một nguồn của Hiến pháp Anh. Các bản Hiến pháp cổ điển này
chủ yếu quy định các quyền dân sự và chính trị. Ngày nay, các bản Hiến pháp
hiện đại đã mở rộng phạm vi các quyền con người, ghi nhận thêm cả các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội, và cả quyền của các nhóm yếu thế (chẳng hạn như phụ
nữ, trẻ em, người thiểu số…).
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp 2013, chia thành
các nhóm quyền như sau: thứ nhất, các quyền dân sự, chính trị như: quyền tự do
và an ninh cá nhân; quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ
một cách bình đẳng; quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi ở; quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin; quyền lập hội,
hội họp; quyền được bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý đất nước;… thứ hai,
các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như: quyền làm việc; quyền học tập; quyền
được chăm sóc sức khỏe; các quyền về an sinh xã hội;…
Ngoài ra, các đạo luật, luật cũng đã cụ thể hóa các quyền con người trong
Hiến pháp vào các lĩnh vực pháp lý cụ thể, chẳng hạn như quyền con người

15


trong lĩnh vực dân sự, quyền con người trong lĩnh vực hình sự, hay quyền con

người trong lĩnh vực hành chính, lao động,… Cùng với đó, quyền của các nhóm
cũng được ghi nhận cụ thể hơn, chẳng hạn quyền của phụ nữ, quyền trẻ em,
quyền của người sống chung với HIV/AIDS hay quyền của người khuyết tật,…
Với một hệ thống các quy định của pháp luật như trên, từ Hiến pháp cho
đến các văn bản dưới nó, quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam luôn được ghi nhận và bảo đảm (về mặt pháp lý). Tuy
nhiên, việc ghi nhận và bảo đảm về mặt pháp lý như trên là chưa đủ, còn cần
phải có những biện pháp, chính sách đảm bảo thực hiện các quyền con người
trên thực tế. Theo PGS. TS Tường Duy Kiên thì cần phải:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng pháp
luật về quyền con người, quyền công dân; Xây dựng chế độ trách
nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức trong quá trình thực
thi công vụ; Đảm bảo tính độc lập của cơ quan tư pháp trong việc
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Đề cao vai trò của các tổ
chức xã hội dân sự [20, tr.64-69].
Còn theo PGS. TS Đinh Văn Mậu, để quyền con người được bảo đảm
thực hiện, cần phải:
Thông qua mối quan hệ giữa nhà nước và công dân do pháp luật
quy định; Thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước như cơ
quan lập pháp, cơ quan hành pháp, Tòa án và Viện Kiểm sát; Bằng
việc hoàn thiện tổ chức nhà nước như đổi mới tổ chức thực hiện thẩm
quyền Quốc hội, cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách tư pháp
và nâng cao trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong cơ chế thị trường và dân
chủ hóa xã hội [17, tr.82-111].

16



Nhìn chung thì với mỗi nhà nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau lại chỉ
ra được những yêu cầu cần phải thực hiện nhằm đảm bảo quyền con người trên
thực tế. Tựu chung lại, có thể phân biệt thành các nhóm biện pháp sau: thứ nhất,
các biện pháp liên quan đến hoạt động lập pháp và hoạt động thi hành pháp luật;
thứ hai, các biện pháp liên quan đến chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức trong việc bảo vệ các quyền con người; thứ ba, các biện pháp
xử lý vi phạm quyền con người, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân;
thứ tư, các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà nước.
Trong phạm vi của luận văn sẽ đề cập chủ yếu đến nhóm các giải pháp thứ ba,
và sẽ được trình bày cụ thể hơn ở các phần sau.
1.2. Khái quát về quyền tư pháp
1.2.1. Quan niệm chung về quyền tư pháp
Trong khoa học pháp lý, theo nghĩa truyền thống, thuật ngữ “quyền tư
pháp” thường được hiểu đơn giản là quyền xét xử. Cụ thể, đó là quyền của Tòa án
xét xử một vụ việc trên cơ sở xem xét các tính tiết thực tế, áp dụng pháp luật để
xác định hậu quả pháp lý và ra phán quyết, quyết định. Hiểu theo nghĩa này, hệ
thống cơ quan thực hiện quyền tư pháp chính là hệ thống cơ quan thực hiện quyền
xét xử, tức là hệ thống tòa án. Từ điển Black’s Law Dictionary định nghĩa, quyền
tư pháp là “thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết
định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ
việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc
một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh ấy” [3].
Ngày nay, cách hiểu truyền thống về quyền tư pháp vẫn được sử dụng, tuy
nhiên cũng đã xuất hiện những quan điểm về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp
theo hướng tiếp cận rộng hơn, tổng quát hơn. Chẳng hạn như, các cơ quan công
tố ở nhiều quốc gia trên thế giới có thể trực thuộc nhánh hành pháp hay tòa án,
song ngày càng có xu hướng vận hành theo nguyên tắc độc lập giống như hệ

17



thống tòa án. Quan điểm này được phản ánh trong các bản Hiến pháp xã hội chủ
nghĩa và ở một số Hiến pháp các quốc gia Đông Âu hiện nay. Chẳng hạn như,
Hiến pháp Trung Quốc gộp chung hệ thống Tòa án nhân dân và hệ thống Viện
kiểm sát vào chương điều chỉnh về các cơ quan tư pháp, Hiến pháp Liên bang
Nga quy định Viện công tố và Tòa án (cả Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga)
cùng thực hiện quyền tư pháp trong một chương. Theo nghĩa rộng này, thì các
cơ quan tư pháp có thể bao gồm:
Hệ thống tòa án; Cơ quan giữ quyền công tố; các cơ quan giữ
quyền điều tra; Các cơ quan thi hành án hình sự và dân sự; Các thiết
chế bổ trợ tư pháp, ví dụ công chứng, đăng ký giao dịch có bảo đảm,
thừa phát lại. Ngoài ra, các cơ quan tư pháp còn liên quan mật thiết
đến những người có hành nghề liên quan đến tư pháp như: luật sư;
giám định viên; kiểm toán viên; những người hành nghề bổ trợ tư
pháp khác [18].
Trong phạm vi luận văn này, khái niệm quyền tư pháp được sử dụng theo
nghĩa truyền thống (nghĩa hẹp), đó là quyền xét xử của tòa án, và tòa án chính
là cơ quan tư pháp của một quốc gia: “Quyền tư pháp là khả năng và năng lực
riêng của các cơ quan tòa án, chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước thực
hiện để tác động đến hành vi con người, đến quá trình xã hội” [25]. Bởi vì, tòa
án là nơi mà quyền tư pháp được thi hành một cách đầy đủ nhất, và hoạt động
xét xử của tòa án thể hiện đầy đủ nhất các đặc điểm của quyền tư pháp.
Ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phương Tây, quyền tư
pháp cùng với quyền lập pháp và hành pháp là ba nhánh quyền lực của nhà nước
trong cơ chế phân quyền. Trong khi quyền lập pháp và quyền hành pháp luôn có
xu hướng có quan hệ mật thiết với nhau, thì quyền tư pháp luôn phải độc lập –
một nguyên tắc quan trọng trong nhà nước pháp quyền. Chỉ có vậy, hoạt động
xét xử mới thực sự công bằng, công lý được thực hiện và xây dựng được niềm

18



tin của người dân vào hệ thống tư pháp. Lon Fuller – một nhà nghiên cứu về lĩnh
vực nhà nước pháp quyền viết:
Nguyên tắc nhà nước pháp quyền chỉ tồn tại khi, thứ nhất, công
lý và nhân phẩm của con người được bảo đảm; thứ hai, các cơ quan
hành pháp phải có trách nhiệm thi hành các quy định của lập pháp đã
được thông qua, ngay cả trong trường hợp quy định đó là sai; thứ ba,
khi các quy định đó được các cơ quan tư pháp đảm bảo thực thi một
cách nghiêm túc; thứ tư, khi có một hệ thống cơ quan tòa án độc lập
sẵn sàng bảo vệ các bên bị xâm hại chống lại các hành vi cửa quyền
của các cơ quan chức năng của nhà nước [6, tr.79].
Với tư cách là một trong các nhánh quyền lực nhà nước, bên cạnh những
đặc điểm chung của các bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước như quyền lực
công cộng, thể hiện ý chí của nhân dân,… hoạt động tư pháp của tòa án có
những đặc trưng riêng mang tính đặc thù sau đây.
1.2.2. Các đặc trưng của quyền tư pháp
Trong một nhà nước pháp quyền, hoạt động tư pháp của hệ thống tòa án
có các đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực – quyền
nhân danh nhà nước xét xử và tuyên án. Trong nhà nước pháp quyền, không một
cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có quyền kết tội một công dân. Chỉ có tòa án
mới có quyền nhân danh nhà nước phán xét một người là có tội hay không có
tội. Điều này được thể hiện trong “nguyên tắc suy đoán vô tội” – một nguyên
tắc kinh điển trong hoạt động tư pháp được thừa nhận chung bởi nền văn minh
pháp lý nhân loại, rằng: không có ai bị coi là có tội cung như phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra,
bất kì sự giới hạn hay tước bỏ các quyền, lợi ích của cá nhân hay các tổ chức
đều phải bằng con đường hoặc thủ tục tư pháp.


19


Hoạt động xét xử của tòa án cũng chính là việc áp dụng pháp luật vào việc
giải quyết các tranh chấp, vi phạm cụ thể. Quy trình này phải tuân theo những
trình tự, thủ tục luật định một cách nghiêm ngặt, không được bỏ qua một thủ tục
nào, nhằm tránh sự lạm dụng của quyền tư pháp, gây tổn hại cho nền công lý
quốc gia, làm giảm niềm tin của công chúng vào công lý, vào bộ máy nhà nước.
Cho nên, phán quyết và quyết định của tòa án có hiệu lực cao, yêu cầu các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải tôn trọng, các chủ thể liên quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành. Chỉ có vậy, tính thiêng liêng, hiệu lực và sức
mạnh của pháp luật mới được bảo vệ.
Trong hoạt động xét xử, ngoài căn cứ vào pháp luật, tòa án còn cần phải
căn cứ vào công lý để áp dụng linh hoạt. Đó chính là biểu hiện của sự công
bằng, khách quan, vô tư và tình người, để sao cho công bằng không bị bóp méo
theo điều cứng nhắc, đóng khung của pháp luật.
Thứ hai, hoạt động tư pháp đưa ra những đánh giá về mặt pháp lý cho các
sự kiện. Trước hết, hoạt động tư pháp phải tìm kiếm, xác định và minh định được
các sự kiện xảy ra, trên cơ sở đó phải đưa ra được những đánh giá về mặt pháp
lý cho các sự kiện này, từ đó mới áp dụng được pháp luật. Điều này đòi hỏi nỗ
lực trí tuệ và trách nhiệm rất cao của các chủ thể áp dụng pháp luật, bởi vì đây là
những vấn đề liên quan đến con người, liên quan đến lợi ích của các bên (có thể
trái ngược hoặc mâu thuẫn với nhau). Cho nên, tòa án phải độc lập, khách quan,
vô tư, tôn trọng sự thật thì mới có thể làm trọng tài cho các bên tranh chấp.
Thứ ba, hoạt động tư pháp mang tính hình thức, thể hiện ở những thủ tục
pháp lý chặt chẽ. Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động tư pháp có sự đòi hỏi
về tính hình thức rất cao, có nghĩa là phải theo những thủ tục rất chặt chẽ. Đặc
trưng này thể hiện ở “nguyên tắc tranh tụng” – một nguyên tắc rất quan trọng
của hoạt động tư pháp. Tòa án đóng vai trò là người trọng tài, chỉ căn cứ vào các
chứng cứ được đưa ra trước phiên tòa và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa để

đưa ra phán quyết, quyết định của mình một cách khách quan, vô tư nhất.

20


×