MỤC LỤC
I. HIỆN TRẠNG 1 SỐ LƯU VỰC SÔNG ......................................................................... 3
1. Lưu vực sông Cầu ......................................................................................................... 3
2. Lưu vực sông Nhuệ, sông Ðáy ..................................................................................... 5
3. Lưu vực sông Ðồng Nai, sông Sài Gòn ........................................................................ 7
4. Lưu vực sông Tiền Giang và Hậu Giang .................................................................... 9
II. CƠ CHẾ VÀ NGUYÊN LÝ QUÁ TRÌNH TỰ LÀM SẠCH TRONG ĐIỀU KIỆN
ĐỘNG VÀ TĨNH ................................................................................................................... 12
1. Khái niệm: ................................................................................................................... 12
2. Dấu hiệu nguồn nước nhiễm bẩn: ............................................................................. 13
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tự làm sạch của nguồn nước: .................... 13
4. Quá trình xáo trộn nước thải với nước nguồn ......................................................... 13
5. Ảnh hưởng của dòng chảy tới khả năng tự làm sạch của nguồn nước: ................. 15
III. MỘT SỐ MÔ HÌNH DỰ BÁO Ô NHIỄM ............................................................... 18
1. Nhóm mô hình 1: IPC ................................................................................................. 18
2. Nhóm mô hình 2 - Mô hình QUAL2K ...................................................................... 20
IV. HIỆN TRẠNG XẢ THẢI TẠI ĐÔ THỊ, KCN ........................................................ 24
1. 70% khu công nghiệp xả thẳng nước thải ra môi trường ....................................... 24
2. Khu công nghiệp Lê Minh Xuân : Xả nước thải chưa qua xử lý ra kênh ............. 25
V. CÁC CÔNG NGHỆ ĐƯỢC ỨNG DỤNG VÀ SỐ LƯỢNG CHẤT LƯỢNG CÔNG
TRÌNH ĐANG TRIỂN KHAI ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CÔNG NGHỆ ............... 28
1. Nhà máy XLNT Bình Hưng -TP Hồ Chí Minh với công nghệ C-Tech .................. 28
2. Xử lý nước thải KCN bằng công nghệ Unitank ....................................................... 29
3. Hệ thống xử lý nước thải KCN công nghỆ SBR (Sequencing Batch Reactor) ..... 33
4. Nghiên cứu xử lí nước thải công nghiệp giấy bằng công nghệ chảy ngược qua lớp
bùn yếm khí (UASB) ......................................................................................................... 36
5. Xử lý nước thải dệt nhuộm theo phương pháp sinh học kết hợp keo tụ tạo
bông
(
Công ty Dệt nhuộm Xuân Hương – KCN Tân Tạo) ..................................................... 41
6. Hiện trạng áp dụng công nghệ xử lý nước thải tập trung tại một số KCN/KCX
điển hình: ............................................................................................................................ 44
VI. TỔNG KẾT ................................................................................................................. 46
I. HIỆN TRẠNG 1 SỐ LƯU VỰC SÔNG
Trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức tài nguyên nước, các
tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước; việc phát triển đô thị và công nghiệp
nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý các chất thải lỏng, thải rắn theo yêu cầu
cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước, cho nên suy thoái nguồn nước trở thành khá phổ biến đối
với các lưu vực sông (LVS), vì vậy Việt Nam (VN) đã được quốc tế xếp vào loại các quốc
gia có tài nguyên nước suy thoái.
VN có 2360 con sông, có chiều dài trên 10km, trong đó có 9 hệ thống sông lớn có diện tích
lưu vực trên 10.000km2. Tổng lượng nước hàng năm chảy qua các sông, suối tới 835 tỷ m3,
trong đó có 313 tỷ m3 sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam còn lại 522 tỷ m3 từ lãnh thổ các
nước ngoài chảy vào nước ta.
VN có 16 LVS (trong đó có 13 LVS lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, Bằng Giang – Kỳ
Cùng, sông Mã, sông Cả, sông Vu Gia – Thu Bồn, sông Ba, sông Đồng Nai, sông Cửu Long,
sông Đà, sông Lô, sông Sêsan, sông Sêrêpôk). Đáng lo ngại là, 10/13 LVS đều liên quốc gia
với Trung Quốc, Lào, Campuchia; 70% diện tích lưu vực nằm ngoài biên giới VN; 63%
lượng nước các LVS đều chảy vào từ ngoài lãnh thổ.
Các LVS ở Việt Nam
Nhiều lưu LVS ở Việt Nam đang bị ô nhiễm như :
1. Lưu vực sông Cầu
LVS Cầu và các phụ lưu qua các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc
Ninh và Hải Dương
Sơ đồ sông Cầu - Ảnh: Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn.
LVS Sông Cầu nằm trong phạm vi tọa độ địa lý: 21
o
07 - 22
o
18 vĩ bắc, 105
o
28 -
106
o
08 kinh đông, có diện tích 6.030 km
2
, bao gồm toàn bộ hay một phần lãnh thổ của các
tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc.Sông Cầu là sông lớn nhất
trong hệ thống sông Thái Bình. Sông Cầu có 2 phụ lưu lớn là sông Công (dài 96 km) và sông
Cà Lồ (dài 89km).
Ðây là một lưu vực (LV) đã bị ô nhiễm hoàn toàn. Dân số sống trong LV này chiếm
khoảng 7 triệu trên một diện tích độ 10 ngàn Km
2
. Trong LV này, ngoài khu sản xuất công
nghiệp lớn nhất Thái Nguyên, qua việc khai thác mỏ và hóa chất, còn có trên dưới 800 cơ sở
sản xuất tiểu thủ công nghiệp và quy mô công nghiệp nhỏ như các làng nghề tập trung.
Lượng chất thải lỏng thải hồi vào LVS Cầu ước tính khoảng 40 triệu m
3
/năm. Riêng khu vực
Thái Nguyên thải hồi khoảng 24 triệu m
3
trong đó có nhiều kim loại độc hại như Selenium,
Mangan, Chì, Thiết, Thủy Ngân và các hợp chất hữu cơ từ các nhà máy sản xuất hóa chất
bảo vệ thực vật như thuốc sát trùng, thuốc trừ sâu, trừ nấm mốc v.v....
Tại tỉnh Bắc Ninh, có trên 60 làng nghề đã có từ lâu đời. Nơi đây cũng còn có các ngành
chế biến lâm sản và kỹ nghệ giấy, tái sinh giấy. Các kỹ nghệ này đã phát thải nhiều hóa chất
hữu cơ độc hại trong đó các chất tẩy trắng chứa clo là một nguy cơ ô nhiễm cao nhất. Vì
trong công đoạn này phát sinh ra dioxin, mầm móng của bịnh ung thư. Trong các phụ lưu của
sông Cầu, hầu hết những thông số phân tích đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến hơn
50 lần như nhu cầu oxy hóa học (COD), lượng oxy hòa tan (DO), tổng cặn lơ lững (TSS),
nitrite (NO2).
Với những thông số ghi nhận tên đặc biệt là DO, một thông số chỉ lượng oxy hòa tan rất
thấp, nhiều khi dưới 1,0 đơn vị, có nghĩa là trong lưu vực sông Cầu lượng tôm cá hầu như
không còn hiện diện nữa.
2. Lưu vực sông Nhuệ, sông Ðáy
LVS Nhuệ, sông Ðáy chảy qua các tỉnh Hòa Bình, TP Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Nam Ðịnh,
và Ninh Bình.
Sơ đồ sông Nhuệ và sông Đáy - Ảnh: Bộ Tài nguyên Môi trường.
Dân số trong LV này khoảng 10 triệu trên một diện tích 7.700 Km
2
. Ðây là một vùng
có mật độ dân số cao trên 1.000 người/Km
2
và cũng là một trung tâm kinh tế quan trọng. Do
đó ngoài nước thải công nghiệp, cần phải kể thêm nước thải sinh hoạt gia cư, tất cả đều đổ
thẳng ra sông hồ. Lượng nước thải sinh hoạt được ước tính là 140 triệu m
3
theo thống kê
2004. Còn các nguồn nước thải của trên 120 cơ sở sản xuất công nghiệp ở vùng này trừ Hà
Nội ước tính khoảng 120 triệu m
3
/năm. Riêng tại Hà Nội, có 400 xí nghiệp và khoảng 11
ngàn cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp thải hồi trung bình 20 triệu m
3
/năm. Hà Tây là nơi
trọng điểm của làng nghề chiếm 120 làng trên tổng số 286 làng nghề trong khu vực.
Hai hạ lưu có ô nhiễm trầm trọng nhất là sông Nhuệ và sông Tô Lịch với hàm lượng DO hầu
như triệt tiêu, nghĩa là không còn điều kiện để cho tôm cá sống được, Vào mùa khô dòng
sông cạn kiệt, trơ đáy bùn nên nhiều khúc sông không khác gì bãi rác lô thiên.Hàng chục
nghìn gia đình sinh sống dọc tuyến đầu nguồn sông Tô Lịch được hướng dẫn dùng chế phẩm
sinh học làm sạch nước thải tại nguồn, trước khi thải ra sông.Nhờ đó, chất lượng nước sông
đầu nguồn được cải thiện, giảm đáng kể mùi hôi khó chịu…Việc quan trắc đánh giá chất
lượng và lưu lượng xả thải tại các cửa xả thải trực tiếp vào sông Nhuệ, sông Đáy được thực
hiện hàng năm.
Đến nay, một số hồ nội thành liên quan tới sông Nhuệ đã được cải tạo và xử lý ô
nhiễm; trạm xử lý nước thải khu công nghiệp (KCN) Phú Nghĩa đã đi vào hoạt động; đồng
thời cải tạo, nạo vét 1 km đoạn đầu sông Nhuệ, khơi thông 15 tuyến kênh tiêu chảy vào sông
Nhuệ, sông Đáy…
Thành phố Hà Nội xử lý được 80% chất thải rắn sinh hoạt, cả 3 KCN nằm trên LV
đều xây dựng hệ thống xử lý nước thải (có 2 hệ thống đã vận hành). Tuy nhiên mới có 4/47
cụm công nghiệp thuộc lưu vực đã có hệ thống xử lý nước thải và 6 cụm đang xây dựng.
Thành phố đang cải tạo, nâng cấp sông Tô Lịch đoạn từ Hoàng Quốc Việt đến Trung Hòa -
Nhân Chính bằng việc xây dựng đường, cống gom nước thải kết hợp xử lý các nguồn nước
thải trước khi đổ vào sông và quản lý rác thải. Hà Nội còn đang triển khai xây dựng dự án
"Thí điểm xử lý nước thải làng nghề chế biến tinh bột sắn xã Tân Hòa, huyện Quốc Oai công
suất 200 - 300m
3
/ngày đêm"; đầu tư xây dựng Nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt Yên Sở
công suất 200.000m
3
/ngày đêm và chuẩn bị đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải Yên
Xá công suất 275.000m
3
/ngày đêm, nhà máy xử lý nước thải Phú Đô công suất
71.000m
3
/ngày đêm. Đồng thời xây dựng dự án đầu tư, vận hành Nhà máy phân loại và ép
rác thải sinh hoạt xuất khẩu công suất 2.000 tấn/ngày tại Nam Sơn (Sóc Sơn), xây dựng khu
xử lý chất thải rắn Đồng Ké (Chương Mỹ), Khu xử lý rác thải Xuân Sơn (Sơn Tây) giai đọan
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang hỗ trợ thành phố đầu tư xây dựng trạm xử lý
nước thải làng nghề tại xã Dương Liễu (Hoài Đức) để xử lý nước thải cụm làng nghề Cát
Quế - Minh Khai - Dương Liễu được xếp loại ô nhiễm tốp đầu trên địa bàn.
Ninh Bình mới thu gom, xử lý được 80% chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và y tế.
Tỉnh đang đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tại thành phố Ninh Bình với
kinh phí 385.783 triệu đồng; và đang xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện tuyến
huyện, nâng cấp cải tạo hệ thống xử lý nước thải, chất thải rắn bệnh viện đa khoa tỉnh; xây
dựng dự án Nhà máy xử lý chất thải rắn thị xã Tam Điệp. Trong số 3 KCN, có một khu đang
vận hành hệ thống xử lý nước thải, hai khu còn lại đang xây dựng.
Năm nay, Nam Định tiếp tục đầu tư, hỗ trợ xây dựng 10 bãi chôn lấp xử lý nước thải
sinh hoạt, trong đó có 7 bãi chôn lấp thuộc 6 xã lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy; hỗ trợ thành
phố Nam Định xây dựng thêm hố chôn lấp trong Nhà máy xử lý rác thải Lộc Hòa, 2 bệnh
viện xây dựng lò đốt rác thải y tế và hỗ trợ kinh phí thực hiện thí điểm thu gom, xử lý chất
thải nguy hại làng nghề. Tỉnh còn tiếp tục hỗ trợ kinh phí để xây dựng 37 công trình bãi chôn
lấp xử lý rác thải, 4 công trình xây dựng nhà máy nước thải công nghiệp tại KCN Hòa Xá,
Cụm công nghiệp An Xá, Xuân Tiến và Yên Xá được đầu tư xây dựng từ năm 2007 tới nay.
Tuy nhiên hiện nay, tỷ lệ chất thải sinh hoạt được xử lý ở đây còn thấp (78% tại thành phố
Nam Định và gần 50% tại khu vực nông thôn). Nhưng phần lớn chất thải rắn công nghiệp
không nguy hại (521/696 tấn/tháng) đều được tận thu, tái sử dụng. Trong số 60% các cơ sở
sản xuất trong Khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải có khoảng 30% xử lý đạt
tiêu chuẩn môi trường.
Tại Hà Nam, mới xử lý được 65% trong tổng số 90% rác thải sinh hoạt được thu gom;
bù lại, đã xử lý được toàn bộ chất thải y tế và chất thải rắn nguy hại và không nguy hại tác
các KCN. Nhưng Hà Nam vẫn còn nỗi lo xử lý nước thải từ các Khu và cụm công nghiệp bởi
cho đến nay, mới chỉ có 1/4 tại Khu có hệ thống xử lý nước thải và cả 2 cụm công nghiệp
đều chưa có hệ thống này. Tương tự như vậy, phần lớn lượng nước thải sinh hoạt y tế đều
chưa được xử lý do có tới 9/13 bệnh viện chưa có hệ thống xử lý.
Hòa Bình là địa phương chưa có tốc độ phát triển công nghiệp, dịch vụ, nên lượng chất thải
phát sinh ít. Riêng chất thải rắn đô thị và làng nghề (khoảng 41.000m3/năm) đã thu gom, xử
lý được 70%. Hòa Bình đã đầu tư và đưa vào sử dụng bãi chôn lấp rác Lương Sơn; đang tiến
hành đầu tư, xây dựng khu xử lý rác thải cho thành phố qui mô 16 ha, xây dựng dự án xử lý
nước thải sinh hoạt tập trung công suất 5.120m3/ngày đêm cho thành phố.
3. Lưu vực sông Ðồng Nai, sông Sài Gòn
LVS Ðồng Nai, sông Sài Gòn gồm các tỉnh Lâm Ðồng, Ðắc Lắc, Ðắc Nông, Bình Phước,
Bình Dương, Tây Ninh, Ðồng Nai (Biên Hòa), thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Bà Rịa-
Vũng Tàu, Ninh Thuận, và Bình Thuận.
Sơ đồ LVS Đồng Nai - Ảnh: Hội Đập Lớn và phát triển VN.
LV này là một vùng đông dân cư, với diện tích 37.400 Km2, dài 586 km và dân số
khoảng 20 triệu, và cũng là một vùng tập trung phát triển công nghiệp lớn nhất và cũng là
một vùng được đô thị hóa nhanh nhất nước. Hiện nay, LVS Ðồng Nai có khoảng 70 khu chế
xuất, KCN. Hàng ngày sông ngòi trong LV này tiếp nhận khoảng 600 nghìn m
3
nước thải
công nghiệp, không kể một số lượng không nhỏ của trên 30 ngàn cơ sở sản xuất hóa chất rải
rác trong TP.HCM. Nước thải sinh hoạt ước tính khoảng 2,7 triệu m
3
/ngày đêm cũng chảy ra
sông.. Ngoài những chất thải công nghiệp như hợp chất hữu cơ, kim loại độc hại như: đồng,
chì, sắt, kẽm, thủy ngân, cadmium, mangan, các loại thuốc bảo vệ thực vật. Nơi đây còn xảy
ra hiện tượng nước sông bị acid hóa như đoạn sông từ cầu Bình Long đến Bến Than, nhiều
khi độ pH xuống đến 4,0 (độ pH trung hòa là 7,0), và trọng điểm là sông Rạch Tra, nơi tất cả
nước rỉ từ các bãi rác thành phố và hệ thống nhà máy dệt nhuộm ở khu Tham Lương đổ vào.
LV này hiện đang bị khai thác quá tải, nước sông hoàn toàn bị ô nhiễm và hệ sinh thái của
vùng này bị tàn phá kinh khủng, sản lượng vùng này chiếm 30% tổng sản lượng quốc dân.
Bốn khu vực bị ô nhiễm trầm trọng. Ðó là:
1 – Ðoạn sông Ðồng Nai từ cầu Hòa An đến cầu Ðồng Nai, nơi cung cấp nguồn nước
chính cho cư dân Sài Gòn
2 - Ðoạn từ Bình Phước đến Tân Thuận, địa phận của trên 10 khu chế xuất
3 - Ðoạn sông Thị Vải từ nhà máy hóa chất và bột ngọt Vedan của Ðài Loan đến cảng
Phú Mỹ
4 - Và nước sông Vàm Cỏ Ðông. Riêng sông Vàm Cỏ Ðông, nước sông nầy đang bị
acid hóa nặng.
Nồng độ các chất ô nhiễm trên sông Đồng Nai trong 5 năm qua liên tục bị phát hiện
vượt tiêu chuẩn cho phép loại A và xấp xỉ ngưỡng loại B. Trên thực tế từ năm 2009 đến nay,
nước sông Đồng Nai đang bị suy giảm cả về số lượng lẫn chất lượng so với những năm
trước.
Đối với nuôi thủy sản trên sông hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn. Khu vực Cù Lao
Phố thuộc thành phố Biên Hòa có truyền thống nuôi cá bè từ lâu nhưng hiện nay hàng trăm
lồng phải bỏ không. Từ đầu năm 2011 đến 9/2011 đã có 4 đợt cá chết khiến hàng tấn cá phơi
trắng bụng, thiệt hại lên đến hàng tỷ đồng.
Nuôi cá bè trên sông Đồng Nai (Nguồn: Báo điện tử ĐCSVN)
Nước sông từ Nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại (Đồng Nai) bắt đầu ô nhiễm các
chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng. Còn sông Sài Gòn bắt đầu ô nhiễm chất hữu cơ và ô nhiễm
vi sinh từ khu vực cửa sông Thị Tính và tăng dần về phía hạ lưu. Hàm lượng BOD5, COD, vi
sinh... đều không đạt quy chuẩn, khu vực cửa sông cũng bị ô nhiễm chất hữu cơ và vượt qua
QCVN 08 ở mức A1, một số nơi còn vượt mức B1...
4. Lưu vực sông Tiền Giang và Hậu Giang
LVS Tiền Giang và Hậu Giang gồm các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL).
Sơ đồ LVS Cửu Long - Ảnh: Trung tâm Khí tượng thủy văn Quốc gia.
Ðây là một vùng hết sức đặc biệt và cũng là một lưu vực lớn nhất và đông dân nhất với
diện tích 39 nghìn Km
2
và gần 30 triệu cư dân.. Phát triển kinh tế nơi đây đặt trọng tâm là
nông nghiệp và chăn nuôi thủy sản. Vì đây không phải là một trọng điểm công nghiệp cho
nên những vấn nạn môi trường không giống như tình trạng của 3 lưu vực vừa kể trên. Nhưng
việc khai thác nông nghiệp và thủy sản đã trở thành một vấn đề cần phải lưu tâm trong hiện
tại. Việc ô nhiễm hóa chất do dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật là kết quả của việc
khai thác tối đa nguồn đất cho nông nghiệp. Ðã có nhiều chỉ dấu cho thấy các hóa chất độc
hại như DDT, Nitrate, hóa chất BVTV thuộc nhóm organo-phosphate, nguyên nhân của
những mầm bịnh ung thư đã hiện diện trong nước. Nguồn nước ở lưu vực này bị ô nhiễm
arsenic do việc đào trên 300 ngàn giếng để dùng cho sinh hoạt và tưới tiêu. Việc khai thác
chăn nuôi thủy sản trên sông, ngoài việc làm cản trở dòng chảy của sông, việc di chuyển trên
sông sẽ khó khăn thêm, mà còn là một vấn nạn môi trường không thể tránh khỏi. Từ thượng
nguồn Châu Ðốc, An Giang, cho đến tận Mỹ Tho, cá bè trong mùa cá bị chết hàng loạt do
nguồn nước ô nhiễm từ thượng nguồn do cá chết lây lan xuống hạ lưu. Kết quả là trên 40%
lượng tôm cá bị thất thoát trong mùa vừa qua (VN trong gian đoạn này phải nhập cảng tôm
sú và cá basa của Trung Quốc và Mã Lai để thanh toán hợp đồng còn đang tồn động với các
nước khác).
Ngoài ra, do việc tận dụng nguồn nước cho tưới tiêu, việc khai mở đê điều không hợp lý
đã khiến cho ÐBSCL phải đối mặt với vấn đề ngập mặn do nạn hạn hán kéo dài trong khi hệ
sinh thái có nguy cơ bị hủy diệt do ô nhiễm. Năm 2005, nước mặn đã vào sâu trên 120 Km
trong đất liền làm tăng khả năng bị hoang hóa của đất trong vùng này.
Phát triển kinh tế không đi đôi với việc bảo vệ môi trường, kết quả tất nhiên là tình trạng môi
trường ngày càng xuống cấp và cường độ ô nhiễm ngày càng tăng thêm.
II. CƠ CHẾ VÀ NGUYÊN LÝ QUÁ TRÌNH TỰ LÀM SẠCH TRONG ĐIỀU
KIỆN ĐỘNG VÀ TĨNH
1. Khái niệm:
Nước thải được pha loãng với nguồn nước tiếp nhận đến một khoảng nào đó thì được
xáo trộn hoàn toàn với nước nguồn. Ở những điều kiện bình thường, trong nguồn nước sẽ
diễn ra một chu trình kín sự cân bằng giữa sự sống của các loài động thực vật và vi sinh vật.
Sự sống của chúng co quan hệ tương hổ lẫn nhau.
Khi nguồn nước bị ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt và công ngiệp, sẽ tạo thành một
lượng dư chất gây phá vỡ chu trình. Sự ô nhiễm quá mức sẽ làm cho nhiều chất hữu cơ trở
nên không ổn định, làm cho cơ chế cân bằng của vi sinh vật, sự cung cấp oxy... diễn ra không
bình thường. Tuy nhiên tiếp theo một khoảng cách nào đó về hạ nguồn, tùy thuộc lượng chất
gây ô nhiễm, lưu lượng nước nguồn, các điều kiện thủy động của dòng chảy...., những chu
trình bình thường sẽ được phục hồi trở lại. Sự phục hồi này được gọi là “tự làm sạch”
Tự làm sạch là tổ hợp các quá trình tự nhiên như các quá trình thủy động lực, hóa học,
vi sinh vật học, thủy sinh học, diễn ra trong nguồn nước mặt bị nhiễm bẩn nhằm khôi phục
lại trạng thái chất lượng nước ban đầu.
Vùng I: xáo trộn nước thải với nước nguồn nhờ quá trình khuếch tán tạo tia.
Vùng II: vùng pha loãng nước thải nhờ khuếch tán chất bẩn với nước nguồn.
Vùng III: vùng xáo trộn hoàn toàn nhờ khuếch tán.
Vùng IV: vùng thủy phân hoặc chuyển hóa chất bẩn. Phục hồi trạng thái ban đầu.
Vùng V: vùng chất lượng nước đươc phục hồi.
Quá trình tự làm sạch bao gồm 2 quá trình:
Xáo trộn, pha loãng: chủ yếu tại vùng I và II
Quá trình phân hủy, chuyển hóa: chủ yếu ở vùng III và IV
2. Dấu hiệu nguồn nước nhiễm bẩn:
Xuất hiện chất nổi trên bề mặt và cặn lắng ở đáy.
Thay đổi tính chất vật lý (màu sắc, mùi vị...).
Thay đổi thành phần hóa học (số lượng chất hữu cơ, phản ứng, chất khoáng và
chất độc...).
Lượng oxy hòa tan giảm xuống.
Thay đổi hình dạng và lượng vi trùng gây bệnh.
Nguồn nước bị nhiễm bẩn sẽ dẫn đến tình trạng mất cân bằng sinh thái. Do đó, nguồn
nước tự điều chỉnh để tái lập lại trang thái ban đầu gọi là quá trình tự làm sạch.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tự làm sạch của nguồn nước:
Nồng độ oxy hòa tan trong nước: nếu càng cao thì nước sông càng dễ tự làm sạch.
Loại và lượng các chất ô nhiễm trong nước: phải là chất ô nhiễm hữu cơ để phân
hủy sinh học và lượng chất ô nhiễm không quá nhiều vượt khả năng phân hủy của
vi khuẩn trong nước sông.
Loại và số lượng của vi khuẩn và vi sinh vật trong nước sông nếu phong phú thì sẽ
tăng nhanh tốc độ phân hủy sinh học các chất ô nhiễm và làm tăng khả năng tự
làm sạch của nước sông.
Nhân tố khí tượng như nhiệt độ, gió... nhiệt độ của nước càng cao càng thuận lợi
cho quá trình phân hủy sinh học, tốc độ gió càng lớn sẽ tăng sự xáo trộn trên bề
mặt nước, taọ điều kiện cho oxy không khí khuếch tán vào nước, từ đó tăng khả
năng tự làm sạch của nước.
Điều kiện dòng chảy như lưu lượng nước, tốc độ nước: lưu lượng nước sông lớn
thì khả năng pha loãng, tốc dộ nước lớn sẽ tăng sự khuếch tán oxy từ không khí
vào nước, từ đó khiến cho nước sông dễ làm sạch hơn
Điều kiện mặt cắt sông: sông rộng nhưng nông sẽ tạo điều kiện cho oxy thâm nhập
nhiều hơn từ không khí vào nước và làm tăng kc1hả năng tự làm sạch của nước.
4. Quá trình xáo trộn nước thải với nước nguồn
Khi xác định mức độ xáo trộn giữa nước thải với nước sông không lấy toàn bộ lưu
lượng nước sông để tính vì ở khía cạnh cống xả quá trình xáo trộn chưa thể đạt hoàn toàn chỉ
đạt mà chỉ đạt hoàn toàn ở một khoảng cách nào đó xa cống xả. Mặt khác, tỉ lệ giữa lưu
lượng nước thải và lưu lượng nươvs nguồn càng lớnthì khoảng cách từ cống xả đén điểm tính
toán (là nơi đã thực hiện quá trình xáo trộn hoàn toàn) sẽ càng lớn.
Sự tương quan giữa lưu lượng nguồn và lưu lượng nước thải là yếu tố quan trọng
trong quá trình tự làm sạch: gọi là hệ số pha trộn n:
Với:
C: hàm lượng bẩn của nước thải
C
ng
: hàm lượng bẩn của nguồn
C
gh
: hàm lượng bẩn sau khi hòa trộn (yêu cầu)
Q: lưu lượng nước nguồn
Q: lưu lượng nước thải xả vào nguồn
Sự hòa tan oxy (DO) cũng là yếu tố quan hệ mật thiết đến quá trình tự làm sạch
Thực tế không phải tất cả lưu lượng nước nguồn tham gia vào quá trình xáo trộn mà chỉ
một phần nào đó mà thôi. Phần nước nguồn tham gia vào quá trình được đăc trưng bởi hệ số
xáo trộn.
Khoảng cách từ cống xả đến vị trí xáo trộn hoàn toàn được tính theo công thức:
: Hệ số phụ thuộc đặc tính thủy lực và hình dạng dòng chảy củanước nguồn:
Trong đó:
l: Khoảng ách từ cửa xả đến mặt cắt tính toán (m)
: Hệ số có tính ảnh hưởng thủy lực
: Hệ số cong (=l/l
1
: (=l: Cửa xả gần bờ, 1.5: cửa xả xa bờ)
V
tb
: Vận tốc dòng chảy trung bình
H
tb
: Chiều sâu trung bình dòng chảy
m: Tỷ lệ giữa vận tốc dòng chảy nguồn và nước thải qua miệng xả
c: Nồng độ nhiễm bẩn của nước hồ chứa
Lưu ý: Từ công thức trên ta thấy hệ số tiến tới đơn vị khoảng cách l dài ra vô cùng. Một
khoảng như thế trong thực tế là không có. Chính vì vậy người ta chỉ xác định cho một
khoảng cách nào đó để nguồn nước có thể tham gia được 70-80% lưu lượng vào quá trình
xáo trộn đối với những nguồn nước nhỏ và 0.25-0.3 đối với những nguồn nước trung bình và
lớn.
5. Ảnh hưởng của dòng chảy tới khả năng tự làm sạch của nguồn nước:
Khi sự ô nhiễm diễn ra bởi quá nhiều chất hữu cơ thì sẽ thấy rõ và phân biệt được các
vùng ô nhiễm và vùng phục hồi. Mỗi vùng được đặt trưng bởi các điều kiện hóa lý, sinh mà
có thể quan sát kiểm tra đánh giá được.
Các vùng đó là:
Vùng phân hủy: được hình thành ngay sau nguồn nước thải và đượ biểu
hiện bởi độ đục và màu đen của nước. Ở đây sẽ diễn ra sự phân hủy kỵ khí,
sự tiêu thụ oxy tăng nhanh, xuất hiện CO
2
và NH
4
. Các dạng sinh vật bậc
cao đạc biệt là cá sẽ bị chết hoặc là chúng phải rời đi nơi khác. Nấm có thể
hình thành và xuất hiện thành khối màu nâu trắng hoặc màu xám như những
chiếc đũa nhỏ và chìm xuống, vi khuẩn xuất hiện ít hơn nấm. Trong cặn
lắng có một loài ấu trùng roi, loài này nuốt cặn và thải cặn ra ở dạng ổn
định và ngược lại các sinh vật khác sử dụng.
Vùng phân hủy mạnh: vùng này thấy rất rõ khi nước bị ô nhiễm nặng và đặc
trưng bởi sự vắng mật của oxy hòa tan, diễn ra sự phân hủy kỵ khí. Do kết
quả của sự phân hủy cặn, các bọt khí và bùn cặn có thể xuất hiện trên mặt
nước tạo thành váng màu đen. Nước sẽ có màu xám đen và có mùi hôi thối
của các hợp chất chứa lưu huỳnh. Các vi sinh vật chủ yếu là vi khuẩn kỵ
khí, nấm hầu như đã biết mất, các loài động vật bậc cao cũng rất ít, chỉ có
một ít loài ấu trùng, côn trùng...
Vùng phục hồi: ở vùng này nhiều chất hữu cơ đã lắng đọng xuống ở dạng
cặn. Cặn bị phân hủy kỵ khí dưới đáy hoặc trong dòng nước chuyển động.
Vì nhu cầu tiêu thụ oxy của nước nhỏ hơn tốc độ làm thoáng bề mặt nên
tình trạng được cải thiện, nước được trong hơn. Lượng CO
2
, NH
4
giảm và
oxy hòa tan,
,
tăng lên. Vi khuẩn có xu hướng giảm về số lượng
vì việc cung cấp thức ăn bị giảm, chúng chủ yếu là loài hiếu khí. Nấm xanh,
tảo xuất hiện đã sử dụng các hợp chất chứa Nito và CO
2
rồi giải phóng oxy
giúp cho việc làm thoáng và hòa tan oxy mạnh mẽ hơn. Tiếp theo, nhu cầu
tiêu thụ oxy giảm, các loài khêu tảo cũng ít hơn, xuất hiện các loài nguyên
sinh động vật, nhuyễn thể, các thực vật nước, quần thể các cũng ổn định dần
và tìm thức ăn trong vùng này.
Vùng nước trong: ở đây dòng nước đã trở lại trạng thái tự nhiên và có các
loại phù du thông thường của nước sạch. Do ảnh hưởng của độ phì dưỡng
do ô nhiễm trước đây cho nên các loại phù du sẽ xuất hiện với số lượng lớn.
Nước trở lại trạng thái cân bằng oxy - lượng oxy hòa tan lớn hơn oxy tiêu
thụ - trạng thái ban đầu của nước đã được phục hồi hoàn toàn.
Trong quá trình phục hồi, coliforms và các sinh vật gây bệnh cũng đã giảm về số
lượng vì môi trường không thuận lợi cho chúng và xuất hiện những sinh vật chủ đạo. Tuy
nhiên một số loài gây bẹnh còn tồn tại trong vùng nước trong, do đó nước thể vẫn còn bị ô
nhiễm bởi vi khuẩn gây bệnh và không thể dùng cho ăn uống, sinh hoạt nếu không được xử
lý.
Khả năng tự làm sạch của nước sẽ diễn ra không đạt kết quả khi trong nước thải có chứa
các chất độc hại đới với sự sống của các sinh vật, quá trình tự làm sạch của nước diễn ra khi
các chất độc hại trong nước bị tiêu tan hoặc pah loãng hay lý do nào khác. Vì vậy cần phải
giám sát chặt chẽ hàm lượng các chất độc hại trong nước thải .
III. MỘT SỐ MÔ HÌNH DỰ BÁO Ô NHIỄM
Hiện nay có nhiều mô hình dự báo ô nhiễm nguồn nước đang được sử dụng ở Việt Nam
như: IPC, QUAL, QUAL2EU, QUAL2K, BASIN, SWAT... Nhìn chung có thể phân chia mô
hình chất lượng nước sông thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Mô hình dùng để đánh giá nhanh
Dự báo chất lượng nước sông ở trạng thái ổn định (steady state)
Dữ liệu đầu vào tương đối đơn giản
Hỗ trợ nhanh trong việc ra quyết định
Các mô hình như IPC
Nhóm 2: Mô hình dự báo chất lượng nước không tích hợp trên nền GIS
Dự báo chất lượng nước sông theo thời gian (dynamic)
Dữ liệu đầu vào tương đối phức tạp
Có nhiều thông số động học, thông số thực nghiệm cần phải nghiên cứu theo thời gian
để hoàn thiện mô hình
Các mô hình như QUAL, QUAL2EU, QUAL2K
Nhóm 3: Mô hình dự báo chất lượng nước tích hợp trên nền GIS
Dự báo chất lượng nước sông theo thời gian (dynamic)
Tích hợp các lớp thông tin đầu vào cho mô hình như: địa hình mạng lưới sông suối
Hiển thị kết quả về không gian trên nền GIS
Dữ liệu đầu vào tương đối phức tạp
Có nhiều thông số động học, thông số thực nghiệm cần phải nghiên cứu theo thời gian
để hoàn thiện mô hình
Các mô hình như BASIN, SWAT
1. Nhóm mô hình 1: IPC
Version: 2.0 – 1998
Tổ chức phát triển mô hình
Ngân hàng Thế giới
Tổ chức Y tế Thế giới
Tổ chức Y tế Hoa Kỳ