Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Bài tập lớn tìm hiểu về chức năng và vai trò của tài chính công. liên hệ vai trò của tài chính công đang phát huy ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.27 KB, 21 trang )

Bài Tập lớn: Tìm hiểu về chức năng và vai trò của tài chính công. Liên
hệ vai trò của tài chính công đang phát huy ở Việt Nam.

MỤC LỤC
I.

VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH CÔNG.
1.

2.

Chức năng của tài chính công.

Trang 02
02

1.1.

Chức năng phân phối.

02

1.2.

Chức năng kiểm tra, giám sát.

04

Vai trò của tài chính công.

05



2.1. Tài chính công đảm bảo nguồn lực tài chính cho việc
duy trì sự tồn tại và hoạt động hiệu quả của bộ máy NN.

05

2.2.

06

Tài chính công là công cụ quan trọng trong quản lý
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội.

II. LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH CÔNG TẠI VN.
1.

Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy
nhà nước.

2. Điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội.

1

08
09
12


I.


VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH CÔNG.

1.

Chức năng của tài chính công.

Trong các lý luận về tài chính nói chung, tài chính có hai chức năng là chức
năng phân phối và chức năng giám đốc. Tài chính công với tư cách là một bộ
phận của hệ thống tài chính cũng có hai chức năng khách quan đó. Tuy nhiên,
do đặc thù của tài chính công là gắn liền với Nhà nước và phát huy vai trò của
Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế, cho nên hai chức năng của tài chính
công cũng phát huy trên khí cạnh cụ thể phù hợp với đặc thù riêng có của nó.
1.1.

Chức năng phân phối.

Tài chính công phản ánh các mối quan hệ kinh tế dưới hình thái tiền tệ gắn liền
với phân phối tổng nguồn lực tài chính quốc gia để hình thành và sử dụng các
quỹ tiền tệ của Nhà nước cho các mục tiêu kinh tế xã hội.
Chức năng phân phối của tài chính công là khả năng khách quan mà nhờ vào đó
Nhà nước có thể chiếm hữu và chi phối một phần của cải xã hội (trước hết là
sản phẩm mới được tạo ra) để tạo lập và sử dungjcacs quỹ tiền tệ, nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước đảm nhận.

Chủ thể phân phối các nguồn lực tài chính của tài chính công là Nhà
nước.

Đối tượng phân phối: là của cải xã hội, trong đó chủ yếu là sản phẩm
mới được tạo ra, được tập trung vào các quỹ tiền tệ của Nhà nước dưới các hình
thức thuế, thu sự nghiệp, phí, lệ phí, vay nợ, viện trợ, thu từ nhượng bán tài sản

của Nhà nước, thu dưới hình thức đóng góp tự nguyện và bắt buộc từ các tổ
chức và cá nhân trong và ngoài nước.


Nội dung về chức năng của tài chính công:

Quá trình phân phối của tài chính công bao gồm: Phân phối và phân phối lại.
Việc phân phối thu nhập và tài sản (dưới hình thức tiền tệ) của tài chính
công là nhằm giải quyết được yêu cầu công bằng và bình đẳng.
Công bằng trong phân phối được hiểu theo cả chiều ngang và chiều dọc.

2


+ Theo chiều ngang: Công bằng được thể hiện ở chỗ, các chủ thể trong
xã hội thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh như nhau, mua cá hàng hóa
và dịch vụ công giống nhau, có thu nhập như nhau thì thu nhập của các chủ thể
đó (bao gồm DN, tổ chức, hộ gia đình, công dân) thông qua quá trình phân phối
của tài chính công sẽ chịu sự điều tiết giống nhau.
+ Theo chiều dọc: Công bằng được thể hiện ở chỗ khi các hoạt động sản
xuất kinh doanh của các chủ thể trong nèn kinh tế là khác nhau; các yếu tố đầu
vào và quy mô sản xuất kinh doanh là khác nhau; mức độ tiêu dùng là khác
nhau… thì đãn đến thu nhập của các chủ thể cũng phải khác nhau.
Thông qua chức năng phân phối của tài chính công, Nhà nước thực hiện
phân phối lại thu nhập của các pháp nhân và thể nhân để đảm bảo công bằng xã
hội.
Các chủ thể có thu nhập cao phải bị điều tiết thu nhập cao hơn so với các chủ
thể có thu nhập thấp (thông qua chính sách thuế như: thuế GTGT, thuế TNCN,
thuế TNDN…). Thông qua phân phối của tài chính nói chung và của tài chính
công nói riêng phải duy trì mức độ chênh lệch hợp lý về thu nhập giữa các

doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân trong xã hội, mặt khác phải
duy trì và thực hiện sự bình đẳng. Điều này thể hiện ở chỗ, các chủ thể khi
tham gia vào các mối quan hệ phân phối luôn luôn giữ vị trí ngang nhau trước
pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài chính đối với Nhà nước, không
phân biệt thành phần kinh tế, địa vị xã hội.
Quá trình phân phối và phân phối lại của tài chính công được thực hiện thông
qua 2 kênh cơ bản:
+ Kênh thứ nhất phản ánh các khoản thu của Nhà nước mà chủ yếu là
các hình thức thu thuế: thuế trực thu và thuế gián thu. Ngoài ra còn áp
dungjcacs loại phí, lệ phí, thu khác và vay nợ,.. Thông qua các công cụ phân
phối này của tài chính công, một bộ phận của các chủ thể ở rong và ngoài nước
sẽ được điều tiết, được huy động và tập trung vào các quỹ tài chính của Nhà
nước, trong đó lớn nhất và quan trọng nhất là quỹ NSNN.
+ Kênh thứ 2 phản ánh các khoản chi tiêu công. Các khoản này được chi
ra từ các quỹ tài chính của Nhà nước, trong đó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
chi tiêu công là chi tiêu cho các mục đích xác định trong các lĩnh vực: văn hóa,
xã hội, hành chính, quốc phòng, an sinh xã hội…(chủ yếu là sử dụng quỹ
NSNN). Thông qua các khoản chi tiêu công, Nhà nước là chủ thể phân phối lại
thu nhập ông nhằm duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước, điều
3


hòa thu nhập của các chủ thể trong xã hội, dảm bảo thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước.

Kết quả của các quá trình phân phối thông qua tài chính công là:
hình thành các quỹ tiền tệ, điều chỉnh thu nhập của các tổ chức và cá nhân
trong xã hội.
1.2.


Chức năng kiểm tra, giám sát.

Chức năng kiểm tra, giám sát của tài chính công là khả năng khách quan mà
nhờ vào đó Nhà nước có thể xem xét tính đúng đắn, hợp lý của quá trình Nhà
nước tham gia phân phối của cải xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ, nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Trong thực tế, các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân có mối quan hệ hữu
cơ chặt chẽ với nhau. Do đó, tài chính công không chỉ kiểm tra á quỹ tiền tệ của
Nhà nước mà còn có thể mở rộng phạm vi kiểm tra quá trình phân phối và sử
dụng nguồn lực tài chính của các chủ thể khác trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu của
chính sách tài chính công và luật pháp tài chính.
Tài chính công tiến hành kiểm tra thông qua đồng tiền, thông qua các quan hệ
giá trị.

Chủ thể kiểm tra, giám sát: Các cơ quan lập pháp, các cơ quan hành
pháp, các cơ quan tài chính, kiểm toán Nhà nước, thanh tra Nhà nước.

Đối tượng kiểm tra, giám sát: là quá trình phân phối của cải xã hội
(trong đó chủ yếu là sản phẩm mới tạo ra) để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
của Nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.


Nội dung kiểm tra của tài chính công tập trung vào các vấn đề sau:
-

Kế hoạch hóa tài chính, tổ chức thực hiện các hoạt động tài chính công
trên các mặt: NSNN, tín dụng Nhà nước, bảo hiểm xã hội, hỗ trợ đàu tư
thông qua các quỹ tiền tệ của Nhà nước…
Chấp hành luật pháp, chính sách trong lĩnh vực tài chính công.
Thu thập và phân tích các dữ liệu, thông tin, tài chính để rút ra những

nhận xét, đánh giá, kiến nghị (những kiến nghị này có thể do chủ thể bị
kiểm tra đưa ra nhằm điều chỉnh quá trình phân phối, phân bổ và nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính công, hoàn thiện việc hình

4


thành và sử dụng các quỹ tiên tệ của Nhà nước, phát huy vai trò tích cực
của tài chính công trong quản lý vĩ mô nền kinh tế).
-

Kiểm tra tính cân đối, hợp lý, tính tiết kiệm và hiệu quả,… trong việc
phân phối của cải xã hội.


Kết quả kiểm tra, giám sát của tài chính công có thể xem xét trên các
mặt sau:
-

Đảm bảo cho quá trình phân phối của cải xã hội để tạo lập các quỹ tiền
tệ của Nhà nước được đúng đắn, hợp lý.

-

Góp phần điều chỉnh hoạt động tài chính ủa các chủ thể kinh tế - xã hội
theo định hướng của Nhà nước.

2.

Vai trò của tài chính công.


2.1.

Tài chính công đảm bảo nguồn lực tài chính cho việc duy trì sự tồn
tại và hoạt động hiệu quả của bộ máy Nhà nước.

Khi nhà nước ra đời, để tồn tại và hoạt động đòi hỏi phải có một nguồn thu
nhập để chi tiêu. Trong thời đại ngầy nay, hoạt động của Nhà nước sử dụng để
thực hiện huy động, tập trung các nguồn lực tài chính quốc gia nhằm duy trì
hoạt động của Nhà nước trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, x hội, an ninh
quốc phòng.
Nhà nước huy động, tập trung các nguồn lực tài chính công vào NSNN là chủ
yếu, ngoài ra còn tập trung vào các quỹ tài chính khác của Nhà nước. Sau đó
tiến hành phân phối và sử dụng nhằm duy trì hoạt động có hiệu quả của bộ máy
Nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội.
Có thể nói rằng, đây là vai trò lịch sử của tài chính công được xuất phát từ nội
tại của phạm trù tài chính. Trong thực tế, để phát huy vai trò nay của tài chính
công, Nhà nước cần phải:
-

Xác định tỷ lệ động viên nguồn lực tài chính của Nhà nước trên GDP.

-

Xác định mức độ động viên các nguồn lực tài chính hợp lý từ các thể
nhân và pháp nhân ở trong và ngoài nước.

-

Hoàn thiện các hình thức huy động nguồn lực tài chính công.

5


-

Xác định nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và phân bổ hợp lý các nguồn tài
chính công cho các nhu cầu chi tiêu nhằm thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước.

-

Thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình phân phối, phân bổ và sử dụng
các nguồn lực tài chính công để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế xã hội
và phát triển về mọi mặt của Nhà nước.

-

Thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình phân phối, phân bổ và sử dụng
các nguồn lực tài chính công để đáp ứng yêu cầu quản lý kinnh tế xã hội
và phát triển về mọi mặt của Nhà nước.

2.2.

Tài chính công là công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường, để quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc
dân nhằm mục tiêu ổn định, phát triển bền vững, hiệu quả và công bằng, quản
lý và điều tiết khu vực công hiệu quả, Nhà nước thường xuyên sử dụng công cụ
tài chính, trong đó có tài chính công. Vai trò này của tài chính công được thể

hiện trên các mặt sau:
• Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế ổn định và bền vững.
-

Chính sách thu của tài chính công góp phần rất quan trọng trong việc
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này được
thực hiện chủ yếu thông qua việc thực hiện chính sách thuế.

-

Thông qua việc thực hiện chính sách chi tiêu công, Nhà nước sẽ phân bổ
nguồn lực tài chính vào đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội,
đầu tư vào ngành kinh tế mũi nhọn, đầu tư vào các công trình trọng điểm
và giải quyết cá mối quan hệ cân đối lơn của nền kinh tế quốc dân. Các
khoản chi tiêu công như: chi đầu tư phát triển,cho vay vốn tín dụng nhà
nước, tài trợ vốn, trợ giá… đã tạo ra động lực phát triển kinh tế xã hội
cho khu vực công và khu vực tư; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực tài chính quốc gia, góp phần hoàn thiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; phát triển các vùng, miền, khu vực và
giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp cho xã hội.

6


Tuy nhiên, bên cạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành nghề theo xu
hướng chung của thế giới, chúng ta còn tiến hành chuyển dịch kinh tế theo
vùng, miền.
Và ở đây chúng ta phải lưu ý mục tiêu tăng trưởng thì có tăng trưởng tạm thời
và tăng trưởng bền vững. Tăng trưởng tạm thời chỉ là tăng trưởng trong một

thời kỳ nhất định nhưng còn tăng trưởng bền vững là tăng trưởng lâu dài, tăng
trưởng trong ổn định. Mục tiêu của chúng ta ở đây là tăng trưởng một cách bền
vững và ổn định.
• Điều tiết thị trường và bình ổn giá cả.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước sử dụng công cụ tài chính công để
nhằm bình ổn thị trường và giá cả. Các quỹ mà Nhà nước sử dụng để thực hiện
vai trò này là quỹ dự trữ của Nhà nước (bằng hiện vật và tài chính), quỹ bình ổn
giá cả. Đồng thơi Nhà nước sử dụng thuế (thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế
GTGT,…) các khoản chi tiêu công và các biện pháp khác để điều tiết linh hoạt
và có hiệu quả đối với hoạt động của thị trường.
• Duy trì sự cân đối của cán cân ngoại thương, cán cân thanh toán
quốc tế và bình ổn tỷ giá hối đoái.
Trong điều kiện đa phương hóa và đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc
tế, đòi hỏi ngày càng mở rộng thương mại và dịch vụ quốc tế, các hoạt động
đàu tư quốc tế. Tuy nhiên, việc hàng hóa, dịch vụ và các luồng vốn di chuyển
giữa các quốc gia lại ảnh huongr đến cán cân thanh toán quốc tế và tỷ giá hối
đoái. Mặt khác, sự cân bằng trong xuất nhập khẩu hàng hóa, sự cân bằng của
cán cân thanh toán quốc tế luôn luôn phản chiếu sự hoạt động có hiệu quả và
phát triển của nền kinh tế quốc dân trong điều kiện mở rộng giao lưu và hội
nhập kinh tế quốc tế. Sự mất cân đối của cán cân ngoại thương, cán cân thanh
toán quốc tế sẽ làm cho ty giá hối đoái biến động theo chiều hướng tăng hoặc
giảm, và từ đó ảnh hưởng tới giá cả, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, việc làm và
tác động ngược trở lại đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Vì vậy, Nhà nước
phải duy trì sự cân đối của cán cân ngoại thương, cán cân thanh toán quốc tế và
bình ổn tỷ giá hối đoái thông qua công cụ tài chính công.
Cụ thể, Nhà nước sẽ hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ dự trữ ngoại tệ quốc
gia, quỹ bình ổn hối đoái, thuế, chi tiêu công, đầu tư trực tiếp và gián tiếp của
nhà nước ra nước ngoài và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước
ngoài để thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô này.


7


• Phát triển văn hóa xã hội, điều tiết thu nhập của cá chủ thể trong xã
hội để thực hiện mục tiêu công bằng.
-

Một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển kinh teea xã hội
của một quốc gia là mức sống của dân cư, mặt bằng về văn hóa, phúc lợi
xã hội và bảo đảm xã hội. Hằng năm, căn cứ theo kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội, Nhà nước phân bổ nguồn lực tài chính công để thực hiện
các biện pháp trong lĩnh vực sự nghiệp giáo dục đào tạo (phổ cập giáo
dục tiểu học), sự nghiệp y tế (các chương trình y tế công cộng), sự
nghiệp văn hóa (dịch vụ truyền thanh, truyền hình) và sự nghiệp xã hội.
Hàng loạt các chương trình mục tiêu, chương trình trọng điểm, các dự án
về phát triển sự nghiệp văn hóa, xã hội được thực hiện thông qua các
khoản chi tiêu công như sau: chi giáo dục đào tạo, chi y tế, chi văn hóa,
nghệ thuật, thể dục thể thao, chi đảm bảo xã hội, chi BHXH, chi cứu tế
xã hội, chi cho vay giải quyết việc làm…

-

Các quá trình phân phối và điều tiết thu nhập thông qua hoạt động của
tài chính công được thực hiện trong thực tế bằng cách tiến hành điều tiết
dể giảm bớt các thu nhập cao và nâng đỡ thu nhập thấp. Công cụ cơ bản
để Nhà nước điều tiết thu nhập của dân cư là thuế (thuế GTGT, thuế
TNCN,…) và chi tiêu công. Cụ thể, thuế TNCN với thuế suất lũy tiến
điều tiết mạnh thu nhập của cá nhân có thu nhập cao, và điều tiết hợp lý
đối với các cá nhân có thu nhập trung bình. Thuế GTGT điều tiết thu
nhập thực tế có khả năng thanh toán ủa dân cư bằng việc đánh thuế mức

cao đối với các loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp, đánh thuế ở mức thấp đối
với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ đời sống dân cư. Ngoài ra, nhà
nước cũng thực hiện các khoản chi tiêu công liên quan đến các khoản chi
phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, chi các chương trình mục tiêu để hỗ trợ
cho những người có thu nhập thấp nhằm góp phần nâng cao mức sống
cho họ.

Tóm lại, trong cơ chế thị trường, Nhà nước cần thiết phải sử dụng các công
cụ tài chính, đặc biệt là công cụ tài chính công để can thiệp và điều chỉnh
đúng lúc, kịp thời hoạt động của nền kinh tế quốc dân, hoạt động của thi
trường nhằm tạo sự bình ổn và phát triển bền vững của kinh tế vĩ mô
II.

LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH CÔNG TẠI VIỆT NAM.

Tài chính công hiện đại ngày nay là một phạm trù kinh tế mang tính lịch
sử, vì cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, tài chính
công đã tham gia vào quá trình quản lý nền kinh tế, tức là nhà nước đã khai
8


thác, vận dụng công cụ để điều hành nền kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền kinh tế
xã hội phát triển.
Chúng ta có thể thấy bản chất của tài chính trong nền kinh tế thị trường là
tổng thể hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa các thực thể tài chính phát
sinh trong quá trình hình thành phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính.
Vai trò của tài chính công luôn gắn liền với vai trò của nhà nước trong
từng thời kì nhất định. Mỗi nhà nước đều có sứ mạng chính trị riêng, có những
quan điểm khác nhau trong việc quản lý điều hành các hoạt động kinh tế xã hội
từ đó tài chính công là một trong các công cụ được nhà nước sử dụng nhằm

thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước phù hợp với từng thời kì. Có
thể khẳng định 1 điều rằng vai trò của tài chính công là không thể phủ nhận.
Xét ở góc độ vĩ mô tài chính có những vai trò chủ đạo sau :
1.

Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Bất cứ nhà nước nào cũng sử dụng tài chính công trong mọi mô hình tài
chính công để phục vụ cho công việc quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội.
Tài chính công được sử dụng để huy động một phần nguồn tài chính của quốc
gia thông qua đống góp bắt buộc hoặc tự nguyện của cách chủ thể trong nền
kinh tế tạo lập quỹ tài chính công. Tài chính công phân phối sử dụng nguồn tài
chính huy động từ các quỹ công để phục vụ đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của
nhà nước. Phân phối sản phẩm quốc dân theo hướng tích lũy để ổn định và phát
triển kinh tế đồng thời cung cấp các nguồn vốn để thỏa mãn các yêu cầu về
hàng hóa và dịch vụ công cộng mà tài chính của khu vực tư nhân không thể
thực hiện được do một số đặc điểm đặc biệt của hàng hóa công. Ngoài ra phân
phối của tài chính công còn đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và
đảm bảo an ninh quốc phòng.
Các con số về mức thu nhập không phản ánh được một thực tế là những
người có thu nhập cao phải trả thuế cao hơn những người có thu nhập thấp,
hoặc rất nhiều các gia đình có thu nhập thấp được hưởng lợi từ các chương
trình hỗ trợ của chính phủ như vùng 135 …. Việc điều chỉnh sự chênh lệch này
sẽ tăng phần được hưởng trong tổng thu nhập quốc gia cho các gia đình nghèo
nhất và giảm phần hưởng trong tổng thu nhập của các gia đình có thu nhập cao
nhất xuống. Nhưng đây vẫn là một mức chênh lệch rất lớn về thu nhập và nhiều
người vẫn thắc mắc vì sao lại có điều này. Còn một số lý do để giải thích sự
chênh lệch về thu nhập này của các gia đình ngoài sự khác biệt về lương và tiền
công cơ bản như đã nói ở trên và giải thích vì sao có sự thay đổi lên xuống theo
thời gian trong thu nhập của các gia đình khác nhau. Ví dụ, các công nhân vừa

9


mới gia nhập thị trường lao động (điển hình là những công nhân trẻ ít kinh
nghiệm làm việc) và các công nhân già hơn đã nghỉ hưu hoặc chỉ nhận các công
việc bán thời gian thường là đại diện thường xuyên của nhóm các gia đình có
thu nhập thấp nhất, và điều này không gây nhiều ngạc nhiên. Hầu hết các công
nhân - và đặc biệt là những người có học vấn và được đào tạo cao hơn - có thu
nhập tăng hàng năm theo nghề nghiệp của họ. Những công nhân khác đôi khi bị
giảm lương hoặc tiền công tạm thời khi họ tạm nghỉ việc ngắn hạn, bị ốm đau
hoặc là thương tích hay các lý do khác.
Vì tất cả những lý do này, và mặc dù có sự ổn định cơ bản trong việc phân
phối thu nhập nói chung, vẫn tồn tại một cơ hội lớn trong việc huy động vốn
trong nền kinh tế thị trường. Điều này có nghĩa là chúng ta luôn nhìn thấy các
gia đình tăng hoặc giảm các khoản thu nhập trên của họ qua từng năm. Kinh tế
càng tăng trưởng, chênh lệch thu nhập giữa các dân cư, các vùng miền ngày
càng gia tăng. Vậy vấn đề đặt ra là Chính Phủ sử dụng tài chính công thông qua
những hình thức nào để thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách giữa
người giàu và người nghèo?
Liệu thuế chỉ có vai trò là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
không?
Ngoài vai trò là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, thuế còn có
một vai trò quan trọng không kém đó là: điều chỉnh thu nhập của dân cư. Vai
trò này được thể hiện ở những mặt cụ thể sau:
Thuế trực thu mà cụ thể là thuế thu nhập cá nhân với thuế suất
lũy tiến từng phần có vai trò điều tiết mạnh của những người có thu nhập
cao và điều tiết ở mức hợp lý đối với các cá nhân có thu nhập trung bình.
Việc thu thuế này vừa tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước lại vừa
thực hiện được công bằng xã hội và giảm bớt được một phần nào đó(không
lớn lắm) khoảng cách giàu nghèo.

Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng góp phần điều chỉnh thu
nhập của các chủ thể đầu tư thông qua thuế suất tỷ lệ cố định. Thuế thu
nhập doanh nghiệp được đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp, vì vậy
doanh nghiệp nào thu được lợi nhuận càng lớn thì số thuế phải nộp càng
nhiều.
Các loại thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị
gia tăng, thuế xuất nhập khẩu cũng có vai trò lớn trong việc điều chỉnh thu
nhập thực tế có khả năng thanh toán của dân cư bằng việc đanh giá cao đối
với hàng hóa dịch vụ cao cấp,đánh giá thấp đối với hàng hóa, dịch vụ thiết
10


yếu đảm bảo đời sống dân cư. Một ví dụ điển hình đó là việc đánh thuế
cao đối với mật hàng ô tô- một thứ hàng hóa mà chỉ những người có thu
nhập cao mới mua được, mặt hàng naỳ phải chịu thuế GTGT, thuế xuất
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt với những tỷ lệ rất cao. Trong khi đó
lương thực, thực phẩm- những mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống lại bị
đánh thuế rất ít hoặc không đánh thuế.
Quốc phòng là một ví dụ về vai trò không thể loại bỏ được của chính phủ
- tài chính công. Tại sao? Bởi vì việc phòng thủ cho một quốc gia là một dạng
hàng hóa hoàn toàn khác biệt so với cam, máy vi tính hay nhà ở: con người
không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hóa mà họ sử dụng mà phải mua
một tổng thể cho toàn bộ quốc gia. Cung cấp dịch vụ quốc phòng cho một cá
nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì trên thực
tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này cùng nhau. Trên
thực tế thì dịch vụ quốc phòng được cung cấp cho tất cả dân chúng trong một
quốc gia kể cả những người không muốn dịch vụ này, bởi vì không có một
cách làm hiệu quả nào khác. Chỉ có các quốc gia chứ không phải là các làng xã
hay các cá nhân có thể có đủ nguồn lực để sản xuất máy bay chiến đấu phản
lực. Loại hình hàng hóa này gọi là hàng hóa công cộng, bởi vì không một

doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân của
một quốc gia mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh. Nó chỉ đơn giản là
không thể bán dịch vụ quốc phòng cho những người cần và không bảo vệ
những người từ chối thanh toán dịch vụ đó. Và nếu những người này vẫn được
bảo vệ mà không phải trả tiền thì tại sao họ phải chọn cách thanh toán? Điều
này được coi là vấn đề "kẻ ăn không", và đó là lý do chính giải thích vì sao
chính phủ phải điều hành quốc phòng và dùng thuế để chi cho quốc phòng.
Không có nhiều hàng hóa công cộng thực sự - những hàng hóa nhiều người có
thể cùng sử dụng và là đối tượng của vấn đề kẻ ăn không - do đó hầu hết các
hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường đều có thể được các công ty
tư nhân sản xuất và bán trong các thị trường tư nhân. Các ví dụ khác về hàng
hóa công cộng có thể kể đến là chương trình kiểm soát lũ lụt và sâu bọ, và
thậm chí cả băng tần sóng phát thanh và truyền hình được phát sóng rộng rãi
trong không trung. Mỗi hàng hóa này đều có thể được nhiều người tiêu dùng
sử dụng cùng lúc, và cũng là đối tượng để những kẻ ăn không hưởng thụ, ít
nhất ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, với sóng phát thanh và truyền hình, các
chương trình có thể được các cá nhân sản xuất và thu lợi bằng cách bán thời
gian phát sóng cho quảng cáo. Hoặc trong một vài trường hợp khác, các tín
hiệu phát sóng hiện đã được đổi tần số điện tử để các công ty tư nhân có thể
kiếm tiền bằng cách cho thuê các thiết bị giải mã cho những người muốn xem
các chương trình này.

11


Vai trò của tài chính công ở nước ta hiện nay còn được biểu hiện rất rõ
qua việc thực hiện có kết quả việc bảo đảm an sinh xã hội, quan tâm chăm lo
cho người nghèo, các đối tượng chính sách, những vùng khó khăn; các lĩnh
vực văn hoá, xã hội có bước phát triển mới. Trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay, khả năng kiếm sống ở một số người là rất hạn chế, trong khi

đó, số khác lại có nguồn thu nhập rất lớn. Nguồn thu nhập đó có thể do thừa
hưởng gia tài, có thể do tài năng hoặc sự thành đạt trong kinh doanh hay trong
các quan hệ chính trị, xã hội... Do vậy, vai trò của Nhà nước là không thể thiếu
được trong việc phân phối lại thu nhập để trong chừng mực cho phép, có thể
thu hẹp lại khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, các chính phủ
đều luôn thực hiện điều đó thông qua chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập
nhằm tạo ra sự công bằng hơn trong phân phối. Đánh thuế cao đối với những
người có thu nhập cao rồi hỗ trợ cho những người có thu nhập thấp thông qua
các chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo,…
Tài chính công còn được sử dụng để kiểm tra giám sát các hoạt động kinh
tế xã hội từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành của nhà nước. Từ các
hoạt động này tài chính công đã tạo ra nguồn tài chính một cách kịp thời để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của nhà nước giúp cho bộ máy nhà
nước được vận hành hiệu quả.
2. Điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội.

Tài Chính Công chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nước ta , nó là một
công cụ quản lý vĩ mô gắn liền với hoạt động nhà nước về các tài chính của nhà
nước nhưng được thực thi theo khuôn khổ của pháp luật nhằm ổn định kinh tế và
sự hài hòa xã hội, nó luôn tác động đến các khâu tài chính khác trong hệ thống
tài chính quốc dân, nó ảnh hưởng đến sự phát triển của các khu vực kinh tế và thị
trường tài chính. Và nó càng có vai trò cực kỳ quan trọng hơn khi nước ta càng
hội nhập sâu vào Kinh Tế Thế Giới. Tài chính công huy động nguồn tài chính
bảo đảm nhu cầu chi tiêu của nhà nước: khi nói đến tài chính công là nói đến
các quỹ NSNN mà để có được quỹ này thì đòi hỏi tài chính công phải phát
huy khả năng bằng cách sử dụng các công cụ tài chính nhằm thu hút các nguồn
thu ngân sách nhà nước như: thuế, tín dụng nhà nước, nguồn thu từ các hoạt
động nhà nước. Nhưng việc thực hiện phải được thông qua với tỷ lệ phù hợp và

12



có hiệu quả, cụ thể như: Nước ta có được khoảng 28% đến 32 % GDP từ thuế.
Tuy nhiên chính sách thuế luôn được điều chỉnh phù hợp, sau gần 8 năm thực
hiện cải cách, chính sách thuế đã được đổi mới theo hướng thích ứng dần với
cơ chế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thuế đã bảo đảm nguồn tài
chính chủ yếu để thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng. Trong hệ thống chính sách thuế đã từng bước giảm
dần sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, ví dụ năm 2009 giảm
thuế thu nhập DN từ 28% xuống 25%, tạm hoãn thuế TNDN… nâng cao năng
lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu; thủ tục hành chính trong thu nộp thuế
được đơn giản hóa, công tác quản lý thuế được đổi mới và dần được hiện đại
hóa. Chính sách thuế tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo hướng
áp dụng thống nhất đối với các loại hình doanh nghiệp và bước đầu phù hợp
với thông lệ quốc tế, góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh. Bên cạnh nguồn thu chủ yếu từ thuế nước ta có các khoản thu nhập, lợi
tức cổ phần nhà nước thu qua việc đầu tư, các khoảng thu từ phí và lệ phí của
công dân như phí cầu đường, lệ phí trước bạ, học phí…Các khoản thu tín dụng
nhà nước: hoạt động cho vay nhưng với mục đích có lợi cho người dân. tất cả
các hoạt đông này luôn đảm bảo tỷ lệ phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao. Tóm lại
thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước ở Vn hiện nay. Ngoài vai trò
là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước,Vai trò của thuế trong việc điều
tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay còn được thể hiện trong việc :
điều chỉnh thu nhập của dân cư. Vai trò này được thể hiện ở những mặt cụ thể
sau:
• Về kinh tế:
Tài chính công có vai trò thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định và bền
vững. Với chức năng phân bổ nguồn lực tài chính thông qua quá trình tạo lập
và sử dụng quỹ công, tài chính công tác động đến việc phân bổ và góp phần

13


nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính trong toàn bộ nền kinh tế. Công
cụ thuế với các mức thuế suất và ưu đãi khác nhau đối với từng loại sản phẩm
ngành nghề vùng lãnh thổ … tài chính công có vai trò định hướng đầu tư điều
chỉnh cơ cấu nền kinh tế kích thích hoặc hạn chế phát triển sản xuất kinh doanh
theo từng loại sản phẩm. Hay như với việc phân bổ nguồn tài chính cho đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư vào các ngành nghề then chốt các công trình mũi
nhọn hỗ trợ tài chính cho các thành phần kinh tế trong các trường hợp cần thiết
như trợ giá trợ cấp … tài chính công góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển sản xuất kinh doanh hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản xuất cơ cấu kinh
tế nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Cùng với việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng tài chính công còn có vai trò
quan trọng trong việc bình ổn kinh tế vĩ mô như : đảm bảo tốc độ tăng trưởng
kinh tế hợp lý, duy trì việc sử dụng lao động ở tỷ lệ cao, hạn chế sự tăng giá
đột ngột đồng loạt và kéo dài … Vai trò này được thực hiện thông qua các biện
pháp như tạo lập và sử dụng quỹ dự trữ quốc gia, quỹ hỗ trợ việc làm điều
chỉnh thuế điều chỉnh chi tiêu chính phủ, phát hành trái phiếu …
Chúng ta có thể thấy vai trò này thông qua hoạt động dữ trữ quốc gia.
Hoạt động dự trữ quốc gia hoàn toàn không vì mục tiêu lợi nhuận. Nó tác động
đến mặt cung hoặc cầu của thị trường. Khi vào vụ mùa. Người trồng lúa được
mùa. Nhưng nó lại làm cho giá bán xuống thấp vì cung tăng mạnh. Chính phủ
tung tiền ra mua với mức giá hợp lý để đảm bảo dự trữ và giá không rớt xuống
nữa. Ngày 20-6-2008, Thủ tướng Chính phủ quyết định giao Bộ Tài chính trích
440 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương năm 2008 để mua 70.000
tấn lương thực tăng dự trữ quốc gia.Ngoài ra, theo website Chính phủ, 11 tỷ
đồng từ nguồn chi sự nghiệp kinh tế năm 2008 sẽ được chi cho phí nhập và bảo
quản số lương thực này. Và cơn bão số 2 năm 2007 đổ bộ. Chính phủ đã hỗ trợ
85 tỷ và 3000 tấn gạo để các địa phương khắc phục hậu quả lũ lụt. Nhờ có động

thái của chính sách tài chính công mà người tiêu dùng hay người sản xuất có
thể yên tâm về lợi ích của mình được đảm bảo.
Khi gia nhập WTO chúng ta nhà nước đã giúp đỡ cho các doanh nghiệp
bằng các bảo hộ mậu dịch thương mại, hàng rào thuế quan… đề cho những
doanh nghiệp nhỏ lẻ của chúng ta có thể có điều kiện tạo lập vững mạnh hơn.
Như nghành ô tô. Khi ngành ô tô trong nước của chúng ta mới chỉ dừng lại ở
lắp ráp. Nhà nước đã tìm các để cho nền công nghiệp ô tô của chúng ta có thể
đương đầu với ô tô ngoại nhập. Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu… đã
làm cho nền công nghiệp ô tô có thể vươn vai để phát triển. Nhưng nền công
nghiệp ô tô trong nước vẫn lẹt đẹt, có trách thì trách chính họ khi đã quá dựa
dẫm vào cơ hội mà nhà nước dành cho. Không thể phát huy được ưu thế của

14


mình, làm cho nền công nghiệp ô tô chưa thể phát triển với những gì mà chúng
ta mong muốn chờ đợi. Chuyển qua 1 ví dụ về trợ giá giá xăng dầu. Nhà nước
trợ giá cho xăng dầu và sau đó là bù lỗ. Nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó.
Ngân sách nhà nước không phải là 1 cái kho vàng không đáy, sức chịu đựng thì
cũng có hạn. Nhà nước không thể bù lỗ được mãi. Phải đưa cho họ cần câu chứ
không phải là con cá. Nhà nước đã để cho họ tự định giá xăng dầu trong hạn
mức cho phép theo giá của thế giới, để tránh những cơn sốc giá gây nên những
biến động xấu cho nền kinh tế.
Hay như trong trường hợp để tạo việc làm cho người lao động chính phủ
đã sử dụng quỹ hỗ trợ việc làm, hộ trợ lãi suất cho vay, hỗ trợ đào tạo nghề…
Liên bộ Tài chính, Lao động-Thương binh và Xã hội vừa có thông tư liên tịch
hướng dẫn thực hiện đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao
động giai đoạn 2009-2020”.
Theo đó, từ ngày 24-10, người lao động sinh sống tại huyện nghèo (có hộ
khẩu thường trú hoặc tạm trú đủ 12 tháng trở lên) được hỗ trợ kinh phí để đi

xuất khẩu lao động. Cụ thể, người lao động đã tốt nghiệp từ bậc tiểu học trở
lên, cần bổ túc thêm về văn hóa được hỗ trợ toàn bộ học phí, tài liệu học tập,
chi phí sinh hoạt trong thời gian học. Về hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ sẽ thực
hiện theo hai mức: người dân tộc thiểu số được hỗ trợ toàn bộ kinh phí; các đối
tượng khác được hỗ trợ 50%.
Thông tư cũng quy định người lao động thuộc các hộ nghèo, người dân tộc
thiểu số đi xuất khẩu lao động được vay vốn với lãi suất bằng 50% lãi suất cho
vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách xã hội…
Với những chính sách gắn liền với tài chính công nhà nước đã phát huy
vai trò quan trọng trong việc ổn định kinh tế hạn chế đà suy giảm kinh tế trước
các tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu trước đó và vừa qua. Dù chịu
tác động bất lợi của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng Việt Nam vẫn đạt được
tăng trưởng ở mức 4,5% năm 2009 và hồi phục 6,5% trong năm 2010.
• Về mặt xã hội:
Tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã
hội và giải quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế càng tăng trưởng chênh lệch thu
nhập giữa các vùng miền, vùng dân cư càng gia tăng. Để thực hiện công bằng
xã hội, giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo chính phủ sử
dụng những chính sách tài chính công thông qua công cụ thuế và chi tài chính
công. Thuế trực thu mà cụ thể là thuế thu nhập cá nhân lũy tiến từng phần có
15


vai trò điều tiết mạnh thu nhập của những người có thu nhập cao và điều tiết ở
mức hợp lý đối với các cá nhân có thu nhập trung bình hoặc thấp. Bên cạnh đó
thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng thuế xuất nhập
khẩu có vai trò điều tiết thu nhập thực tế có khả năng thanh toán của dân cư
bằng việc đánh thuế cao với hàng hóa dịch vụ cao cấp, đánh thuế thấp với các
mặt hàng dịch vụ thiết yếu đảm bảo đời sống dân cư.
Với các chính sách trợ cấp trợ giá chi các chương trình mục tiêu sẽ làm

giảm bớt khó khăn của người nghèo những người thuộc diện chính sách đối
tượng khó khăn… thường phát huy tác dụng cao vì đối tượng xác được hưởng
rất dễ xách định. Tuy nhiên điều tiết thu nhập của dân cư cần chú ý duy trì mức
độ chênh lệch vừa phải để tạo điều kiện cho các cá nhân có thu nhập chính
đáng được hưởng thu nhập của mình, không cao bằng thu nhập thông qua phân
phối tài chính.
Hay như với các chính sách để người nghèo có khả năng phát huy hết khả
năng của mình thì nhà nước thông qua những chính sách như cho sinh viên
nghèo vay vốn, cho người nghèo vay vốn… Ngày 16.7.2009 Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi
suất đối với các khoản vay của người nghèo và các đối tượng chính sách khác
tại Ngân hàng Chính sách xã hội.
Theo đó, toàn bộ khách hàng vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo cơ
chế cho vay hiện hành được hỗ trợ lãi suất theo quy định của Thủ tướng Chính
phủ và Thông tư này. Loại cho vay được hỗ trợ lãi suất là các khoản cho vay
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của khách hàng vay tại Ngân hàng Chính sách
xã hội. Đối với các khoản vay thuộc diện được ân hạn (Chương trình tín dụng
đối với học sinh, sinh viên…), Ngân hàng Chính sách xã hội được thực hiện
giảm lãi suất tương ứng với mức và thời gian hỗ trợ lãi suất theo quy định tại
Thông tư này ở thời điểm thu lãi.
-

Cạnh tranh:

Mỗi tháng, gia đình chúng thường thanh toán các hóa đơn cho công ty
cung cấp nước thành phố ( điện, vệ sinh, …. ). Không giống như hầu hết các
doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường, công ty cấp nước không phải
cạnh tranh với các doanh nghiệp đối thủ khác trong việc cung cấp nước. Công
ty cấp nước được gọi là "độc quyền tự nhiên" bởi vì chỉ một công ty cấp nước
là có tính kinh tế nhất. Cho phép có hai hệ thống nước, hoặc hai hệ thống dây

điện hoàn toàn tách biệt trong trường hợp của hai công ty điện lực, sẽ là lãng
phí và rất không hiệu quả. Thay vì phải kiểm soát chi phí và tối đa hóa hiệu quả

16


thông qua cạnh tranh, các cơ quan chính phủ quy định mức giá và các dịch vụ
của các công ty này nhằm đảm bảo rằng họ đưa ra các mức giá tốt nhất có thể
đối với khách hàng và vẫn nhận được mức doanh thu thỏa đáng cho khoản đầu
tư của họ. Số các công ty độc quyền tự nhiên như vậy thực sự rất ít và chỉ
chiếm một phần nhỏ trong các hoạt động kinh tế ở hầu hết các nền kinh tế thị
trường. Một vấn đề phổ biến hơn và nhìn chung phức tạp hơn phát sinh khi một
ngành nghề chỉ do một vài công ty lớn khống chế. Thực sự sẽ nguy hiểm nếu
những công ty này cấu kết với nhau để đặt mức giá cao hơn và hạn chế các
công ty cạnh tranh mới gia nhập thị trường. Để ngăn chặn những sự độc quyền
và các hành vi cấu kết đó, và để duy trì mức cạnh tranh hiệu quả hơn trong hệ
thống kinh tế, các bộ luật gọi là chống độc quyền được ban bố trong hầu hết các
nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh có giới hạn có thể xảy ra ở một vài ngành nghề, ví dụ như hàng
không, do mức cầu của thị trường chỉ đủ cho một số công ty lớn có các công
nghệ sản xuất hiệu quả nhất cho các sản phẩm như vậy. (Tuy nhiên, các sự kiện
bất ngờ như vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 và sự xuất hiện của các
hãng vận tải nhỏ chi phí thấp "không cầu kỳ trong dịch vụ" đe dọa các hãng
truyền thống hàng đầu trên thị trường). Do đó các nhà hoạch định chính sách
phải quyết định xem liệu sự cạnh tranh giữa một số ít các công ty lớn sản xuất
các sản phẩm như vậy có thích hợp để giữ giá cả và lợi nhuận thấp xuống mức
hợp lý và giữ chất lượng sản phẩm cao. Nếu không, họ có thể lại phải sử dụng
các quy định về giá cả và dịch vụ hoặc chia nhỏ một cách hợp pháp các công ty
lớn thành các công ty nhỏ hơn, nếu có thể thực hiện điều đó mà về cơ bản
không tăng chi phí sản xuất lên. Nếu thất bại trong việc này, các nhà hoạch

định chính sách ít nhất cũng có thể khiến việc các công ty lớn này cấu kết với
nhau là bất hợp pháp, và cưỡng chế thực hiện các điều luật này nhằm đảm bảo
rằng càng có nhiều cạnh tranh trực tiếp giữa các công ty này càng tốt. Thật
không may là nhiều quy định và chính sách chống độc quyền của chính phủ
thực sự đã làm giảm thay vì gia tăng sự cạnh tranh. Các chính sách này bao
gồm các giấy phép độc quyền để sản xuất một hàng hóa hoặc dịch vụ, thuế, hạn
ngạch nhằm hạn chế hàng hóa và dịch vụ nước ngoài nhập khẩu vào nội địa, và
các yêu cầu về giấy phép hành nghề và lệ phí cho người lao động có tay nghề
và chuyên môn. Một số trong các chính sách này, ví dụ như cấp bằng sáng chế
và bản quyền có thể được biện minh bằng các cơ sở kinh tế khác. Tuy nhiên,
các hạn chế khác không thật thích đáng và được áp dụng chỉ bởi vì chúng mang
lại lợi ích lớn hơn cho số ít thành viên của các nhóm nhỏ có quyền lợi đặc biệt.
Do thiệt hại gây ra bởi các hạn chế này được phân tán rộng rãi cho phần còn lại
của toàn dân nên chúng không thu hút hoặc thu hút rất ít sự phản đối của công
luận.

17


Cân nhắc cho kỹ thì mặc dù còn nhiều thiếu sót nhưng điểm nhất trí chung
của các nhà kinh tế học về nền kinh tế thị trường là chúng ta sẽ phải trả giá đắt
nếu cho phép các hãng lớn (hoặc là một nhóm các hãng cố kết với nhau) đạt
được vị trí độc quyền trong một số ngành chủ chốt. Cài giá này đủ lớn để giải
thích cho việc chính phủ phải có một vai trò giới hạn trong việc xây dựng các
luật lệ và quy định để duy trì sự cạnh tranh.
-

Chính sách giáo dục của nhà nước:

Khi bạn đến với trường học cuả mình, bạn đang tìm kiếm cách cải thiện

cho chính mình và gia đình chứ không cần thiết phải cải thiện cho cả một cộng
đồng lớn. Nhưng kết quả từ sự nâng cao học vấn của bạn đã trở thành một
thành viên hữu ích và được đào tạo cao hơn trong cộng đồng của bạn. Bạn hiện
giờ có những kỹ năng mới và đã xây dựng được một doanh nghiệp mới tạo cơ
hội và việc làm cho những người khác.
Như vậy, học vấn của bạn đã làm lợi cho những người khác, điều này khác
với quan hệ giữa những người sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Giáo
dục thường được coi là đưa lại những lợi ích ngoại sinh cho một quốc gia do
những nhân công có học vấn thường linh hoạt và năng suất hơn, và chắc chắn
là ít khả năng thất nghiệp hơn. Điều này có nghĩa là chi tiêu nhiều hơn cho giáo
dục ngày hôm nay có thể sẽ dẫn đến những khoản tiết kiệm của xã hội và cá
nhân không phải chi tiêu vào việc phòng chống tội phạm, nghèo đói và các vấn
đề xã hội khác, cũng như tăng mức độ kỹ năng, tính linh hoạt và năng suất của
lực lượng lao động. Mở rộng ra, bất cứ sản phẩm nào đưa lại những lợi ích
ngoại sinh đáng kể hoặc lợi ích vượt trội thì chính phủ có thể xem xét đến việc
trợ cấp hoặc khuyến khích tiêu dùng, sản xuất sản phẩm đó để giá trị của các
lợi ích ngoại sinh đó có thể được tính bằng giá cả thị trường và sản lượng đầu
ra của các sản phẩm đó. Trong khi chi phí ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất
dư thừa một số hàng hóa nhất định thì việc tồn tại lợi ích ngoại sinh sẽ dẫn đến
việc sản xuất dưới mức cầu các hàng hóa và dịch vụ khác.
Giáo dục công lập có lẽ là ví dụ lớn nhất và đặc trưng nhất về chi tiêu và
trợ cấp của chính phủ cho một dịch vụ được xem là có lợi ích ngoại sinh đáng
kể. Chúng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. 1 đặc điểm xuyên suốt của
hàng hóa công. Nó hoạt động để cung cấp lợi ích cho mọi người. Tất cả mọi
người đều có được lợi ích như nhau.
-

Hoạt động phúc lợi xã hội:

Trong một nền kinh tế thị trường, một số người không có các khả năng

hoặc các nguồn lực khác để kiếm sống. Trái lại, một số khác lại được hưởng
18


nhiều lợi lộc vì thừa hưởng tài sản hay có tài năng, hoặc do họ biết kết hợp với
gia đình và bạn bè về mặt kinh doanh, chính trị hay xã hội. Chính phủ trong các
nền kinh tế thị trường chắc chắn sẽ can thiệp bằng các chương trình tái phân
phối thu nhập, và thường hành động với ý định khá rõ ràng là dùng các chính
sách thuế để vấn đề phân phối thu nhập sau thuế trở nên công bằng hơn. Những
người đề xướng việc tái phân phối mở rộng cho rằng vai trò này của chính phủ
khi làm như vậy là nhằm hạn chế việc tập trung tài sản và duy trì sự phân chia
quyền lực kinh tế rộng rãi giữa các hộ gia đình, cũng như luật chống độc quyền
được thiết kế để duy trì cạnh tranh và phân chia quyền lực và các nguồn lực
rộng rãi hơn giữa các nhà sản xuất. Còn những người chống lại các chương
trình tái phân phối lớn lại phản đối rằng thuế gia tăng đối với các gia đình có
thu nhập cao sẽ làm giảm động cơ làm việc, tích lũy và đầu tư của các nhóm
này, và như vậy là làm tổn hại đến toàn bộ nền kinh tế. Những tranh luận về tái
phân phối thu nhập đều dựa trên quan điểm cơ bản của con người về thế nào là
công bằng và hợp lý. Và trong lĩnh vực này, cả các nhà kinh tế học lẫn các
chuyên gia khác nghiên cứu về vấn đề này đều chưa có lập trường nào đặc biệt.
Tất cả những gì mà họ có thể làm là tập hợp tài liệu về những gì đã xảy ra đối
với việc phân phối thu nhập và tài sản qua thời gian trong các hệ thống kinh tế
khác nhau, và sử dụng các thông tin đó để cố gắng xác định các chính sách
khác nhau ảnh hưởng như thế nào đến các biến số như mức sản lượng, mức tích
lũy và đầu tư quốc gia.
Trong thế kỷ này, mọi người đã dần dần cùng nhất trí rằng chính phủ trong
hầu hết các nền kinh tế thị trường, vì lòng trắc ẩn và tính công bằng, nên có
trách nhiệm hỗ trợ cho các gia đình nghèo túng nhất trong nước và giúp họ cố
gắng thoát khỏi cuộc sống đói nghèo. Chính phủ trong tất cả các nền kinh tế thị
trường thực sự đều hỗ trợ cho những người thất nghiệp, chăm sóc y tế cho

người nghèo và trợ cấp hưu trí cho người nghỉ hưu. Toàn bộ các chương trình
này tạo thành cái gọi là "mạng lưới an sinh xã hội". Trong 40 năm qua, các
chương trình xã hội này đã chiếm một phần ngày càng tăng trong chi tiêu của
chính phủ và các chương trình thuế tại hầu hết các nước công nghiệp hóa. Do
vậy ngày nay người ta không còn tranh luận xem các chương trình này có nên
tồn tại hay không, mà là về mức độ mở rộng của chúng và cần phải quản lý
chương trình tái phân phối thu nhập như thế nào để vẫn giữ được những động
cơ cá nhân kích thích con người làm việc và tích lũy.
-

Trong vấn đề môi trường:

Nhà nước đã bỏ ra hàng tỷ đồng để có thể cải tạo môi trường sống cho
chúng ta. Chỉ có tài chính công mới có thể làm được việc này. Hãy lấy một ví
dụ về một công ty sản xuất các sản phẩm giấy - từ giấy viết đến thùng các-tông

19


tại một nhà máy bên cạnh một con sông. Vấn đề là nhà máy đã đổ xuống sông
các hóa chất ô nhiễm là sản phẩm phụ từ quá trình sản xuất. Nhưng không có
một cá nhân hay một pháp nhân nào sở hữu nước sông nên không có ai buộc
nhà máy phải ngừng gây ô nhiễm. Hơn nữa, do việc làm sạch dòng sông sẽ tốn
tiền, nên công ty có thể bán các sản phẩm giấy rẻ hơn trường hợp họ phải chịu
các chi phí kiểm soát ô nhiễm như vậy. Kết quả là, công ty giấy có thể tăng sản
lượng do cầu tương đối cao hơn tại mức giá thấp hơn, và nhà máy càng có
nhiều chất thải và ô nhiễm hơn. Bằng cách gây ô nhiễm mà không chịu một
hình phạt nào, công ty cũng có thể có lợi thế không công bằng so với các đối
thủ cạnh tranh, những người mà sản phẩm giấy của họ bao gồm cả chi phí lắp
đặt các thiết bị kiểm soát ô nhiễm. Đất công và lề đường thường bị xả rác nhiều

hơn là bãi cỏ trước cửa nhà riêng, bởi vì không ai sở hữu những khoảng đất
công này và chịu trách nhiệm giữ vệ sinh cho chúng, hay buộc tội những người
chiếm đoạt chúng.
Trên thực tế, hầu hết ô nhiễm đều bị thải vào không khí, đại dương và các
dòng sông bởi vì không có cá nhân nào sở hữu các nguồn lực đó có đủ động cơ
cá nhân để bắt những người gây ô nhiễm chịu trách nhiệm về những thiệt hại
họ gây ra. Mặc dù có một số người bỏ thời gian và chịu rắc rối để khởi kiện
những người gây ô nhiễm, thì hầu hết những người khác có rất ít động lực kinh
tế để làm điều đó. Vai trò của chính phủ trong vấn đề này là cố gắng hiệu chỉnh
sự mất cân bằng đó. Bằng cách can thiệp, chính phủ buộc những người sản xuất
và tiêu dùng sản phẩm đó phải thanh toán cho những chi phí vệ sinh này.
Tuy nhiên tài chính công tại VN chưa thực sự phát huy hết vai trò của nó
trong nền kinh tế xã hội do tài chính công Việt Nam còn mờ nhạt, chính sách
vẫn còn lỏng lẻo, chưa kiểm soát được thị trường trong nước đã làm cho giá cả
của một số mặt hàng vẫn chưa ổn định như: giá sữa cao gấp 5 lần và giá ô tô
cao gấp 3 lần so với giá của các nước khác trên thế giới hoặc khi giá xăng dầu
thế giới tăng lên thì giá trong nước cũng tăng theo, nhưng khi đã giảm thì giá
trong nước vẫn chưa được bình ổn.…Điều này là do tổ chức tài chính nước ta
vẫn chưa thực hiện tốt, không kiễm soát chặt chẽ được giá cả trên thị trường
nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung làm cho có sự phân hóa nghiêm trọng
giữa các ngành kinh tế, các vùng kinh tế hay giữa các doanh nghiệp sản xuất…
làm cho kinh tế mất ổn định, rối loạn và mất ổn định, nền kinh tế sẽ bị lũng
đoạn và trì trệ., việc điều hành NSNN vẫn còn khó khăn, hạn chế, do đó chưa
20


phát huy hết vai trò của tài chính công như: chất lượng công tác dự báo chưa
cao; việc triển khai đồng thời chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nới lỏng
đã làm gia tăng áp lực lạm phát vào năm 2008; mức dư nợ Chính phủ và dư nợ
Quốc gia tăng nhanh (tuy vẫn nằm trong giới hạn an toàn). gây khó khăn cho

việc điều hành chính sách tài chính, tiền tệ,
Nếu tài chính công không vững mạnh sẽ kéo theo hàng loạt những
vấn đề về kinh tế sẽ không được giải quyết và dẫn đến sự mất cân đối trong hệ
thống tài chính quốc gia, nền kinh tế của ta sẽ bị mất tự chủ trên thị trường
quốc tế và ngày càng trở nên trì trệ,rối loạn và suy thoái. Chúng ta có thể thấy
vai trò của tài chính công trong xã hội là không thể phủ nhận dù đôi khi nó có
mang lại một số chưa tích cực trong xã hội ( độc quyền giá điện, nước…).
Nhưng tài chính công là cái đảm bảo lợi ích cho tất cả mọi người đều được
công bằng như nhau. Vì vậy, ta có thể thấy tài chính công có ảnh hưởng rất
lớn đối với nền kinh tế vì nói đến tài chính công là nói đến trách nhiệm đối với
xã hội đứng ở góc độ vững vàng là trụ sở vững chắc để điều tiết và tác động
đến các cấu trúc tài chính khác trong nước nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.

21



×