Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Diễn biến lãi suất ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.18 KB, 20 trang )

Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------*****--------

BÀI TẬP NHÓM
Đề tài:

Diễn biến lãi suất Việt Nam

GVHD:

Nguyễn Thanh Hương

Thực hiện:

Nhóm 4

1. Lê Thị Hiệp
2. Nguyễn Thị Thanh Thúy
3. Phan Thị Long Nhi
4. Phan Thị Minh
5. Nguyễn Thanh Thảo
6. Nguyễn Nữ Diễm Chi
7. Lê Bảo Lợi

36k06.3
36k06.3


36k06.3
36k06.3
36k06.3
36k6.03
36k6.03

Đà nẵng, tháng 10 năm 2011

Nhóm 4

*************

Trang

1


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế vĩ mô hết sức quan trọng trong nền kinh
tế thị trường, một công cụ trong việc điều hành chính sách tiền tệ của quốc gia. Mỗi sự
thay đổi của lãi suất đều tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các hoạt động của nền kinh
tế như các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hành vi tiết kiệm và đầu
tư của công chúng, hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài.
Do đó kéo theo sự thay đổi của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác như lạm phát, tăng trưởng
thất nghiệp .Bên cạnh đó lãi suất còn được xem như là một công cụ để điều hoà mối quan
hệ lợi ích giữa các chủ thể trong nền kinh tế, mỗi sự tăng hay giảm của lãi suất sẽ kéo

theo sự khuyến khích lợi ích vật chất đối với chủ thể kinh tế này đồng thời hạn chế lợi ích
của chủ thể kinh tế khác.
Lãi suất có thể sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành, lĩnh vực này đồng thời kiềm chế
sự phát triển của các ngành lĩnh vực khác, tăng lợi ích của nhóm người này, giảm lợi ích
của nhóm người kia. Lãi suất còn là công cụ tạo ra các kênh chu chuyển nguồn lực xã hội
từ ngành lĩnh vực này, sang ngành lĩnh vực khác, từ vùng này sang vùng khác. Do đó tạo
ra sự thay đổi cơ cấu vùng, cơ cấu ngành của nền kinh tế . Chính vì lãi suất có một vai trò
hết sức quan trọng như vậy vì thế tình hình biến động lãi suất là một vấn đề mà hầu hết
mọi người đều rất quan tâm và được theo dõi hằng ngày.
Sau đây nhóm 4 xin trình bày đề tài Diễn biến lãi suất ở Việt Nam. Bài tiểu luận
gồm có 3 phần:
I. Diễn biến lãi suất ở Việt Nam từ trước 1989 đến 2002.
II. Diễn biến lãi suất ở Việt Nam từ 2002 đến 2008.
III. Diễn biến lãi suất ở Việt Nam từ 2008 đến nay.

Nhóm 4

*************

Trang

2


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

I. Diễn biến lãi suất ở Việt Nam: trước 1989 đến 2002:
1. Giai đoạn trước 1989: Lãi suất được quy định ở mức thấp và cố định, lãi

suất thực thường “âm”.
Chúng ta hãy nhìn nhận lại sự ra đời của Ngân hàng từ trước năm 1986, trong thời
kỳ này chỉ có sự hoạt động duy nhất của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam hay Ngân hàng
Nhà Nước Việt Nam. Ngân hàng Quốc gia ra đời thực hiện nhiệm vụ chủ yếu cung cấp
tín dụng cho các tổ chức kinh tế quốc doanh và hợp tác xã theo sự chỉ đạo trực tiếp của
Nhà nước. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ phân bổ Ngân sách Nhà nước chủ yếu là cho
các doanh nghiệp Quốc doanh, chưa có khái niệm kinh doanh và chủ động theo nguyên
tắc thị trường. Tóm lại, Nhà nước chưa quan tâm đến công cụ lãi suất mà áp đặt trong
quản lý. Vai trò công cụ lãi suất trong giai đoạn này là không có.
Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế
kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi
suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi
trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn
vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn
lãi suất danh nghĩa.
Cũng trong giai đoạn này, lạm phát rất cao, đỉnh điểm là năm 1986, chỉ số lạm phát
lên tới 774.7%, sản xuất đình trệ nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, đời sống
nhân dân hết sức khó khăn. Việc tăng lãi suất không đáng kể với mức lạm phát quá cao
lúc bấy giờ. Chính phủ áp dụng chính sách lãi suất mới nâng dần mức lãi suất lên theo
kịp chỉ số lạm phát, đối phó với tình hình lạm phát cao lúc bấy giờ. Tuy nhiên, mức lãi
suất huy động thực tế vẫn âm, thể hiện năm 1982, lãi suất huy động là 1.5%/ năm kỳ hạn
3 tháng với mức lạm phát 7.95%/ năm dẫn đến lãi suất thực âm 5.45%/ năm.
Thời kỳ lãi suất thực âm kéo dài từ 1986 do chưa áp dụng triệt để chính sách lãi
suất theo cơ chế thị trường, cùng với mức lạm phát phi mã khiến cho lãi suất thực tế ở
mức âm.
Giai đoạn này, hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống một cấp, nền kinh tế
đượcquản lý theo phương thức kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, vì vậy lãi suất được đặc
trưng bởi các đặc điểm sau:- Lãi suất thực âm và cố định, được quy định một cách cứng
nhắc bởi Nhà nướcnhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp quốc
doanh, phản ánh cơ chế bao cấp qua tín dụng. Thời kỳ này các doanh nghiệp nhà nước

làm ăn thua lỗ, vay ngânhàng không trả được nợ và cuối cùng các ngân hàng phải xoá
nợ.- Lãi suất cho vay ngân hàng nhỏ hơn lãi suất tiền gửi.- Lãi suất cho vay dài hạn nhỏ
hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Như vậy, lãi suất thời kỳ này hoàn toàn thoát ly khỏi thị
trường, không phát huyđược vai trò của mình trong nền kinh tế. Và khủng hoảng là 1 tất
yếu khi mà cơ chế lãisuất này không còn phù hợp trong thời bình. Mức siêu lạm phát
700% năm 1986 là 1minh chứng cho sự suy sụp trầm trọng của nền kinh tế nước ta.Trước
tình hình đó, ngày 26/3/1988, cùng với công cuộc cải tổ toàn nền kinh tế,Chính phủ ra
quyết định chuyển đổi thành hệ thống ngân hàng hai cấp, nhờ đó các ngânhàng được kinh
doanh độc lập, thực hiện hạch toán kinh tế. Vì vậy lãi suất đã bước đầuđược điều chỉnh.

Nhóm 4

*************

Trang

3


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

2. Giai đoạn (1989-5.1992): Cơ chế thực thi chính sách lãi suất cố định - Thời
kỳ lãi suất âm
Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyêntắc
của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điềuchỉnh theo biến động
của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụngtheo mức lãi suất của thị trường
tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thờigian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ

này đã bắt đầu phát huy tác dụng, làbước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế
lãi suất thực dương .
Tuy NHNN đã có những điều chỉnh theo từng thời kỳ nhưng do thời gian này tình
hình kinh tế bị lạm phát phi mã nên NHNN đã thực thi chính sách "lãi suất âm" mang
nặng tính chất bao cấp, với:
- Lãi suất danh nghĩa < tỷ lệ lạm phát;
- LSCV đối với DNNN < LSCV đối với DN ngoài quốc doanh;
- LSCV ngắn hạn > LSCV dài hạn;
- LSTG tiết kiệm > LSTG của các tổ chức kinh tế.
- Lãi suất cho vay < lãi suất huy động < mức lạm phát
Chính sách này nhằm thu hút mạnh tiền vào hệ thống ngân hàng, từ đó giảm bớt
tổng phương tiện thanh toán để ổn định và giữ vững giá trị đồng tiền. Đồng thời duy trì
lãi suất cho vay ở mức độ hợp lý, các DN có thể chịu đựng được nên đã đưa nền kinh tế
thoát khỏi cơn suy thoái trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn.
3. Giai đoạn (6.1992-1995):
Giai đoạn 6/1992 - 1995 NHNN đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính
sách lãi suất
Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất
theokhung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối vớinền
kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãisuất của ngân
hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi
căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanhcó hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu
cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
- Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo
cho người dân gửi tiền và ngân hàng là người cho vay đều được lợi;
- Xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, thay
vì ấn định lãi suất cụ thể bằng quản lý lãi suất theo một khung, bao gồm lãi suất tối thiểu
về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay.
- NHNN cho phép Ngân hàng thương mại (NHTM) được thoả thuận lãi suất với

khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu- lãi suất
huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn
mức trần 2,1%/ tháng);
- Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của CSTT cùng với lãi suất tái
cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. Lãi
suất tái cấp vốn được tính bằng % so với lãi suất cho vay của TCTD.
Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này còn nhiều hạn chế. Những thay đổi trên thể
hiện chính sách lãi suất đã được cải cách theo hướng linh hoạt hơn và phù hợp hơn với cơ

Nhóm 4

*************

Trang

4


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

chế thị trường. Sự thay đổi từ việc ấn định các mức lãi suất cụ thể sang quy định trần và
sàn lãi suất, cho phép các TCTD chủ động, tự quyết định mức lãi cụ thể của đơn vị mình
là bước chuyển biến quan trọng để tiến tới quá trình tự do hoá lãi suất, làm cho lãi suất
linh hoạt hơn, hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp trực tiếp của NHNN vào hoạt động
của NHTM. Mặc dù vậy, cơ chế này vẫn khống chế trực tiếp lãi suất trên thị trường, làm
giảm tác dụng kích thích và điều tiết hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
4. Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7/2000: NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất
tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất.

- Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi - lãi suất tối đa về tiền vay,
NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm)
để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao
trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất
thoả thuận ở giai đoạn trước).
- Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui
định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều
chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong
năm các năm 1998, 1999.
- Trong năm1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn,
chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh
giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù
hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp
kích cầu về đầu tư của Chính phủ.
- Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử
dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết
khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn;
- Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị
trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch.
Trong xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa nền kinh tế, NHTƯ khi tiến hành điều
chỉnh lãi suất phải xem xét với diễn biến trong khu vực và thế giới trước khi đưa ra quyết
định của mình. Trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến nay, NHTW cũng đã có nhiều
đợt điều chỉnh lãi suất cho vay. Rõ nhất là vào tháng 2 năm 1999, thống đốc NHNN ra
quyết định quy định trần lãi suất cho vay thông thường bằng đồng Việt Nam của các
NHTM quốc doanh đối với khách hàng ở đô thị là 1,1%/ tháng với các khoản vay ngắn
hạn và 1,15%/tháng đối với các khoản vay trung và dài hạn, khi đó các NHTM quốc
doanh chiếm tới 71,6% tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng với nền kinh tế, chiếm chủ
yếu thị phần cho vay. Do đó chỉ thị về mức lãi suất trên có ý nghĩa như là hạ trần lãi suất
cho vay chung của nền kinh tế. Mặc dù chỉ quy định đối với các NHTM quốc doanh

nhưng đối với các NHTM cổ phần và tư nhân để cạnh tranh thu hút khách hàng và không
để mất khách hàng cũng buộc phải hạ mức lãi suất cho vay xuống bằng mức lãi suất cho
vay của các NHTM quốc doanh. Mức lãi suất của các NHTM đều thấp hơn từ 10-15% so
với mức lãi suất trần nói trên, chỉ cho vay với lãi suất 1-1,05%/tháng, thậm chí hạ đến
0,9-0,95%/tháng đối với loại hình cho vay ngắn hạn.

Nhóm 4

*************

Trang

5


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

Đến tháng 6-1999, NHNN lại có quyết định điều chỉnh lãi suất trong đó quy định lãi
suất trần cho vay là 1,5%/tháng đối với cả ngắn, trung và dài hạn. Như vậy lãi suất ngắn
hạn đã tăng thêm 0,05%/tháng so với tháng 2 .
5. Giai đoạn từ tháng 8/2000-5/2002: NHNN áp dụng chính sách LS cơ bản Cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ.
Quyết định 241/2000/QĐ-NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc
thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với kháchhàng.
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhànước
đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi
suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân
hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về

cơ bản các ngân hàng thương mại, cáctổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên
cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo
cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách
lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu
vực vàthế giới
Tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước thay thế trần lãi suất bằng một cơ chế mới
trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do
Nhà nước công bố. Các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ
bản cộng biên độ 0.3%/ tháng đối với vốn ngắn hạn và 0.5%/ tháng đối với vốn trung và
dài hạn. Về bản chất, cơ chế lãi suất cơ bản không khác gì so với trần lãi suất áp dụng
trước đây. Tuy nhiên, lãi suất cơ bản cộng biên độ cao hơn trần lãi suất cũ rất nhiều, đây
là cơ sở cho các ngân hàng thực hiện việc thoả thuận lãi suất với khách hàng để ấn định
mức lãi suất cho ngân hàng mình. Trên thực tế, lãi suất cho vay của các ngân hàng luôn
cao hơn mức lãi suất cơ bản nhưng biến động theo lãi suất cơ bản. Thể hiện năm 2000 và
năm 2001, khi Ngân hàng Nhà nước giảm mức lãi suất cơ bản thì lãi suất cho vay của các
ngân hàng thương mại có xu hướng giảm theo. Cũng trong thời gian này lãi suất tiền gửi
tăng lên, chính sự cạnh tranh của các ngân hàng đã giảm sự chênh lệch giữa lãi suất huy
động và lãi suất cho vay.
Tới tháng 11 năm 2001, lãi suất cho vay ngoại tệ được tự do hoá, cho phép
người đi vay có thể thương lượng lãi suất với ngân hàng nội địa cũng như các ngân hàng
nước ngoài. Đến tháng 6 năm 2002, lãi suất đồng Việt Nam cũng được tự do hoá, ngân
hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với
khách hàng. Ngay khi áp dụng chính sách lãi suất mới này, các ngân hàng tăng lãi suất
huy động và mức lãi suất cho vay cũng nhích dần lên. Thời điểm này, lãi suất cơ bản của
Ngân hàng Nhà nước chỉ mang tính chất tham khảo. Nguyên tắc điều hành lãi suất của
ngân hàng là lãi suất do thị trường quyết định. Ngân hàng Nhà nước chỉ có tác động nhất
định hạn chế để thị trường không có biến động đột biến.
II . Diễn biến lãi suất từ năm 2002 đến năm 2008:
•Từ tháng 8/2000 đến nửa đầu năm 2002: là cơ chế điều hành lãi suất
kèm biên độ.

+Ngân hàng nhà nước điều hành lãi suất theo luật Ngân hàng để
thay thế cho cơ cấu lãi suất trần . Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố
hằng tháng .

Nhóm 4

*************

Trang

6


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

+Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ , các ngân hàng thương
mại , tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay theo lãi suất thị
trường quốc tế và cung cầu vốn ngoại tệ trong nước.
•Nửa sau năm 2002 đến năm 2008:là cơ chế lãi suất thỏa thuận.

Bảng : Tình hình lãi suất cho vay qua các năm 2002-2004
Năm

Lãi suất cho
vay (%/năm)

Lạm phát
(%/năm)


2002
2003
2004

9.2
9.6
10.0

4.0
3.0
9.5

Lãi suất cho
vay thực tế
(%/năm)
5.2
6.6
0.5

Bảng : Tình hình lãi suất huy động qua các năm 2002-2004
Năm

Lãi suất huy
động (%/năm)

Lạm phát
(%/năm)

2002

2003
2004

6.0
6.2
6.2

4.0
3.0
9.5

Lãi suất huy
động thực tế
(%/năm)
3.0
3.2
-3.3

1. Diễn biến lãi suất nửa sau năm 2002:
Trong thưc tế , lãi suất thỏa thuận đã đươc nhà nước áp dụng từ tháng 5/2001 cho
hình thức vay bằng ngoại tệ , tiếp theo tháng 5/2002 áp dung cơ chế thỏa thuận trong hoạt
động tín dụng trong nước.
2. Diễn biến lãi suất năm 2004:
Thế giới có nhiều biến động , giá thành các nguyên vật liệu tăng mạnh tạo ra chi phí
đẩy làm giá cả tăng nhanh, lạm phát gia tăng ,lãi suất không theo kịp lạm phát , đồng tiền
mất giá , làm lạm phát ngày càng gia tăng .
3. Diễn biến lãi suất năm 2005:
Lãi suất tiền gửi và huy động vốn nội tệ của các ngân hàng thương mại trong năm
2005 bình quân tăng 0,48%/năm - 0,63%/năm của mỗi kỳ hạn so với năm 2004. Lãi suất
trung bình là 8,4%/năm và tăng đều qua các tháng trong năm 2005.

Đến đầu tháng 6 năm 2005, chỉ số giá cả so với năm 2004 là 8,6% đã làm lãi suất
thực tế trong 2 năm này âm . Lạm phát cao ở nhiều nước, cục dự trữ liên bang Mỹ tăng
lãi suất lên cao cũng ảnh hưởng đến Việt Nam.Các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất do
sức ép của việc FED tăng lãi suất đồng ngoại tệ .
- Trước tình hình năm 2004- 2005 có nhiều diễn biến , giá cả tăng , nhu cầu tín
dụng cho nền kinh tế cũng tăng , Ngân hàng nhà nước không tăng lãi suất , chủ trương
giữ nguyên mức lãi suất cơ bản , lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu .

Nhóm 4

*************

Trang

7


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

Hình 1: Lãi suất huy động tiền gởi VNĐ
nnăm200năm 2005
Mức lãi suất mà ngân hàng nhà nước áp dụng với các ngân hàng thương mại:
Loại lãi suất

Giá tri

Vãn bản quyết


Ngày áp dụng

định
Lãi suất cơ bản

0.65% / tháng
7,8 % / năm

1426/
NHNN
30/9/2005

Lãi suất tái cấp

6% / năm

316/QĐ_NHN
N ngày 25/3/2005

1/4/2005

Lãi suất chiết

4% / năm

316/QĐ_NHN
N ngày 25/3/2005

1/4/2005


vốn
khấu

QĐngày

1/10/2005

4. Diễn biến lãi suất năm 2006:
Trong 6 tháng đầu năm, lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại
(NHTM) tăng nhẹ so với đầu năm. Tuy nhiên, trong quý 3/2006, các ngân hàng không tăng
lãi suất nhiều như giai đoạn trước. Chỉ một số ngân hàng tăng lãi suất với biên độ nhỏ, lãi
suất huy động phổ biến đối với nhóm NHTMNN là khoảng 7,56%/năm ở kỳ hạn 3
tháng; đối với nhóm NHTMCP là 8,25%. Trong quý 3/2006, nguồn huy động chủ yếu
của các ngân hàng phần lớn vẫn là từ cá nhân và các tổ chức kinh tế. Tỉ lệ vốn huy động từ
đối tượng này trên tổng nguồn vốn đạt 67% trong quý 3/2006, giảm nhẹ so với quý
2/2006. Với điều kiện thị trường tài chính tương đối ổn định, chính sách lãi suất của Ngân
hàng Nhà nước (SBV) vẫn được điều hành theo hướng thận trọng và giữ nguyên ở các mức

Nhóm 4

*************

Trang

8


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương


6,5%/năm đối với lãi suất tái cấp vốn, 4,5%/năm đối với lãi suất tái chiết khấu và 8,25%/năm
đối với lãi suất cơ bản.

Hình 2: Lãi suất huy động tiền gởi VNĐ năm 2006
So với cuối năm 2005, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trên thị trường tăng nhẹ,
chủ yếu trong 7 tháng đầu năm, lãi suất huy động VND tăng khoảng 0,4-0,8%/năm; lãi suất
cho vay VND tương đối ổn định; lãi suất huy động và cho vay USD tăng khoảng 0,20,6%/năm. Như vậy, lãi suất VND chênh lệch dương so với lạm phát khoảng +1%, so với lãi
suất USD và mức tăng tỷ giá USD/VND khoảng +3,2%.
Tháng 8 lãi suất tăng đến đỉnh điểm là 12,4%/năm do thị trường chứng khoán đang biến
động theo chiều hướng đi xuống. Thông thường, lãi suất ngân hàng đi trái chiều với chứng
khoán nên xu hướng này của thị trường là điều dễ thấy. Các nhà đầu tư đã đổ vốn vào thị
trường chứng khoán làm cho các ngân hàng khó khăn trong huy động vốn. Vì vậy, để có thể
thu hút được vốn nhãn rỗi và cạnh tranh với thị trường chứng khoán, các ngân hàng buộc
phải tăng lãi suất lên.
Mức lãi suất cơ bản của ngân hàng tăng lên 8,25%/năm cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho lãi suất huy động trên thị trường tăng lên. Trước những diễn biến của
thị trường tiền tệ thế giới và tác động của yếu tố giá cả, để đạt được các mục tiêu phát triển
kinh tế năm 2006 do Quốc hội đề ra, NHNN đã thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thông
qua các công cụ lãi suất để ổn định thị trường tiền tệ bằng sự ổn định các mức lãi suất được
công bố áp dụng từ tháng 01/2006 đến tháng 12/2006 cụ thể như sau:
- Lãi suất cơ bản: 8,25% năm (0,6875% tháng)
- Lãi suất chiết khấu: 4,50% năm (0,375% tháng)
- Lãi suất tái cấp vốn: 6,50% năm (0,5436% tháng)

Nhóm 4

*************

Trang


9


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Để tồn tại và phát triển, các NHTM trong nước cần phải tổ chức cung ứng
các dịch vụ tốt, cần hỗ trợ nhau - thực hiện tốt các cam kết: trước hết là cam kết đồng
thuận, thực hiện các mức lãi suất là cách để chúng ta tự bảo vệ nhau trước các đối thủ
nước ngoài.
Thêm vào đó, phần lớn các ngân hàng tham gia trong cuộc chạy đua là những
gương mặt mới trên thị trường, hoặc qui mô vốn và thương hiệu chưa thực sự mạnh.
Theo đó, lãi suất tăng là một công cụ hữu hiệu cho các ngân hàng thu hút vốn về phía
mình.
So với cuối năm 2005, lãi suất huy động VND tăng khoảng 0,1 - 0,4%/năm; lãi suất
cho vay VND tương đối ổn định; lãi suất huy động và cho vay USD tăng khoảng 0,2 0,6%/năm; lãi suất VND chênh lệch dương so với lạm phát khoảng +1%, lãi suất USD so
với mức tăng tỷ giá USD/VND chênh lệch dương +3,2%. Cụ thể:
-Lãi suất VND:
+Lãi suất huy động: Trong 7 tháng đầu năm 2006, lãi suất huy động có xu hướng
tăng chủ yếu ở nhóm NHTM cổ phần; các NHTM nhà nước không tăng lãi suất huy động
tiết kiệm nhưng mở rộng phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn với lãi suất cao hơn lãi suất
tiết kiệm cùng kỳ hạn khoảng 0,1 - 0,3%/năm, điều này phần nào tác động đến tâm lý thị
trường tiền tệ. Hiện nay, lãi suất huy động phổ biến kỳ hạn 3 tháng là 7,56 - 8,52%/năm,
6 tháng là 7,8 - 8,76%/năm, 12 tháng là 8,4 - 9,24%/năm.
+Mặt bằng lãi suất cho vay ít biến động so với lãi suất cho vay cuối năm 2005
nhưng vẫn ở mức khá cao, nhất là các NHTM cổ phần và Ngân hàng No&PTNT. Lãi suất
cho vay phổ biến ở mức 10,2 - 13,8%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 10,8 15,3%/năm đối với cho vay trung, dài hạn.

-Lãi suất USD:
+Lãi suất huy động: Trong những tháng đầu năm 2006, lãi suất tiết kiệm bằng USD
trong nước tăng chủ yếu do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất định hướng liên
ngân hàng (4 lần điều chỉnh tăng trong năm 2006, từ 4,25%/năm lên 5,25%/năm) nhưng
với biên độ điều chỉnh thấp hơn và có xu hướng ổn định trong hai tháng gần đây. Bên
cạnh đó, lãi suất huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá thường cao hơn lãi
suất tiết kiệm cùng kỳ hạn khoảng 0,1-0,4%/năm và các giấy tờ có giá này chủ yếu do
các NHTM nhà nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành. Hiện nay, lãi suất
huy động bằng USD trong nước gần ngang bằng với thị trường các nước trong khu vực,
cho nên ít có hiện tượng tăng huy động vốn để gửi ra nước ngoài, mức lãi suất huy động
USD phổ biến hiện nay là: Kỳ hạn 3 tháng là 3,9 - 4,3%/năm, 6 tháng là 4,1 - 4,4%/năm,
12 tháng là 4,5 - 5,0%/năm.
+Lãi suất cho vay tăng nhưng chậm hơn mức tăng lãi suất huy động. Hiện nay, lãi
suất cho vay đối với ngắn hạn khoảng 5,8 - 6,7%/năm, đối với trung, dài hạn khoảng 6,0 8,0%/năm.
+Lãi suất thị trường liên ngân hàng có xu hướng giảm so với cuối năm 2005: Lãi
suất trúng thầu nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là chào bán giảm mạnh khoảng
3,8%/năm; lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc giảm 2,7%/năm; lãi suất VNIBOR ở các kỳ
hạn giảm khoảng 0,07 - 048%/năm.

Nhóm 4

*************

Trang 10


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương


+Lãi suất của các kênh huy động vốn khác: Năm 2006, nhiều doanh nghiệp phát
hành trái phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất của ngân hàng hiện nay như Tổng Công ty
Điện lực Việt Nam (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm là 9,5%/năm); Tổng Công ty Sông
Đà (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm là 10,5%/năm); trái phiếu của Tổng Công ty Điện lực
Việt Nam được Ngân hàng Quốc tế bảo lãnh phát hành (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm
là 9,6%/năm
5. Diễn biến lãi suất năm 2007:
Đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo; áp
lực tăng lãi suất trên thị trường thế giới cũng giảm bớt, đặc biệt là lãi suất USD.Nhưng lãi
suất vẫn tăng, mở đầu năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh
lãi suất huy động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Mở hàng lãi
suất năm nay là Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) với quyết định tăng lãi suất “Tiết
kiệm điện tử”, áp dụng ngay từ ngày đầu tiên của năm (1/1/2007). Lãi suất “Tiết kiệm
điện tử” tiền VND của Techcombank tăng mạnh nhất ở kỳ hạn 12 tháng với mức tăng từ
từ 0,12%/năm đến 0,17%/năm, lên 9,42%năm, 9,45%/năm và 9,48%/năm, tương ứng với
các mức tiền gửi dưới 50 triệu VND, 50-200 triệu VND và từ 200 triệu VND. Nhưng
cuộc đua tăng lãi suất mới chỉ thực sự khởi tranh trong vài ngày trở lại đây, với sự tham
gia của một loạt ngân hàng cổ phần. Nhưng nhìn chung, lãi suất năm 2007 không có biến
động nhiều giữa các tháng trong năm. Lãi suất vẫn duy trì ở mức 9.5%/năm.

Hình 3: Lãi suất huy động tiền gửi VNĐ năm 2007
Lãi suất đầu năm tăng do theo lộ trình giảm thuế được cam kết khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO, các doanh nghiệp tăng nhập hàng và cần một lượng lớn USD để
thanh toán. Chính tín hiệu vui từ thị trường này đã khiến đồng USD từ mức dư thừa hồi trước
Tết trở nên có giá và các ngân hàng nhân cơ hội này gia tăng huy động.
Hơn nữa, theo Nghị định 1141 mà Ngân hàng Nhà Nước vừa ban hành, nhà băng phải
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10%. Điều này khiến chi phí đầu vào của ngân hàng gia

Nhóm 4


*************

Trang 11


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

tăng lên đáng kể và các nhà băng phải đau đầu với bài toán sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy
động.
Nhưng đến cuối năm, lãi suất lại có xu hướng tăng do trong quý III-2007 lãi suất tiết
kiệm đã bị cắt giảm do các ngân hàng buộc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nên bây giờ tăng lãi
huy động cũng là cách bù vào. Cuối năm thường là khoảng thời gian các doanh nghiệp hoàn
thành các hợp đồng đã ký, chuẩn bị nguồn lực tích trữ hàng hóa mà giá cả nguyên vật liệu
nhập khẩu đầu vào năm sau thường cao hơn năm trước nên nhu cầu vốn thường cao hơn. Có
lẽ đây cùng là một trong những nguyên nhân khiến các ngân hàng chuẩn bị một lượng vốn
lớn để giải ngân vào thời điểm này.
Trong tháng 2/2007, NHNN tiếp tục điều hành theo hướng thận trọng, linh hoạt nhằm
ổn định mặt bằng lãi suất, đảm bảo sự hợp lý giữa lãi suất VND và lãi suất ngoại tệ trong mối
quan hệ với tỷ giá, hạn chế sự dịch chuyển tiền gửi VND sang gửi ngoại tệ để góp phần kiểm
soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất chiết khấu của NHNN công bố không thay đổi so với tháng trước và so với
cuối năm 2006,:
Trong tháng 07/2007, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất theo hướng thận trọng, linh
hoạt nhằm ổn định tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo đó, các mức lãi suất của NHNN công bố trong tháng 07/2007 không thay đổi so với
tháng trước và tháng 12/2006: Lãi suất cơ bản 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn 6,5%/năm,
lãi suất tái chiết khấu 4,5%/năm.
* Lãi suất huy động: Trong tháng 7 năm 2007, lãi suất huy động USD và VND của

các TCTD đối với khách hàng có một số biến động:
- Lãi suất huy động bằng VND:
+ Một số NHTMCP điều chỉnh tăng, giảm lãi suất VND như sau: NHTMCP Xuất
nhập khẩu Việt Nam điều chỉnh tăng lãi suất VND từ 0,12% - 0,66%/năm; NHTMCP An
Bình điều chỉnh giảm lãi suất huy động VND kỳ hạn 12 tháng từ 9,84%/năm xuống mức
9,78%/năm.
Tuy nhiên, việc tăng giảm lãi suất VND nói trên không làm ảnh hưởng đến mặt
bằng lãi suất huy động VND của các TCTD.
- Lãi suất huy động bằng USD:
+ Một số NHTMCP điều chỉnh tăng lãi suất huy động USD với mức lãi suất tăng
từ 0,05%-0,57%/năm, như NHTMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam điều chỉnh tăng lãi suất
huy động USD với mức tăng từ 0,05% - 0,2%/năm, NHTMCP An Bình tăng từ 0,05%0,57%/năm, NHTMCP Nam á tăng từ 0,05%-0,15%/năm, NHTMCP Phương Nam tăng
thêm 0,5%/năm.
Như vậy, với việc tăng lãi suất huy động USD của một loạt các NHTMCP, mặt
bằng lãi suất huy động USD của các TCTD cũng tăng theo tương ứng, cụ thể: mức lãi
suất huy động USD kỳ hạn 3 tháng của các NHTMCP phổ biến tăng từ 4,75%/năm lên
4,9%/năm; mức lãi suất huy động USD kỳ hạn 6 tháng của các NHTMCP phổ biến tăng
từ 5,05%/năm lên 5,1%/năm.
* Lãi suất cho vay: Trong tháng, lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách
hàng có một số biến động.
Nhóm 4

*************

Trang 12


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương


- Lãi suất cho vay VND: Một số NHTM tăng lãi suất cho vay VND từ 0,07%0,6%/năm, như NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tăng lãi suất cho vay VND
ngắn hạn và trung hạn từ 0,07%-0,27%/năm; VP Bank cũng tăng lãi suất cho vay trung
hạn VND thêm 0,6%/năm.
Với việc tăng lãi suất nêu trên kết hợp với việc tăng lãi suất cho vay của các ngân
hàng cuối tháng 6, mặt bằng lãi suất cho vay VND cả ngắn hạn và trung hạn mới như
sau: Lãi suất cho vay ngắn hạn dao động từ 11,48%-13,8%/năm (mặt bằng lãi suất tháng
6 là 9,84%-13,8%/năm) , lãi suất cho vay dài hạn dao động từ 11,8%-16,2%/năm (tháng
6: 11,4%-16,2%/năm).
- Lãi suất cho vay USD: Trong tháng, lãi suất cho vay USD của các TCTD tương
đối ổn định.
Trong tháng 08/2007, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất theo hướng thận trọng, linh
hoạt nhằm ổn định tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo đó, các mức lãi suất của NHNN công bố trong tháng 08/2007 không thay đổi so với
tháng trước và tháng 12/2006: Lãi suất cơ bản 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn 6,5%/năm,
lãi suất tái chiết khấu 4,5%/năm.
Diễn biến lãi suất của TCTD
* Lãi suất huy động: Từ 6/8/2007 đến nay, mặt bằng lãi suất huy động VND của
các TCTD đối với khách hàng tương đối ổn định, lãi suất huy động USD có một số biến
động:
- Ngân hàng TMCP Quốc tế tanưg lãi suất tiết kiệm USD từ 0,2%-0,36%/năm. Hiện
nay, mức lãi suất tiết kiệm USD cụ thể là: lãi suất kỳ hạn 3 tháng là 5%/năm, kỳ hạn 6
tháng là 5,2%/năm, kỳ hạn 12 tháng là 5,5%/năm. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất USD nêu
trên không làm ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất huy động USD của các TCTD.
* Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay bằng VND và USD của các TCTD đối với
khách hàng tương đối ổn định. Lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức 11,48%13,8%/năm đối với ngắn hạn, 11,8%-16,2%/năm đối với trung, dài hạn; lãi suất cho vay
bằng USD phổ biến ở mức 5.25%-6,2%/năm đối với ngắn hạn và 6,0-7,5%/năm đối với
trung, dài hạn.
- Lãi suất huy động bằng VNĐ:
+ Trong 5 tháng đầu năm 2007, mặt bằng lãi suất huy động VND có xu hướng

tăng nhẹ, mức tăng khoảng 0,06% - 0,2%/năm so với cuối năm 2006, chủ yếu do nhóm
NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi, kết hợp với việc mở rộng nhiều hình
thức huy động vốn khác như phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm bậc thang...
với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn khoảng 0,12% - 0,6%/năm.
+Từ tháng 6 nhóm NHTM Nhà nước giảm lãi suất huy động VND và giữ ổn định
trong tháng 7. Sang tháng 8, nhóm NHTMNN tiếp tục giảm lãi suất huy động, với mức
giảm 0,17% ở kỳ hạn 3 tháng, nhóm NHTM cổ phần giảm lãi suất mạnh từ 0,360,7%/nămở tất cả các kỳ hạn. Như vậy, so với đầu năm 2007, lãi suất huy động của nhóm
NHTM Nhà nước giảm 0,12-0,41%/năm, của nhóm NHTM cổ phần giảm 0,360,7%/năm, chủ yếu do các ngân hàng dư thừa vốn khả dụng ở mức lớn do tăng trưởng
huy động vốn lớn hơn tăng trưởng tín dụng.
-Lãi suất huy động bằng USD:
+ Trong 8 tháng đầu năm 2007, lãi suất huy động USD có xu hướng tăng, nhóm
Nhà nước tăng 0,1-0,15%/năm lãi suất huy động ở các kỳ hạn; các NHTM cổ phần tăng
0,05-0,15%/năm, chủ yếu do: (i) Nhóm các NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất tiết

Nhóm 4

*************

Trang 13


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

kiệm của dân cư với mức tăng từ 0,1 - 0,15%/năm; (ii) Một số NHTM phát hành giấy tờ
có giá với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn từ 0,05%-0,45%/năm; (iii) Từ
tháng 3/2007, các NHTM điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD
sau khi NHNN có quy định các TCTD đã được phép ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD
của pháp nhân theo cơ chế thoả thuận.

- Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay VND và USD tương đối ổn định, lãi suất cho vay VND ngắn hạn
phổ biến ở mức 11,48%-13,8%/năm, trung dài hạn ở mức 11,8-16,2%/năm. Lãi suất cho
vay USD giảm nhẹ khoảng 0,5%/năm, phổ biến ở mức ngắn hạn phổ biến ở mức 5,25%6,2%/năm, trung dài hạn ở mức6,0%-7,5%/năm.
Từ 27/11/2007 đến nay, mặt bằng lãi suất huy động vốn cho vay của các tổ chức tín
dụng tương đối ổn định, phổ biến ở mức:
* Lãi suất huy động:
 NHTM nhà nước: Lãi suất huy động đối với VND không kỳ hạn là 2,4%/năm,
kỳ hạn 6 tháng là 7,56%/năm, kỳ hạn 12 tháng 8,28%/năm; đối với USD: không kỳ hạn
là 1,2%/năm, 6 tháng 4,7%/năm, 12 tháng 5,1%/năm.
 NHTMCP: Lãi suất huy động đối với VND không kỳ hạn là 3%/năm, kỳ hạn 6
tháng là 8,65%/năm, kỳ hạn 12 tháng 9,15%/năm; đối với USD: Không kỳ hạn là
1,6%/năm, 6 tháng 4,9%/năm, 12 tháng 5,2%/năm
* Lãi suất cho vay:
 NHTM nhà nước: Lãi suất cho vay đối với VND loại cho vay ngắn hạn
11,48%/năm, loại trung và dài hạn 16,2%/năm; đối với USD: loại cho vay ngắn hạn
6,5%/năm, loại cho vay trung và dài hạn 7%/năm.
 NHTMCP: Lãi suất cho vay đối với VND loại cho vay ngắn hạn 13,8%/năm,
loại trung và dài hạn 16,2%/năm; đối với USD: loại cho vay ngắn hạn 7,2%/năm, loại cho
vay trung và dài hạn 7,8 %/năm.
6. Diễn biến lãi suất năm 2008:
Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã tăng lãi suất liên tục 3 lần và tới thời điểm tháng
6.2008, mức lãi suất cao nhất là 14%, cao nhất châu Á, từ mức 12% trước đó. Ngân hàng
Việt Nam cũng giảm 2% lãi suất để giảm áp lực đối với đồng tiền trong nước.
III. Diễn biến lãi suất từ 2008 đến nay:
1. Diễn biến lãi suất năm 2008:
- Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình lãi suất có những biến động, đầu năm
lãi suất lên cao.Đặc biệt là từ đầu tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị trường đã biến
động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ lên mức 13-14%/năm và
đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên 1,5%/tháng vào tháng 3 năm 2008, có nơi còn

cho vay với lãi suất xấp xỉ 20%/năm. Tuy nhiên, bên cạnh người gửi tiền phấn khởi vì lãi
suất tiền gửi lên là người đi vay phải lo lắng cho việc không thể nào chịu đựng nổi lãi
suất đi vay 15-17%/năm. Các NHTM thì vẫn sử dụng chính sách huy động lãi suất cao và
cho vay lãi suất cũng cao theo, tức là vẫn có lãi lớn trong trước mắt. Thực tế đã có một số
NHTM cổ phần với nhận thức như vậy đã cố tình đẩy lãi suất huy động lên làm cho thị
trường tiền tệ có nhiều biến động mạnh.

Nhóm 4

*************

Trang 14


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

Sau khi NHNN có công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 về việc chốt trần
lãi suất huy động VNĐ ở mức 12%/năm thì ngày 24/3/2008, Hiệp hội các Ngân hàng có
họp và có sự đồng thuận về lãi suất, các NHTM mới có sự điều chỉnh lãi suất với mức
10,5%/năm (dưới 6 tháng) và 11%/năm (trên 6 tháng). Đến đầu tháng 4 năm 2008 lãi suất
huy động VNĐ kỳ hạn 1 năm ở mức 11,5-12%, lãi suất cho vay VNĐ ở mức1618%/năm, lãi suất huy động USD kỳ hạn 6 tháng đến 1 năm ở mức 6%-6,5%/năm. Đến
ngày 16/4/2008, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN bỏ trần lãi suất huy động, để thị
trường tự điều tiết vì thấy các NHTM đều huy động với lãi suất thấp hơn lãi suất trần.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy sau khi có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, một vài NHTM
cổ phần đã tranh thủ đẩy lãi suất huy động lên cao hơn mức trần 12%. Việc đẩy lãi suất
huy động lên trên 12% của một vài NHTM cổ phần là nhằm thu hút được nhiều vốn vì họ
vẫn có lãi khi cho vay với lãi suất cao 18-20%.
Trong năm 2008, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3 lần và tới

thời điêm tháng 6/2008, mức lãi suất đang là 14%, mức cao nhất ở Châu Á, từ mức 12%
trước đó.
- Tại một số ngân hàng thương mại, lãi suất huy động VND thẳng băng 14%/năm ở
tất cả các kỳ hạn.
Tại nhiều ngân hàng, lãi suất huy động VND đang thẳng băng 14%/năm cho tất cả
các kỳ hạn từ 1 tuần cho đến 60 tháng như tại Ngân hàng Nam Việt (NaViBank), Ngân
hàng Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank), hay kéo thẳng 14%/năm từ 1 - 36 tháng tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)…
- Lãi suất thị trường liên ngân hàng:
+Từ ngày 6/8/2008 đến nay,VNIBOR tăng khoảng 0,02%-0,17%/năm ở tất cả các
kỳ hạn.
+ Lãi suất trúng thầu OMO bán có thêm các kỳ hạn 182 ngày, kỳ hạn 273 ngày, kỳ
hạn 364 ngày với các mức lãi suất tương ứng là 6,0%/năm, 6,5%/năm và
7,0%/năm. Lãi suất kỳ hạn 84 ngày là 5,0%/năm tăng 0,25%/năm so với đầu
tháng 8. Lãi suất kỳ hạn 56 ngày vẫn giữ nguyên ở mức 3,5%/năm.
- Lãi suất đấu thầu tín phiếu Kho bạc tăng 0,1%/năm, hiện ở mức 4,8%/năm.
- Lãi suất đấu thầu Trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội không đổi, ở mức 7,4%/năm, cơ chế điều hành lãi suất có sự thay
đổi qua nhiều giai đoạn; từ giữa tháng 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Việt Nam áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản:
+Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi
suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Đây
là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng thời, NHNN tiếp
tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và
tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và
công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung – cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính
sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài
nước.
+ Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch
khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) "Trần" là lãi suất tái cấp vốn, "sàn" là lãi

suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% – 5%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị
trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở
đóng vai trò định hướng và thực hiện việc "bơm" tiền ra hoặc "hút" tiền về, từ đó tác

Nhóm 4

*************

Trang 15


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

động đến cung – cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay
của NHTM.
- Từ tháng 5-9/2008, NHNN điều hành chính sách tiền tệ "thắt chặt", các mức lãi
suất chủ đạo được điều chỉnh tăng, lãi suất cơ bản từ 12%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái
cấp vốn từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm lên 13%/năm, lãi
suất nghiệp vụ thị trường mở từ 11,7%/năm lên 15%/năm. Từ tháng 10/2008 đến nay,
NHNN chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ "thắt chặt" để chống lạm phát sang
"nới lỏng"
2. Diễn biến lãi suất năm 2009:
- Ngày 1/2/2009:
Lãi suất cho vay việt nam thấp nhất 6,5%/năm:
Từ ngày 1/2, lãi suất cho vay của các ngân hang giảm xuống con 8%một nam, sau
khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lãi suất cơ bản về 7% hồi trước Tết.
Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV) trở thành nhà băng đầu tiên công bố
điều chỉnh giảm lãi suất đồng nội tệ đầu tiên trong năm 2009.

Cũng theo thống kê từ NHNN. Lãi suất cho vay VND của nhóm ngân hàng TMCP
phổ biến ở mức từ 10-10,5%/nam. Lãi suất cho vay USD ở mức 6-7%/nam
Tuy nhiên, lãi suất cho vay thỏa thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống,
cho vay thong qua nghiêp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phổ biến từ 1216,5%/năm.
- Ngày 5/2/2009:
Sau khi lãi suất cơ bản được điều chỉnh giảm, các ngân hàng thương mại tiếp tục
công bố giảm lãi suất cho vay, với mức vay trung và dài hạn là 10,5%/nam, vay ưu đãi có
thể dao động từ 7-9%/nam.
Ngân hàng Liên Việt áp dụng mức lãi suất cho vay kể từ tháng 2/2009 là
10,5%/nam với cho vay thong thường bằng VND, Ngân hàng Công Thương giảm lãi suất
cho vay ngắn hạn với VND còn 8,5 %/nam, Ngân hàng SCB giảm lãi suất huy động
VND trung bình 0,5%/nam, Ngân hàng OCB cũng giảm lãi suất huy động đối với VND,
USD
- Ngày 24/5/2009:
Khi lãi suất huy động VND được các ngân hàng tăng thêm từ 0,2-0,5%/nam thì lãi
suất cho vay thỏa thuận đối với các nhu cầu phục vụ đời sống, cho vay thong qua nghiệp
vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phổ biến từ 12-16,5%/nam
Song với việc bình ổn lãi suất cho vay bằng USD, các ngân hàng này cũng thỏa
thuận giữ lãi suất huy động bằng tiền tệ này không quá 1,5%/nam
Với mức lãi suất cho vay đang được ứng dụng phổ biến hiện nay giao động từ 1,82,4%/nam(huy động) và 6-7%/nam (cho vay) thì mức lãi suất sau thỏa thuận đã giảm
xuống khá mạnh.
- Ngày 2/10/2009:
NHNN vừa ấn định lãi suất cho vay cơ bản tháng 10 ở mức 7%/nam, đồng thời giữ
nguyên một loạt lãi suất khác.
Đây là lần thứ 9 liên tiếp lãi suất cơ bản được giữ nguyên, qua đó ổn định trần lãi
suất cho vay ở mức 10,5%
- Từ ngày 23/10-29/10/2009: lãi suất cho vay VND ổn định hơn phổ biến từ 1010,5%/năm

Nhóm 4


*************

Trang 16


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

3. Diễn biến lãi suất năm 2010:
- Diễn biến của lãi suất năm 2010 đi theo kịch bản của năm 2009: Lãi suất điều
hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm kiếm chế lạm
phát; lãi suất thị trường có xu hướng giảm vào giữa năm và tăng cao trở lại những tháng
cuối năm.
NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong
suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm:

-Lãi suất thị trường vẫn ở mức cao
+ Đối với lãi suất huy động VND: Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi suất huy
động vào những tháng cuối năm 2009, lãi suất huy động VND về cơ bản đã gia tăng ở
những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn định trong quý II, quý III và gia tăng mạnh trong
hai tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho
các kỳ hạn so với cuối năm 2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3
tháng.
Trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc
tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 –
0,07% cho tất cả các kỳ hạn thì bước sang tháng đầu tiên của Quý II, các NHTM đã từng
bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để
hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%. đến tháng
7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp

hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND
để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP
ngày 7/5/2010 của Chính phủ.
Và như vậy là sau khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón
đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho
đến tháng 10.
Cho đến ngày 15/10/2010, lãi suất huy động một lần nữa được điều chỉnh xoay
quanh mức 10,8 – 11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm,
tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng sau khi
NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất huy động mới
được thiết lập ở mức 12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm giao động
xoay quay mức 17 – 18%.
Trước tình trạng đó, NHNN đã phải trực tiếp lên tiếng yêu cầu các ngân hàng giảm
mặt bằng lãi suất huy động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức, sẽ
không vượt quá 14%/năm. Mặt bằng lãi suất huy động trung bình một số thời điểm năm
2010 như sau:

Nhóm 4

*************

Trang 17


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

+Đối với lãi suất ngoại tệ: Lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ trong năm
2010 tiếp tục tăng nhẹ qua tất cả các tháng (tính đến cuối tháng 12, lãi suất huy động

USD tăng khoảng 0,82 – 1,36% cho các kỳ hạn so với đầu tháng 1/2010).

+Lãi suất cho vay tuy đã có sự điều chỉnh giảm ở một số lĩnh vực, ngành nghề,
nhưng nhìn chung vẫn ở mức cao.
Lãi suất cho vay trong năm 2010 thể hiện hai điểm nóng là trong những tháng đầu
năm (trước và sau khi thực hiện lãi suất thoả thuận theo Thông tư số 07/2010/TT-NHNN)
và hai tháng cuối năm thì lãi suất cho vay ở mức khá cao (khoảng 14,5 – 18%).
Các tháng giữa năm, bắt đầu từ tháng 5/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết
23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo NHNN có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy
động xuống khoảng 10%, lãi suất cho vay khoảng 12%, lãi suất cho vay VND có xu
hướng giảm dần (giảm khoảng 1%), một số đối tượng và ngành nghề kinh doanh có mức
giảm lớn hơn (giảm 2 - 2,5%) như: các khoản vay để sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp,
doanh nghiệp xuất khẩu, chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhỏ và vừa... Tuy nhiên,
trước những diễn biến không thuận lợi của kinh tế vĩ mô, mặt bằng lãi suất đã tăng cao
trở lại trong hai tháng cuối năm, giao động trong khoảng 13,5 – 18,5%.
Tóm lại, diễn biến của mặt bằng lãi suất huy động trong năm nổi lên một số điểm
đáng chú ý như sau:(i) Diễn biến của lãi suất đi theo đúng kịch bản của năm 2009: lãi
suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm
kiếm chế lạm phát. (ii) Lãi suất thị trường chịu áp lực tăng cao qua các tháng, đặc biệt
các tháng cuối năm.

Nhóm 4

*************

Trang 18


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam


GV: Nguyễn Thanh Hương

4. Diễn biến lãi suất năm 2011
- NHNN tiếp tục tăng các mức lãi suất chính nhằm hạn chế cung tiền. Sau hai lần
nâng lãi suất vào các ngày 8/3/2011 và ngày 1/4/2011 vừa qua, kể từ ngày 1/5/2011,
NHNN đã tiếp tục có quyết định nâng một số lãi suất chính. Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn
được tăng lên mức 14%; lãi suấ tái chiết khấu được tăng lên mức 13%.
Các loại lãi suất chính
17/2
8/3
1/4
1/5
Lãi suất cơ bản
9%
9%
9%
9%
Lãi suất tái chiết khấu
7%
12%
12%
13%
Lãi suất tái cấp vốn
11%
12%
13%
14%
Lãi suất kỳ hạn 7 ngày trên
11%
12%

12%
14%
OMO
Lãi suất qua đêm trong thanh
11%
12%
13%
13%
toán điện tử liên NH
Khi 2 loại lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu được tăng lên, ngay lập tức
NHNN cũng đồng thời đẩy lãi suất cho vay qua OMO kỳ hạn 7 ngày tăng thêm 1% lên
mức 14%.
Cùng với diễn biến của lạm phát. Mặt bằng lãi suất đã và đang ở vùng đỉnh với mức
lãi suất huy động đầu vào từ 16-20%; lãi suất cho vay sản xuất từ 18-22%
- Trong 6 tháng đầu năm 2011, thị trường tiền tệ có nhiều biến động. Bên cạnh lãi
suất huy động thì lãi suất cho vay cũng diễn biến phức tạp. Lãi suất cao nhất 6 tháng đầu
năm 2010 là 9.11%, trong khi đó cao nhất năm 2011 so với cùng kỳ là 13,34%. Lãi suất
cao năm 2011 tập trung vào khu vực ngắn hạn, gửi qua đêm, gửi tuần, gửi không kỳ hạn.
NHNN đã 4 lần nâng lãi suất tái cấp vốn từ 9 lên đến 14%/ năm, 3 lần nâng lãi suất tái
chiết khấu từ 7% lên 13%/năm trong 6 tháng đầu năm 2011, 7 lần điều chỉnh lãi suất thị
trường mở OMO từ 10% hồi đầu năm lên khoảng 15% trong 5 tháng nhằm rút bớt lượng
tiền trong lưu thông.
- Hàng loạt động thái trên và các ngân hàng cải thiện thanh khoản cùng với sự hạ
nhiệt của CPI đã giúp cho lãi suất trong đầu tháng 7 giảm xuống. Tuy nhiên theo các
chuyên gia kinh tế thì trong bối cảnh từ nay đến cuối năm lãi suất huy động khó có thể
giảm sâu.
- Và mới đây Ngân hàng Nhà nước bất ngờ tăng một số lãi suất chủ chốt. Ngân
hàng Nhà nước điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn từ 14%/năm lên 15%/năm; lãi suất
cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 14%/năm lên 16%/năm áp
dụng từ ngày 10/10/2011.

Nguồn:

/> /> />%E1%BB%81u-hanh-lai-su%E1%BA%A5t-c%E1%BB%A7a-NHNNVN
/>option=com_content&task=category§ionid=15&id=70&Itemid=95

Nhóm 4

*************

Trang 19


Đề tài: Diễn biến lãi suất ở Việt Nam

GV: Nguyễn Thanh Hương

KẾT LUẬN:
Công cụ lãi suất là một công cụ rất nhạy cảm và có tác động rất lớn đến nền kinh tế,
do đó NHTW phải thận trọng khi đưa ra quyết định liên quan đến chính sách lãi suất,
đồng thời phải đưa ra các biện pháp kịp thời, chính xác để can thiệp nhằm ổn định thị
trường. Việc thay thế cơ chế LSCB bằng lãi suất thỏa thuận thực sự là một bước tiến mới
trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Các công cụ gián tiếp của chính sách tiền
tệ chỉ điều hành thực sự có hiệu quả khi cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận được thực
hiện và phát huy hiệu quả. Tuy nhiên cơ chế điều hành lãi suất ở nước ta hiện nay vẫn
chưa hoàn hảo, còn nhiều bất cập tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy cần phải nhìn
nhận chính sách lãi suất là một trong những chính sách tiền tệ chung và phải kết hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng với các chính sách tiền tệ khác.
Với vốn kiến thức và thời gian có hạn, bài tiểu luận không tránh khỏi có những sai
sót, rất mong cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


›¯š

Nhóm 4

*************

Trang 20



×