Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

LÍ LUẬN VỀ SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.27 KB, 8 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
BÀI TIỂU LUẬN SỐ 3:
LÍ LUẬN VỀ SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
PHẦN I: LÍ LUẬN VỀ SẢN XUẤTGIÁ TRỊ THẶNG DƯ
I. PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1 Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản
Tiền tệ ra đời là kết quả lâu dài và tất yếu của quá trình sản xuất và trao đổi
hàng hoá. đồng thời tìên tệ cũng là khởi điểm của tư bản. Nhưng bản thân tiền tệ
không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định , khi
chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
Tiền được coi là tiền thông thườg thì vận đông theo công thức sau H-T-H
(hàng - tiền - hàng) nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền , rồi tiền lại
chuyển hoá thành hàng hoá. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức
T-H-T (tiền - hàng - tiền ) tức là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá rồi hàng hoá
lại chuyển hoá ngược lại thành tiền. Bất cứ biến động nào vận động theo công thức T-
H-T đều chuyển hoá thành tư bản.
Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu
nên hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở
giai đoạn hai khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến.
Còn mục đích lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là
giá trị tăng thêm. Vì vậy số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì sự vận động trở nên vô
nghĩa. Do vậy mà số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra nên công thức vận động
đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’= T + ∆T. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra
C Mac gọi là giá trị thặng dư. Vạy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư , nên sự
vận động tư bản không có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Trong lưu thông hàng hoá được thay đổi ngang giá thì chỉ có sự thay hình thái
giá
trị , còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi là
không
đổi. Theo quan điểm của C Mac thì trong xã hội tư bản không có bất kỳ một nhà tư bản
nào chỉ đóng vai trò người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố


sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn của nó thì khi mua các yếu
tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy cái được
lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn không tìm thấy nguồn gốc sinh
ra ∆T. Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị thì số tiền mà người đó sẽ được lợi khi là
người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. như vậy,
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó. Giả
định có một số người nhờ mánh khoé mà chuyên mua được rẻ bán được đắt thì như C
Mac nói điều đó chỉ có thể là giải thích được sự làm giầu của những thương nhân cá
biệt chứ không thể giải thích được sự làm giầu của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản.
Bởi vì tổng số giá trị trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi không thay
đổi mà chỉ có phần giá trị nằm trong tay mỗi bên trao đổi là thay đổi.
Như vậy, nếu người ta thay đổi những vật ngang giá thì không sinh ra giá trị
thặng dư, và nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không sinh ra giá
trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới.
Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông tức là đứng ngoài lưu
thông thì không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
“vậy thì tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên
ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông”.
2. Hàng hoá sức lao động
Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ bản thân số tiền đó.
Trong việc mua bán hàng hoá tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện giá cả
hàng hoá, nên trước sau giá trị của nó vẫn không thay đổi. Sự chuyển hoá đó xẩy ra
trong quá trình vận động của tư bản.Nhưng sự chuyển hoá đó không sảy ra ở giá trị trao
đổi hàng hoá vì trong trao đổi người ta trao đổi nhưng vật ngang giá mà chỉ có thể ở
giá trị sử dụng hàng hoá. Do đó hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá
trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao
động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực và trí lực tồn tại trong cơ thể

con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình tái sản xuất
ra một giá sử dụng. Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao
động chỉ biến thành hàng hoá trong điều kiện lịch sử nhất định. C Mác đã nhấn mạnh
sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều kiện sau:
Một là người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động
của mình và có quyền đem bán cho người khác.Vậy người có sức lao động phải có
quyền sở hữu sức lao động của mình.
Hai là người lao động phải tước hết tư liệu tư liệu sản xuất để trở thành người

sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh
sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng
hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến thành tư bản.
Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính là giá
trị và giá trị sử dụng.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất sức lao động.
Giá trị hàng hoá sức lao động là giá trị của tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi
sống người công nhân, vợ con anh ta, những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của
những người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân.
Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ: nó
phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa chúng ta có sự
khác nhau căn bản, giá trị hàng hoá hàng hoá thông thường biểu thị hao phí lao động
trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá sức lao động lại là sự hao
phí lao động
gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng để
nuôi sống người
công nhân. còn hàng hoá sức lao động ngoài yếu tố vật chất nó

còn có yếu tố tinh
thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền thống nghề
nghiệp mà hàng hoá
thông thường đó không có.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình đó là quá
trình sản xuất ra hàng hoá, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị hàng
hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Như
vậy giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh
ra giá trị, tức là giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó.
3 Bản chất giá trị thặng dư
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị,
hơn không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. để sản xuất giá trị thặng
dư.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra 1 giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi nghĩa là
một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị lớn hơn
tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà tư bản đó bỏ ra để mua,
nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa các quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C Mac viết: “với tư cách
là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản
xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao
động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao động có hai
đặc trưng:
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như
những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho hiệu quả nhất.

Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của
người công nhân.
C Mac đã lấy ví dụ về việc sản xuất của nước Anh làm đối tượng nghiên cứu
quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mac đã sử dụng phương pháp giả
định khoa học thông qua giải quyết chặt chẽ tiến hành nghiên cứu: không xét đến
ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản đem tiêu dùng
chuyển hết một lần giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế sản xuất giản
đơn. Từ giả định trên mà C Mac đưa ra một loạt các giả thiết về nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi;giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết bị máy
móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động 1 ngày là 4 đôla;
giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4 giờ người công nhân
kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi. Từ đó ta có bảng sau:
Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm
-Gá trị 10kg bong: 10$
-Tiền hao mòn máy móc: 2$
-Tiền mua sức lao động trong 1
ngày:4$
-Giá trị của bông được chuyển vào sợi:10$
-Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi:2$
-Giá trị do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ
lao động:8$
Tổng cộng:16$ Tổng cộng:20$
Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng chi phí
tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng ra đã tăng
lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư.
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền thành
tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó.
Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là

hàng hoá sức lao động. Sau đó nhàtư bản sử dụng hàng hoá đó trong sản xuất, tức là
ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của
nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất (10 kg sợi), chúng ta thấy có hai
phần :
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà
được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giá trị do lao động trìu tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình lao
động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá
trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của người công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia
thành hai phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: trong thời gian này người công
nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền
công mà nhà tư bản giả cho mình (4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư : trong thời gian lao động
thặng dư người công nhân tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao động hay tiền
lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4 đôla) và bộ phận này thuộc
về nhà tư bản ( nhà tư bản chiếm đoạt)
Từ đó mà C Mac đã đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi
điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới
ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả họ. Thực
chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó là
sức lao động được trả ngang giá.
II CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, do vậy mà
các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư.
Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư
tuyệt
đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật
còn thấp thì phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản thường dùng để tăng giá trị
thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân , trong điều kiện thời gian lao động
là tất yếu không thay đổi.
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thơi gian lao động cần thiết và
4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%.
Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết không
đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối , vì thế giá trị thặng dư
cũng tăng lên , trình độ bóc lột tăng lên đạt 200%(m’=200%).
5

×