Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.75 KB, 8 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
“LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ”
I. PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1 Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản
Tiền tệ ra đời là kết quả lâu dài và tất yếu của quá trình sản xuất và trao
đổi hàng hoá. đồng thời tìên tệ cũng là khởi điểm của tư bản. Nhưng bản thân
tiền tệ không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện
nhất định , khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
Tiền được coi là tiền thông thường thì vận động theo công thức sau H-T-
H (hàng - tiền – hàng) nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền , rồi
tiền lại chuyển hoá thành hàng hoá. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận
động theo công thức T-H-T (tiền – hàng – tiền ) tức là sự chuyển hoá của tiền
thành hàng hoá rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành tiền. Bất cứ biến
động nào vận động theo công thức T-H-T đều chuyển hoá thành tư bản.
Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn
nhu cầu nên hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động
sẽ kết thúc ở giai đoạn hai khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng
mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông tư bản không phải là giá trị sử
dụng mà là giá trị , hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy số tiền thu về bằng số
tiền ứng ra thì sự vận động trở nên vô nghĩa. Do vậy mà số tiền thu về phải
lớn hơn số tiền ứng ra nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’
trong đó T’= T + ∆T. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra C Mac gọi là giá
trị thặng dư. Vạy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư , nên sự vận động
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tư bản không có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Theo quan điểm của C Mac thì trong xã hội tư bản không có bất kỳ một
nhà tư bản nào chỉ đóng vai trò người bán sản phẩm mà lại không phải là
người mua các yếu tố sản xuất. Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị thì số
tiền mà người đó sẽ được lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà
người đó sẽ mất đi khi là người bán. như vậy, việc sinh ra ∆T không thể là kết


quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó .Như vậy, nếu người ta thay
đổi những vật ngang giá thì không sinh ra giá trị thặng dư, và nếu người ta
trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không sinh ra giá trị thặng dư.
Lưu thông không tạo ra giá trị mới. Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc
gì với lưu thông tức là đứng ngoài lưu thông thì không thể làm cho tiền của
mình lớn lên được.
2. Hàng hoá sức lao động
Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ bản thân số
tiền đó. Trong việc mua bán hàng hoá tiền chỉ là phương tiện lưu thông để
thực hiện giá cả hàng hoá, nên trước sau giá trị của nó vẫn không thay đổi. Sự
chuyển hoá đó xẩy ra trong quá trình vận động của tư bản.Nhưng sự chuyển
hoá đó không sảy ra ở giá trị trao đổi hàng hoá vì trong trao đổi người ta trao
đổi nhưng vật ngang giá mà chỉ có thể ở giá trị sử dụng hàng hoá. Do đó
hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có
đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao động mà nhà
tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực và trí lực tồn tại trong
cơ thể con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá
trình tái sản xuất ra một giá sử dụng.
Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
biến thành hàng hoá trong điều kiện lịch sử nhất định.
Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất sức lao động.
Giá trị hàng hoá sức lao động là giá trị của tư liệu sinh hoạt cần thiết .Giá
trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng
sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình đó là

quá trình sản xuất ra hàng hoá, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà
tư bản chiếm đoạt. Như vậy giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính
chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là giá trị mới lớn hơn giá trị bản
thân nó.
3 Bản chất giá trị thặng dư
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà
là giá trị, hơn không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. để sản
xuất giá trị thặng dư.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra 1 giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi
nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá
có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà
tư bản đó bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.Vậy
quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa các quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Vậy quá trình
sản xuất Tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.Quá trình sản xuất trong xí
nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà Tư bản tiêu dùng sức lao động và tư
liệu sản xuất mà nhà Tư bản đã mua nên nó có 3 đặc điểm: Một là, công nhân
làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, lao động của anh ta thuộc về nhà
tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất và được nhà Tư bản sử dụng
sao cho có hiệu quả nhất.Hai là,sản phẩm là do lao động của người công nhân
tạo ra nhưng nó không thuộc về công nhân mà thuộc về sở hữu của Tư bản.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị
sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà Tư bản chiếm không.
II CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ

thuật còn thấp thì phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản thường dùng để
tăng giá trị thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân, trong điều
kiện thời gian lao động là tất yếu không thay đổi.
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thời gian lao động
cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột của
nhà tư bản là 100%. Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời
gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một
cách tuyệt đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên
đạt 200%(m’=200%).
Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp
bóc lột này đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Mặt khác, sức lao
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân
đòi hỏi phải có thời gian cho nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo
của mình. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hạn thời gian lao
động tất yếu , nhưng không thể vượt qua giới hạn về thể chất và tinh thần của
người lao động.
Vì thời gian lao động quá dài , do vậy mà đã dẫn đến phong trào giai cấp
vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong
ngày. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp
bóc lột mới tinh vi hơn , đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
2 Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời
gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó kéo dài tương ứng thời gian lao động
thặng dư, trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu
và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư , trình độ bóc lột 100%.Giả thiết rằng
công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng giá trị sức
lao động của mình. Do đó mà tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian

lao động cần thiết và thời gian lao động giá trị thặng dư trong trường hợp đó
cũng không thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian
lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300%
(m’=300%)
Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó gia tăng
tương ứng phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm mọi
biện pháp để tăng năng suất lao động trong những nghành sản xuất tư liệu
sinh hoạt. Đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội trong những nghành,
những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân.
5

×