Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.94 KB, 15 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Từ hơn một thập kỷ nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá trở
thành một xu thế khách quan và diễn ra nhanh chóng, vừa tạo cơ hội cho các nền
kinh tế vừa tăng sức ép cạnh tranh. Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ
bản của kinh tế thị trờng, là công cụ để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo dựng nên
những doanh nghiệp thành đạt đủ sức cạnh tranh trên thị trờng trong nớc và quốc tế.
Vì thế doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh
cao. Đặc biệt đối với ngành sản xuất dệt may là ngành có tốc độ phát triển nhanh
chóng sản phẩm dệt may luôn chiếm tỷ trọng lớn và đứng vị trí thứ hai sau dầu thô
của nớc ta, có khả năng thâm nhập không chỉ những thị trờng quy định hạn ngạch mà
cả những thị trờng không có hạn ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm 30%
so với năm 2002 là một mốc son mới của ngành dệt may, trong vòng 3 năm kim
ngạch xuất khẩu tăng gần hai lần.
Do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng
nhiều lao động, là ngành hầu hết các nớc đang phát triển tham gia nên mức độ cạnh
tranh càng cao.
Từ năm 1995 đến nay, với những lợi thế so sánh về lao động, chi phí, hàng dệt may
Việt Nam đã từng bớc chiếm lĩnh đợc thị trờng quốc tế, trong đó có ba thị trờng lớn:
thị trờng EU, thị trờng Nhật Bản và thị ttrờng Mỹ. Nhng chỉ còn cha đầy chín tháng
nữa Hiệp định hàng dệt may trong khuôn khổ WTO sẽ đợc thực hiện hoàn toàn. Th-
ơng mại thế giới bớc vào giai đoạn mới - giai đoạn tự do hoá thơng mại hàng dệt
may. Khi hàng dệt may thế giới( ATC) chấm dứt, chuyển từ chế độ bảo hộ bằng hạn
ngạch sang cạnh tranh thực sự giữa các nớc xuất khẩu dệt may trong tổ chức thơng
mại thế giới thì cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng gay gắt. Hơn thế nữa sức cạnh tranh
của phần lớn sản phẩm dệt may của Việt Nam còn yếu cả về chất lợng và giá cả.
Cánh cửa duy nhất đảm bảo thành công là nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việt Nam trên thị trờng quốc tế vì đó là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp dệt


may Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện đợc mục tiêu hàng dệt may Việt Nam giành thắng lợi trong cạnh
tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh và đa ra
các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh đối với hàngdệt may Việt Nam trên thị
trờng quốc tế.
Đó cũng là lý do mà em chọn đề tài: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trờng quốc tế.
Nội dung của đề án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, đề án gồm những phần chính sau
đây:
Chơng I: Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh.
Chơng II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
trên thị trờng quốc tế.
Chơng III: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam trên thị tròng quốc tế.
Do trình độ còn hạn hẹp và thời gian hạn chế nên đề án không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định.Mong đợc sự góp ý, điều chỉnh, bổ sung của thầy Nguyễn
Đình Trung để đề án của em đợc đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn thầy.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHơng I
Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh
I - Khái niệm
1. Cạnh tranh là gì?
Ngày nay, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thừa nhận trong mọi
hoạt động kinh tế đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi tr-
ờng, động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và
tăng năng suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là yếu tố
quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Một trong những khó khăn là không có một sự đồng nhất trong quan niệm về cạnh

tranh. Lý do là thuật ngữ này đợc sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp,
các ngành, các quốc gia và cả khu vực liên quốc gia.
Khi xác định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp hay của một ngành công
nghiệp chỉ cần xét đến tiềm năng sản xuất một hàng hoá hay dịch vụ ở một mức giá
ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải có trợ cấp.
Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ sử dụng định
nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia nh sau:
Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó dới các điều kiện thị trờng tự do
và công bằng , có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng đợc các đòi hỏi của
các thị trờng quốc tế , đồng thời duy trì và mở rộng đợc thu nhập thực tế của nhân
dân nớc đó.
Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là:
Khả năng của nớc đó đạt đợc những thành quả nhanh và bền vững về mức sống
nghĩa là đạt đợc các tỉ lệ tăng trởng kinh tế kinh tế cao đợc xác định bằng sự thay đổi
của tổng sản phẩm quốc nội(GDP) trên đầu ngời theo thời gian.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các doanh nghiệp
, ngành và quốc gia nh sau :
Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc
làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Định nghĩa trên phù hợp vì nó phản ánh khả năng cạnh tranh quốc gia nằm
trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và lợi thế
cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh tế .
2. Khả năng cạnh tranh là gì ?
Thuật ngữ khả năng cạnh tranh đợc sử dụng rộng rãi trong các phơng tiện
thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các
chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh Nhng cho đến nay vẫn cha có một sự nhất
trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm khả năng cạnh tranh ở cả

cấp quốc gia lẫn cấp ngành, công ty, xí nghiệp. Lý do cơ bản là ở chỗ có nhiều cách
hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh.
Đối với một số ngời, khả năng cạnh tranh chỉ có ý nghĩa rất hẹp, đợc thể hiện
qua các chỉ số về tỷ giá thực và trong mối quan hệ thơng mại.Trong khi đó, đối với
những ngời khác, khái niệm khả năng cạnh tranh lại bao gồm khả năng sản xuất
hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh quốc tế và yêu cầu bảo
đảm mức sống cao cho các công dân trong nớc .
Trong cuốn sách nổi tiếng Lợi thế cạnh tranh của các quốc giacủa M.Porter đã
cho rằng chỉ có năng suất là chỉ số có ý nghĩa khi nói về khả năng cạnh tranh quốc
gia.
Còn Krugman(1994) thì lại cho rằng : Khái niệm về khả năng cạnh tranh chỉ phù
hợp với cấp độ công ty, đơn giản là vì nếu một công ty nào đó không đủ khả năng bù
đắp chi phí của mình, thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản.
II .Phân loại khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế gồm khái niệm cạnh tranh quốc gia, khái
niệm cạnh tranh doanh nghiệp và khái niệm cạnh tranh của hàng hoá và dịch
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vụ.Trong đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ là nhiệm vụ trọng tâm và
cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế của nớc ta.
1 . Khả năng cạnh tranh quốc gia
Đây là một khái niệm phức hợp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời
cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nớc. Khả năng
cạnh tranh đợc định nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt đợc tăng trởng bền
vững, thu hút đợc đầu t bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của ngời
dân .
2 . Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đợc đo bằng khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trờng cạnh tranh trong nớc

và quốc tế.
Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ. Vì
vậy mà có phân biệt khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với khả năng cạnh tranh
của sản phẩm, dịch vụ.
3 . Khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm đợc đo bằng thị phần của sản phẩm đó trên
thị trờng .
Giữa ba cấp độ khả năng cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với
nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có
khả năng cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh. Ngựơc
lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, môi trờng kinh doanh
của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự
báo đợc, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy nhà nớc phải trong sạch, hoạt động có
hiệu quả, có tính chuyên nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đợc thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp đợc đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua
chiến lợc kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế , khả năng cạnh
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho khả năng cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Doanh nghiệp có thể
kinh doanh một hay một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh
của sản phẩm phụ thuộc vào chính sách quốc gia, vào năng lực và hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp.
III - Các nhân tố ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của dệt may
Việt Nam
1. Nhóm nhân tố ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt
Nam
1.1. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn

Một trong các yếu tố ảnh hởng đến lợi thế cạnh tranh của ngành dệt may là
cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh hiện tại và đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
M.Porter- Giáo s trờng kinh doanh Havard nói: cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ nói
chung cũng có hình thức nh một cuộc đua ngựa để giật giải, sử dụng các chiến thuật
nh cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cờng
phục vụ khách hàng
Có thể nói khi xâm nhập vào thị trờng dệt may thế giới đặc biệt là thị trờng
EU, Nhật Bản, Mỹ bằng con đờng xuất khẩu thì đối thủ cạnh tranh khổng lồ và đáng
gờm nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là Trung Quốc. Trung Quốc
giữ vị trí hàng đầu trong ngành dệt may thế giới về sản lợng sợi bông, vải bông và
sản phẩm may mặc và đứng thứ hai về sợi hoá học.
Kể từ đầu những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nớc đứng đầu
thế giới về xuất khẩu hàng dệt và may mặc. Kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng
ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may toàn cầu. Trung bình
kim ngạch xuất khẩu hàng may chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu toàn cầu trong đó
các thị trờng truyền thống là: Nhật Bản, Hồng Kông, Mỹ, EU. Bốn thị trờng chính
này chiếm trên 80% tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc năm 2002.
Sau khi gia nhập WTO, đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng may của Trung
6

×