Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.85 KB, 16 trang )

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

Buôn ma thuột, ngày 10 tháng 10 năm 2010

Phần I: Mở đầu
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đảng ta, dân tộc ta coi trọng sự nghiệp giáo dục - đào tạo là sự nghiệp cách
mạng cực kỳ quan trọng, Nghị quyết Trung ương II khoá VIII đã khẳng định:
"Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Giáo dục làm nhiệm vụ hết sự vẻ vang, nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Những lớp người
có đức, có tài, có sức khoẻ để góp phần xây dựng nước nhà như lời Bác dạy trong
thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm 1945:
"Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam
có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các cháu...".
Vì vậy giáo dục - đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giáo dục phổ thông, trong
đó giáo dục ở bậc THCS có một vị trí hết sức quan trọng, bởi vì hết bậc tiểu học
học sinh bước sang một giai đoạn mới, có nhiều thay đổi về môi trường: Thầy, cô
mới và được nhiều thầy, cô dạy trong một buổi học. Phương pháp dạy cũng khác
hơn so với bậc tiểu học. Tâm lý của các em cũng có sự thay đổi, các em đang tập
làm người lớn, muốn bắt chước người lớn. Chính vì vậy giáo viên phải nắm được
tâm lý học sinh và có phương pháp giáo dục phù hợp để vừa truyền thụ kiến thức
cho các em, vừa có tác dụng giáo dục hình thành nhân sách cho các em qua mỗi
bài học, mỗi tiết dạy. Nghị quyết TW II khoá VIII đã nêu "giáo viên là nhân tốt
quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh". Sản phẩm của giáo
dục là con người có đủ trình độ và năng lực để chinh phục và cải tạo thiên nhiên,
bắt thiên nhiên phải phục vụ con người và cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Năng lực của người thầy có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học; Năng
lực con người trong lĩnh vực giáo dục quyết định giá trị nhân cách của lớp người


được giáo dục. Người thầy quyết định chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo
dục, lao động sáng tạo của nghề dạy học là yếu tố quan trọng nhất trong sự hình
thành chất lượng của tay nghề thầy giáo, cô giáo. Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm đến sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Mỗi giáo viên đều phải xác định được vai
trò và nhiệm vụ của mình. Nâng cao ý thức trách nhiệm, không ngừng tự học, tự
bồi dưỡng để nâng cao năng lực, để góp phần mình vào sự nghiệp giáo dục - đào
tạo, để đào tạo ra những lớp ngườicó đủ đức, đủ tài, có sức khoẻ để nối tiếp những
lớp người đi trước xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
“ Có đức mà không có tài là người vô dụng
Có tài mà không có đức thì làm việc gì cũng khó ”
Vì vậy cần phải xây dựng đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên bậc THCS nói
riêng, trước hết là những người có đạo đức, trình độ và năng lực. Đó là nhiệm vụ
hết sức quan trọng của ngành giáo dục - đào tạo và các cấp quản lý lãnh đạo. Là
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-1-


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp hàng ngày, tôi nhận thấy việc hình thành
và phát triển nhân cách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc là vấn đề thường
xuyên phải quan tâm. Hơn nữa việc giáo dục học sinh thuộc vùng kinh tế khó
khăn, vùng đồng bào dân tộc tiểu số (với gần 50% HS dân tộc trong một lớp) có ý
thức về đạo đức lối sống và phương pháp học tập là việc cựu kỳ khó và gian nan.
Tôi đã có nhiều suy nghĩ trăn trở, đặc biệt chú ý quan sát, nghiên cứu việc hình
thành và phát triển nhân sách học sinh ở trường THCS Hàm Nghi vùng đồng bào
dân tộc địa bàn xã Cưêbur.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:

1. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh vùng dân tộc thiểu số trong trường THCS Hàm Nghi
- Nghiên cứu một số giải pháp trong việc xây dựng và hình thành nhân sách cho
học sinh THCS vùng đồng bào dân tộc.
2. Phạm vi nghiên cứu:
* Giả thiết khoa học và thực tiễn:
Việc giáo dục phát triển nhân sách cho con người cần phải có thời gian thường
xuyên và liên tục. Chính vì vậy việc hình thành nhân cách cho học sinh vùng dân
tộc cần phải được tiến hành liên tục trong nhiều năm, theo kết quả khảo sát qua các
khoá học tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài này và đánh giá kết quả đạo đức học sinh
ở lớp chủ nhiệm và thời gian trực tiếp giảng dạy trên lớp trong những năm học gần
đây tại trường THCS Hàm Nghi, xã Cưêbur, thành phố Buôn Ma Thuột.
III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích:
- Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hình thành nhân cách XHCN cho học
sinh THCS vùng đồng bào dân tộc. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
trong nhà trường.
2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu thực trạng công tác thực hiện việc hình thành nhân sách cho học
sinh THCS trong phạm vi trường của mình.
- Hệ thống một số biện pháp thực hiện có hiệu quả trong việc hình thành nhân cách
cho học sinh THCS vùng đồng bào dân tộc.
3. Kế hoạch
- Nghiên cứu qua thực tiễn chỉ đạo việc hình thành nhân cách cho học sinh
THCS theo chủ điểm năm học 2009 – 2010 của ngành giáo dục “xây dựng trường
học thân thiện - học sinh tích cực”, “đổi mới quản lí và nâng cao chất lượng
GD ”, “Đến trường không chỉ để học chữ ”.
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-2-



SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp thực tiễn quá trình công tác:
Trong quá trình dạy học ở trên lớp giáo viên có thể quan sát tình hình học
sinh với thái độ nghe, nhìn qua quá trình lĩnh hội kiến thức bằng ý kiến xây dựng
bài, ghi chép bài, hành vi, cử chỉ và cả sự hứng thú say mê học tập của học sinh
trong giờ dạy. Tuy nhiên trong quá trình công tác tôi nhận thấy, vẫn còn một bộ
phận giáo viên chưa thật tâm huyết với nghề, chỉ rập khuôn theo một khuôn mẫu
nhất định mà chưa chú ý quan tâm đến các đối tượng học sinh. Chưa tìm tòi nhiều
phương dạy học mới kích thích tính tích cực chủ động của học sinh. Chưa thật sự
quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh của học sinh, có khi học sinh hỏi một vấn đề gì
đó thì giáo viên lại tỏ ra khó chịu hay trả lời cho học sinh với thái độ thiếu tôn
trọng các em, làm cho học sinh không còn dám hỏi khi có điều gì chưa rõ.
Hơn nữa việc giáo dục học sinh thuộc vùng kinh tế khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc tiểu số (với gần 50% HS dân tộc trong một lớp) có ý thức về đạo đức lối
sống và phương pháp học tập là việc cực kỳ khó và gian nan. Tôi đã có nhiều suy
nghĩ trăn trở, đặc biệt chú ý quan sát, nghiên cứu việc hình thành và phát triển
nhân sách học sinh ở vùng đồng bào dân tộc địa bàn xã Cưêbur.
2. Phương pháp thực tiễn quá trình chủ nhiệm lớp:
Trong quá trình chủ nhiệm lớp tôi nhận thấy thời gian tiếp xúc giữa thầy và
trò đây là phương pháp có thể tìm hiểu và điều tra học sinh một cách nhanh nhất.
Vì đây là những nguyện vọng và những yêu cầu của các em đối với sự phát triển
và hình thành nhân cách sống đẹp, sống có ích. Mặt khác cũng cần có mối quan hệ
phối hợp giữa chủ nhiệm với gia đình học sinh và nhà trường cùng với các ban
ngành và địa phương một cách thiết thực có hiệu quả. Chúng ta phải dành thời gian
để có những buổi nói chuyện, tìm hiểu, nắm bắt tâm tư tình cảm, nguyện vọng của

các em. Mối quan hệ của các em với bạn bè cùng trang lứa. Hơn ai hết GVCN là
người gần gũi các em, các em luôn tin tưởng và coi đó là người cha - mẹ mình cần
tâm sự. Thế nhưng trên thực tế cũng có một bộ phận chủ nhiệm chưa thực sự quan
tâm, gần gũi, không phải là điểm tựa tinh thần cho các em.
3. So sánh kết quả:
Đây là phương pháp góp một phần nho nhỏ vào thực tế chất lượng giáo dục,
xây dựng và hình thành nhân cách cho học sinh vùng dân tộc thiểu số trường
THCS Hàm Nghi.
- So sánh để thấy rõ việc xây dựng và hình thành nhân cách cho học sinh vùng dân
tộc thiểu số có ý nghĩa rất quan trọng trong nhà trường.
- So sánh để kiểm ngiệm và đúc rút kinh nghiệm thực tế việc áp dụng đề tài.

Phần II: NỘI DUNG
Chương I:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-3-


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. VỊ TRÍ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC:
- Giáo dục - đào tạo có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi giáo dục - đào tạo
làm ra sản phẩm là con người có tri thức để xây dựng và bảo vệ đất nước. Khi đất
nước mới được giải phóng Bác Hồ đã kêu gọi: "diệt giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại

xâm". Ngày nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn làm theo lời dạy của người. Xoá
đói giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, đối với giáo dục là đã phổ cập giáo dục rộng
khắp trên toàn quốc, tiến tới phấn đấu phổ cập giáo dục ở các bậc học cao hơn.
Làm được điều đó ngành Giáo dục - đào tạo giữ một vai trò quan trọng, sự nghiệp
Giáo dục - đào tạo, khoa học văn hoá nhằm phát huy nhân tố con người và vì con
người trong sự nghiệp xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, khoa học giáo
dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc, là động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu, vươn lên trình độ
tiên tiến của thế giới.
Đảng ta luôn luôn chú ý đến việc phát triển sự nghiệp Giáo dục - đào tạo,
xác định vai trò và nhiệm vụ của ngành Giáo dục - đào tạo, Nghị quyết TW II khoá
VIII đã nêu rõ: "Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của ngành giáo dục là nhiệm vụ xây
dựng những con người và thế hệ gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có
đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
- Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, thực hiện công nghiệp hoá - hiện
đại hoá, cần phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của nhân loại, bảo vệ và phát huy những tiềm năng của dân tộc và của
con người Việt Nam. Vì vậy chúng ta cần có tri thức, có ý thức cộng đồng và phát
huy tính tích cực của cá nhân, luôn làm chủ những tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp,
có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có sức khoẻ để kế thừa xây dựng CNXH. Vì vậy
ngành Giáo dục - đào tạo cần xác định được nhiệm vụ quan trọng của mình, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó để đáp ứng được thời kỳ
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC DẠY VÀ HỌC:
- Hoạt động của giáo dục là một hoạt động vô cùng rộng lớn, con người là
sản phẩm của Giáo dục - đào tạo. Nhân tố con người quyết định sự phát triển của
giáo dục, của xã hội, của đất nước. Để làm tốt công tác Giáo dục - đào tạo, quản lý
giáo dục có tính chất quyết định đến hiệu quả của giáo dục, nhưng công tác quản lý

giáo dục lại vô cùng khó khăn và phức tạp. Chính vì vậy giáo dục phải có sự phối
kết hợp giữa 3 môi trường: Gia đình - nhà trường và xã hội thì mới có thể nâng cao
được chất lượng giáo dục.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-4-


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

Thực tế cho thấy rằng nhà trường muốn làm tốt nhiệm vụ giáo dục thì phải
có đội ngũ giáo viên có đủ năng lực và trình độ, phối hợp với các ban ngành, các tổ
chức chính trị xã hội của toàn xã hội. Năng lực của đội ngũ, điều kiện cơ sở vật
chất phục vụ cho dạy và học, các trang thiết bị, đồ dùng dạy học. Chính là nhờ một
phần lớn vào năng lực, trình độ khoa học của những người giáo viên. Như triết học
Mác – Lê Nin đã khẳng định: "Vai trò to lớn của cá nhân trong tập thể". Vì vậy
xây dựng đội ngũ giáo viên trong giáo dục là cả vấn đề hết sức quan trọng trong
quá trình dạy học.
Đội ngũ giáo viên trường THCS Hàm Nghi có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ chuẩn, có năng lực sư phạm, có phẩm chất đạo đức, có tác phong mẫu mực,
thương yêu học sinh, tôn trọng học sinh và thân thiện gần gũi với học sinh, tiếp
nhận và phân tích các nguồn thông tin để có phương pháp thích ứng, phù hợp khi
xử lý tình huống. Có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao tay nghề và có uy tín
với phụ huynh học sinh trong quá trình giáo dục.
Chương II: THỰC TRẠNG CỦA TRƯỜNG THCS HÀM NGHI
I. Thuận lợi:
Về đội ngũ giáo viên trường THCS Hàm Nghi: luôn giữ tư cách tác phong
của nhà giáo, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn đồng đều, trường

lớp ngày một khang trang hơn, cơ sở vật chất dạy và học ngày càng khá đầy đủ
hơn so với những năm trước đây. Nhìn chung về lĩnh vực giáo dục ngày càng
được Cấp uỷ, chính quyền quan tâm hơn.
Đại bộ phận cán bộ giáo viên trong trường có tuổi đời trẻ, một đội ngũ có năng lực
và có tinh thần nhiệt huyết cao. Đoàn kết nội bộ tốt, tỉ lệ giáo viên trên chuẩn cao:
đạt 53 %.
- Về phía bản thân được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của BGH và tổ chuyên
môn cùng các anh chị em đồng nghiệp. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững
vàng, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, chịu khó học hỏi nâng cao tay nghề, có trách
nhiệm trong công việc. Trong công tác chủ nhiệm lớp có uy tín với phụ huynh và
học sinh. Nghiêm khắc nhưng được nhiều học sinh tin tưởng - quý mến.
II. Khó khăn:
Xã Cưêbur là một xã vùng ven của thành phố Buôn Ma Thuột, thuộc vùng
kinh tế khó khăn, trình độ dân trí không đồng đều. Toàn xã có diện tích tự nhiên
4139 ha, trong đó đất nông nghiệp 2966,5 ha, đất lâm nghiệp 612,48 ha. Dân số có
3087 hộ, với 15430 nhân khẩu, có 5 đân tộc sinh sống trên cùng 8 thôn buôn.
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-5-


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

Riêng đồng bào dân tộc tiểu số taị chỗ có 1039 hộ, với 5675 nhân khẩu, chiếm
13,6 %. Dân tộc khác 65 hộ, với 321 nhân khẩu. Nền kinh tế của một số hộ gia
đình còn khó khăn chưa đáp ứng dược nhu cầu thực tế.
- Tình hình an ninh chính trị, TTATXH trên địa bàn còn nhiều phức tạp, tiềm ẩn
những nhân tố bất ổn
- Đại bộ phận cán bộ giáo viên trong trường có đời sống kinh tế chưa ổn định, chưa

an tâm công tác.
- Số liệu về chất lượng giáo dục 2 mặt của những năm gần đây đối với lớp chủ
nhiệm cũng như bộ môn trực tiếp giảng dạy phải tự truy tìm cập nhật. Vì dự liệu
tại cơ sơ lưu trữ của chuyên môn đã bị vi rút xâm nhập biến mất
- Đối với lớp chủ nhiệm, phần lớn HS vào đầu năm đã có bản chất lì lợm, khó dạy
bảo, nhác học, theo đòi những HS hư hỏng đeo đuổi từ những năm học trước.
- Đối với phụ huynh và HS: Học sinh chưa thực sự chuyên tâm học tập, còn coi
việc học chỉ là để biết chữ mà thôi. Các bậc phụ huynh thì coi việc giáo dục con
cái là của nhà trường, cứ nghĩ học sinh đến trường, học những gì giáo viên giảng là
đủ rồi mà còn chưa chú ý đến vấn đề tự học của học sinh. Một số bộ phận học sinh
thì cha mẹ đi làm thuê, em phải làm công việc nhà, chăm sóc em nhỏ… hay làm
một công việc gì đó ở ngoài đồng mà đáng lí ra thời gian đó học sinh phải ngồi
trên lớp hoặc thảo luận với bạn bè trong những giờ học nhóm.
Hầu hết gia đình không có thời gian vì còn bận kiếm kế sinh nhai, lo toan
cuộc sống hàng ngày.Chưa quản lí chặt chẽ con cái ngoài giờ học. Một bộ phận
PHHS đồng bào dân tộc tại chỗ có truyền thống tôn trọng con cái, họ cho rằng con
cái “có học thức” và “nó lớn rồi nó tự lo liệu tự vận động, mình không can thiệp
nó đâu”. Dẫn đến các HS hư hỏng rủ bè, kéo phái, tụ tập, kích bác, chửi bới thô
tục, à dua để đánh nhau, cúp tiết, bỏ giờ, nghỉ học vô lí do.
- Tuy nhiên đối với bản thân và đồng nghiệp: Năng lực để tiếp cận, để thăm nắm
tình hình, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của học sinh, của nhân dân còn nhiều hạn
chế, do bất đồng ngôn ngữ. Vì thế chưa thể hiểu hết và hòa nhập được với văn hóa
truyền thống dân tộc ở địa phương. Cho nên, còn gặp khó khăn trong phát triển
công tác giáo dục. Mặt khác, bản thân và các giáo viên của trường đều cư trú xa
địa bàn công tác từ 5km đến 10km, nên điều kiện đi lại gặp nhiều khó khăn.
- Công tác giáo dục: nhìn chung các cấp học, việc duy trì sĩ số đang là một vấn đề
trăn trở. Trong các giờ học hầu hết đều có học sinh cúp tiết trốn bài, hay ngồi trong
lớp nhưng chỉ là sự bắt buộc cuả gia đình hay chỉ vì sợ giáo viên bộ môn đó, chứ
không nghĩ là học để làm gì cho tương lai.
Chương III : BIỆN CHỨNG TÂM LÍ LỨA TUỔI TÂM LÍ LỨA TUỔI

VÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN.
I.

BIỆN CHỨNG TÂM LÍ LỨA TUỔI TÂM LÍ LỨA TUỔI:

GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-6-


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

Trường THCS Hàm Nghi, là một trường vùng ven của thành phố Buôn Ma
Thuột, thuộc vùng kinh tế khó khăn, đa số các em là học sinh dân tộc ít người có
trình độ tiếp thu chậm, do vậy bắt đầu từ 11, 12 tuổi vào học lớp 6, lúc này các em
đang ở lứa tuổi dậy thì, đang tập làm người lớn và muốn được làm người lớn. Mặt
khác, các em gặp nhiều thay đổi về môi trường, chuyển sang cấp học mới, tiếp xúc
với nhiều thầy cô giáo trong một buổi học và tâm lý của các em cũng có sự phát
triển khác biệt ở cấp Tiểu học. Đến cuối bậc THCS phần lớn các em đã ở lứa tuổi
15 – 16, thậm chí có em 17 tuổi. Ở lứa tuổi này các em có lòng tự trọng cao và đặc
biệt ở lứa tuổi 11- 17 là thời kỳ sinh lý thay đổi vì vậy phần nào có ảnh hưởng đến
sức khoẻ, tính cách của các em. Giáo viên phải nắm vững tâm lý học sinh và cá
tính từng em để hướng các em có được phong cách sống đẹp, tránh những hiện
tượng tiêu cực xảy ra vì nếu giáo dục không khéo ở lứa tuổi này các em rất dễ tự
ái, dẫn đến tự ti và tiêu cực, thậm chí có em sẽ mắc bệnh trầm cảm, hiểu lầm
những hành động cử chỉ tốt đẹp của thầy – cô giáo và cả những người lớn xung
quanh em. Đây là giai đoạn các em có nhiều thay đổi về tâm lý.
Trong quá trình phát triển tâm lý con người, hòa quyện với nền kinh tế - xã
hội phát triển, điều kiện sinh hoạt của các em nâng cao cả vật chất lẫn tinh thần,

các em rất nhạy cảm với những thay đổi. Do vậy các tổ chức xã hội nói chung và
nhà trường nói riêng, đặc biệt là các tổ chức như đoàn - đội và trực tiếp là các thầy
cô giáo phải có phương pháp giáo dục phù hợp để các em có được những hành
động đúng đắn trong các hoạt động.
Nếu các thầy, cô giáo có phương pháp giáo dục phù hợp thì sẽ khơi dậy ở
các em được những phong cách sống đẹp – ý thức trách nhiệm của bản thân và
hình thành một nhân cách mạnh mẽ, một nhân cách tốt hướng tới sự phát triển
những nét đẹp trong từng cá nhân, tạo ra một lớp người, một thế hệ đáp ứng được
nhu cầu phát triển của xã hội.
Nhưng dù ở lứa tuổi nào, cấp học nào các thầy, cô giáo cũng đã và đang có
phương pháp giáo dục phù hợp để phát triển nhân cách cho các em. Nhân cách của
cá nhân không sinh ra cùng một lúc với sự ra đời của cá nhân, mà nó được hình
thành và phát triển dần dần từ nhỏ đến lớn và cần được bồi đắp trong suốt cả cuộc
đời.
" Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Vậy là nhân cách đã từng bước phát triển cùng với bản thân mỗi cá thể. Nó
là kết quả của cả một quá trình giáo dục, không chỉ trong nhà trường mà còn là của
gia đình và xã hội.
Theo quan niệm phổ biến hiện nay các thành tố của nhân cách xây dựng nên từ
tổng hợp các tính chất, tinh thần, các quá trình nhận thức, các thái độ xúc cảm, tình
cảm và hành động.
Ta có thể so sánh nhiều học sinh đồng bào ngồi trong lớp chăm chú nghe giảng
và ghi chép bài, khi thầy giáo đặt câu hỏi thì cố gắng suy nghĩ trả lời nhằm vươn
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-7-


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO

HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

tới những gì thuộc về xu hướng tiến bộ của xã hội. Ví dụ: như em Kso H’ Yên, Y
Khoa Êban, Hồ Thị Nga, Phương Thảo Niê, Đinh Thị Thu Hoài .v.v...của các khóa
2007- 2008 luôn đạt học sinh khá- giỏi từ lớp 6 đến lớp 9. Còn một bên là một số
học sinh chậm tiến cho thấy rõ trong suốt quá trình luôn biểu hiện sự suy thoái
nhân cách, lao vào con đường sa ngã, chỉ chuyên nghịch ngợm, cúp tiết trốn bài,
không chịu tập trung nghe giảng, khi thầy giáo gọi đến hỏi thì im lặng, có em còn
có thái độ xốc xược với giáo viên. Ví dụ: như YzôNaThand (lớp 8B) hay Ywell, Y
Nôl (lớp 8A) hay YThông (lớp 6D) hay ...Nghĩa (lớp 8C)... của năm học 2009 –
2010.
II. ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN:
Sự phát triển của con người không chỉ là quá trình lựa chọn, cải tiến cái tối ưu
trong hoạt động của con người nói chung, mà trước hết phải có một quan niệm
đúng đắn về vai trò của con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Đánh giá đúng
vị trí của con người, nhất là giá trị tinh thần, giá trị đạo đức. Khái niệm phát triển
con người giữ vai trò then chốt trong việc hoạch định "chiến lược Giáo dục – đào
tạo con người", hoạch định của đường lối đổi mới là đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Đó là quan điểm chính để phát triển nhanh và bền vững đất nước. Nguồn nhân
lực con người giữ một vị trí đặc biệt trong cơ cấu các yếu tố phát triển kinh tế.
Nguồn nhân lực rất dồi dào, phải tập trung vào chuyển dịch cơ cấu, phân công lao
động, giải quyết việc làm, phân bổ nguồn nhân lực, đào tạo lại, đào tạo mới để đáp
ứng được với nền khoa học công nghệ mới. Trình độ văn hoá, tình độ dân trí có
ảnh hưởng tới trình độ nghề nghiệp và năng suất lao động.
Phát triển con người là điều kiện cơ bản để phát triển tài năng của từng từng tổ
chức và cộng đồng. Phát triển Giáo dục – đào tạo, giáo dục từng con người nhằm
xây dựng nền móng phát triển nguồn lực lâu dài, đặt con người vào trọng tâm phát
triển, xem con người là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội. Lấy văn
hoá dân tộc là động lực thúc đẩy sự phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn bó với đời

sống nhân dân. Con người là điều kiện cơ bản để đi vào công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Chương IV : MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trên thực tế, trong một lớp, một trường bao giờ cũng có rất nhiều đối tượng
HS, có em vừa ngoan vừa học giỏi, có em thông minh nhưng nghịch ngợm, lại có
những em học chưa tốt, lại thiếu ý thức... Thầy, cô nào chẳng thích dạy trò ngoan,
chăm chỉ. Nhưng, nếu trong lớp còn những HS chậm tiến thì cũng không nên vì bất
kỳ lý do gì mà ghét bỏ hoặc đối xử không công bằng với các em
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-8-


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

Mọi yếu tố đều có những thế mạnh và hạn chế của nó, nếu các yếu tố của 3 môi
trường: nhà trường, gia đình, xã hội đều tác động tới học sinh theo cùng một
hướng đúng đắn và thống nhất thì việc hình thành và phát triển nhân cách cho các
em sẽ có hiệu quả cao hơn. Nếu các yếu tố đó tác động tới học sinh không đồng
bộ, trái ngược nhau thì sẽ vô hiệu hoá lẫn nhau, ảnh hưởng xấu tới việc hình thành
và phát triển nhân cách cho các em. Đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ giữa các GV
với nhau trong quá trình đào tạo con người xã hội chủ nghĩa một cách nhịp nhàng
đồng nhất.
1. Nhà trường và các đoàn thể:
Hiện nay trường THCS Hàm Nghi luôn dựa vào 3 môi trường: Gia đình, nhà
trường và xã hội để hình thành nhân cách cho học sinh. Tuy nhiên yếu tố chủ lực
vẫn là nhà trường và được quan tâm đúng mức. Nhà trường cũng đã kết hợp với
gia đình thông qua số điện thoại liên lạc, giáo viên chủ nhiệm và các buổi họp phụ
huynh để thường xuyên giữa gia đình và nhà trường có sự trao đổi, kết hợp giáo

dục học sinh kịp thời. Tuy nhiên : Mức độ, tỷ lệ quan tâm tham gia trao đổi, nắm
bắt và phản ánh vẫn chưa cao.
Trong các hoạt động của nhà trường, hướng các em vào hoạt động trong các
tổ chức có nề nếp như lớp, chi đội, liên đội, chi đoàn. Thường xuyên hướng các em
vào hoạt động theo các chủ điểm của các phong trào thi đua, có sơ kết, tổng kết và
khen - chê đúng mức, kịp thời. Động viên, khích lệ các em phát huy tính tích cực,
sáng tạo, giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, chuyên cần học tập, tham gia các phong
trào văn hóa - văn nghệ thể dục thể thao. Mỗi năm nhà trường đều kết hợp với hội
đồng Đội, hội khuyến học thành phố tặng học bổng Y Jút, tặng thưởng xe đạp, tặng
sách-vở, bàn học cho các em có hoàn cảnh khó khăn nhưng có tinh thần vươn lên
trong học tập đạt thành tích cao. Hay tặng sổ tiết kiệm cho các em trong chương
trình thắp sáng ước mơ ( 16 em với số tiền 8 000 000 đồng ), cũng phần nào động
viên các em duy trì và phấn đấu vươn lên trong học tập, là những tấm gương sáng
cho một số học sinh chậm tiến noi theo. Nhằm hình thành nhân cách cho các em,
tạo điều kiện cho nhà trường đạt được mục tiêu trong việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục toàn diện.
2. Giáo viên chủ nhiệm lớp:
- Vào đầu năm học giáo viên chủ nhiệm đã dành 2 – 3 tuần để hoàn thành sơ
yếu lý lịch học sinh để nắm vững điều kiện, hoàn cảnh từng em. Tìm hiểu kỹ tâm
lý các em để có phương pháp giáo dục, giúp đỡ các em.
- Cũng ngay từ đầu năm, giáo viên phải lập danh sách học sinh có đạo đức chưa
ngoan và học lực còn yếu, kém ở lớp mình trong năm học trước để nắm rõ các đối
tượng học sinh, chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này, tìm những lời
động viên, kích thích những học sinh đó như thường xuyên khen ngợi khi các em
làm việc chung cho lớp, hay trong tuần học đã có ý thức xây dựng bài ở một số
môn học.
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

-9-



SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

- Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh, thường xuyên theo
dõi các em về cả học lực và hạnh kiểm để kịp thời giáo dục, uốn nắn học sinh của
mình.
Ví dụ 1: Học sinh Y ZôNathand, lớp 8B thích đi học, nhưng đến trường thì
em lại chưa hiểu và hình dung cho việc học của mình nhằm mục đích gì? Chỉ biết
đến trường là thoát khỏi lao động mệt nhọc và đến trường để được đi chơi ngao du
cùng bạn bè. Còn gia đình thì bố mẹ lo việc nương rẫy, bà ngoại và dì bất lực trước
sự giáo dục con cháu nên đành nhờ đến nhà trường. Cho rằng em đến trường là bớt
đi ánh mắt nhìn “trợn” lì lợm và đầy sợ hại từ em. Thực tế họ không hiểu được
mục đích chân lí để giáo dục con cái, nên đến lớp em không chú ý nghe giảng mà
trong các giờ học em tỏ ra thiếu tôn trọng giáo viên, em thường xuyên cúp tiết bỏ
giờ. Kết quả học kì 1 vừa qua học lực em xếp loại yếu.
Ví dụ 2: Học sinh Nguyễn Văn Hiệp, lớp 8B(2009 - 2010), vì hoàn cảnh gia
đình mẹ đã mất do tai nạn ô tô cách đây 2 năm khi em bước vào lớp 6, bố đi làm
rẫy cả tháng mới về, em ở nhà với bà nội, ít được sự gần gũi chăm sóc của gia
đình, chỉ nghe bố điện thoại về nhắc nhở và có lúc quát mắng qua điện thoại ép em
phải đi học nhưng không hiểu em cần điều gì ở bố nên đến lớp không chú ý nghe
giảng mà chỉ lo nói chuyện, làm mất trật tự trong giờ học, kết quả là học kì 1 học
lực em xếp loại yếu, Hạnh kiểm khá.
Ví dụ 3: Học sinh Cao Thị Ánh Linh lớp 8E(2006-2007), không thích học
nhưng vì bị gia đình ép buộc đi học nên đến lớp không chú ý nghe giảng mà trong
các giờ học em tỏ ra thiếu tôn trọng giáo viên, kết quả học kì 1 của em: học lực
xếp loại yếu - hạnh kiểm Tb. Nhưng qua giáo dục và hình thành nhân cách con
người XHCN em đã hiểu rõ mục đích học tập và nhân cách sống đẹp, sống có ích.
Nên học kì 2 và cả năm em được xếp Học lực trung bình, Hạnh kiểm tốt. Đó là cả
một quá trình giáo dục và hình thành nhân cách cho học sinh của bản thân cùng với

sự nổ lực và rèn luyện của học sinh.
Hay em Nguyễn Thị Hồng Nhung lớp 8E(2006 – 2007), vì hoàn cảnh gia
đình bố mẹ đi làm rẫy ở Đắk Ghềnh cả tháng mới về, em ở nhà với hai em nhỏ, ít
được sự gần gũi chăm sóc của gia đình. Mặt khác bố hay đánh mẹ và các con, có
lúc quát mắng dọa nạt sẽ không cho đi học vì không đủ tiền. Nhưng không hiểu em
cần điều gì ở bố mẹ nên đến lớp không chú ý nghe giảng mà chỉ lo nói chuyện,
làm mất trật tự trong giờ học, hết giờ em theo bạn cùng trang lứa ra ngoài phố xá
chơi điện tử hay đi đâu đó để chơi bời chẳng muốn về nhà. Kết quả là học kì 1 học
lực của em xếp loại yếu, hạnh kiểm Tb. Nhưng qua giáo dục, học kì 2 và cả năm
em được xếp Học lực trung bình, Hạnh kiểm tốt.
*Hướng giải quyết:
- Trước tiên, Giáo viên chủ nhiệm trao đổi với chính học sinh đó để tìm hiểu
nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của học sinh, đồng thời hỏi bạn bè của học sinh
đó về hoàn cảnh gia đình và sinh hoạt của học sinh. Từ đó giáo viên tìm hiểu được
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

- 10 -


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

nguyên nhân và thường xuyên gần gủi, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập.
Mặt khác trong các giờ sinh hoạt NGLL, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc
giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho
học sinh nhận thấy tầm quan trọng của việc học. Bên cạnh đó, giáo viên trao đổi
với gia đình, phối hợp với gia đình giáo dục ý thức của học sinh, khuyên nhủ gia
đình không nên quá gò ép hay dùng những áp lực nặng nề tâm lí học sinh mà từ từ
hướng dẫn các em học tập. Thường xuyên gần gủi giúp đỡ con em để các em thấy
được sự quan tâm của gia đình mà phấn đấu. Đồng thời bớt chút thời gian quan sát

việc học và mối quan hệ bạn bè của các em để có biện pháp GD kịp thời.
GVCN phối hợp với GVBM không nên vì những vi phạm thiếu chín chắn
của các em mà thiếu sự quan tâm hay xa lánh, coi thường hoặc gây thêm áp lực về
tâm lí hay áp lực về bộ môn. Mà chúng ta cùng nhau gần gũi chia sẻ, cảm thông,
khuyên nhủ các em dần dần, tạo thêm niềm tin và nghị lực cho các em phấn đấu
bằng cách như: đối với Y Nôl (lớp 8A) tôi đã áp dụng là: sau giờ học tôi gọi em ra
ngoài gặp riêng và dùng lời dịu ngọt nói với em về vai trò của việc học và tương
lai xa của các em trong quá trình hội nhập của đất nước ta. Bên cạnh đó tôi còn
đóng vai một người mẹ, người chị nói với em bằng sự chân thành gây niềm tin cho
em. Còn trong giờ học tôi thường gọi em đứng dậy đọc bài, gợi ý để em trả lời
câu hỏi. Sau đó dùng lời khen kích thích sự hứng thú học tập, cho điểm động viên
trước tập thể. Tôi thấy, giờ học của tôi em học nghiêm túc, ghi chép bài đầy đủ và
hay xây dựng bài.
Tuy nhiên, để giáo dục được học sinh có cá tính đặc biệt đó thành công
không phải là đơn giản mà chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm về cá tính từng em
từng đối tượng, không nhất thiết phải tuân theo một quy trình máy móc nào cả.
Biết được em đó thích điều gì, muốn giáo viên và các bậc cha mẹ làm gì để em gửi
niềm tin và vâng lời. Cũng cần hiểu rằng có những em chúng ta dùng đủ mọi biện
pháp giáo dục kể cả pháp luật can thiệp nhưng không có sự chuyển biến tích cực
đó là một phần ảnh hưởng nền giáo dục của gia đình hay do bản chất tiềm ẩn ăn
sâu vào tiềm thức cá thể.
Cách giải quyết hiệu quả là giúp các em và gia đình tháo gỡ khó khăn về
tinh thần cũng như vật chất.
3. Giáo viên bộ môn:
Cần có sự kết hợp chặt chẽ, đồng bộ song song với GVCN trong quá trình
giáo dục, xây dựng và hình thành nhân cách cho HS.
Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng đa số các học sinh yếu kém là
những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà
thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường,
nhiều khi học sinh còn không biết ngày đó học môn gì, vào lớp thì không chép bài

vì lí do là soạn sai thời khóa biểu, không đem vở học của môn đó.
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

- 11 -


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

Còn một bộ phận không ít học sinh thì không xác định được mục đích của việc
học, học để có điều kiện đi chơi, đến lớp thì lo chọc phá bạn bè, nói chuyện riêng
gọi đến thì không biết trả lời, đang giờ học thì xin ra ngoài để chơi.
Chẳng hạn: trong lớp có HS thiếu tôn trọng thầy giáo, coi thường bộ môn
mà mình trực tiếp giảng dạy. Ta có thể lấy một ví dụ ở ngoài thực tế lồng ghép vào
giờ học để kể cho cả lớp nghe. Nhằm giúp HS đó và cả lớp hiểu rõ vai trò của thầy
giáo và vị trí của HS. Không nhất thiết phải bực dọc, quát mắng hay đuổi em đó ra
khỏi lớp. Cũng có thể nhẹ nhàng uốn nắn chỉ ra cái tầm quan trọng trong việc học
văn hóa và ý thức đạo đức cho các em hay ngoài giờ gần gũi HS để trao đổi, lắng
nghe các em nói vì sao lại không thích học giờ học của mình… Từ đó GV mới
hướng cho các em cách nhìn đúng sự việc và thực tế.
Bản thân tôi, đã trải nghiệm với nhiều năm công tác và đã gặp những trường
hợp như trên. Ví dụ: Trong giờ học ở lớp 9D năm học 2006 – 2007, em Y Săm
Ênuôl bình thường hay phát biểu bài rất thích thú khi có giờ Địa lí của tôi. Thế
nhưng một hôm em đã mang rượu vào trong lớp ngồi uống và không tập trung bài,
không ghi chép. Bản thân nóng tính, lúc đầu tôi đã quát to tiếng, dùng biện pháp
nghiêm khắc với em và em đã tỏ rõ sự hỗn láo xấc xược với tôi.
Sau dần tôi hạ giọng và vỗ về nói với em những lẽ phải, chỉ ra cho em việc
uống rượu trong giờ học và cả việc không chuyên tâm học tập là những tác hại
khôn lường. Cuối giờ tôi gần gũi trao đổi trò chuyện với em như người thân và em
đã cởi mở những ảnh hưởng đến việc học của em là “người yêu bỏ em theo thằng

khác sắp cưới rồi cô ạ! làm em đến lớp không muốn học không chỉ giờ của cô
đâu mà giờ nào em cũng thấy chán, chẳng muốn học”. Tôi đã động viên, tạo cơ
hội học tập cho em trong giờ học như hỏi bài với câu hỏi dễ, cho điểm kích lệ em
trước tập thể và em đã vượt qua những ưu buồn riêng tư chú tâm trong giờ học.
Từ đó tôi đã hiểu rõ hơn về cách giáo dục HS đồng bào là cần sự chân thật
cởi mở, tạo lập niềm tin cho các em, các em cần sự chất phát thân thiện - đỗ lượng
bao dung - vị tha của người thầy hơn ai hết.
- Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ môn mình, tạo cho học
sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn
lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học
sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn.
- Phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, đừng để cho học sinh sợ
giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình. Giáo viên không
nên dùng biện pháp đuổi học sinh ra ngoài không cho học sinh học tiết học đó khi
học sinh không ngoan, không chép bài hay về nhà quên không làm bài tập hoặc
không làm trước lúc đến lớp vì một lí do nào đó. Bởi làm như thế học sinh sẽ
không được học tiết đó thế là học sinh lại có một buổi học không thu hoạch được
gì. Chúng ta phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở học sinh, giáo dục ý thức học tập
cho các em bằng cả lương tâm và trách nhiệm của người giáo viên nhân dân chứ
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

- 12 -


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

đừng đuổi học sinh ra ngoài trong giờ học, hay cho các em xin ra ngoài cho rảnh
ánh mắt.
Đặc biệt đối với học sinh chậm tiến, các thầy, cô giáo phải tìm biện pháp

giáo dục khéo léo, mềm dẻo, bền bỉ, kiên trì và đôi khi cần nghiêm khắc, kiên
quyết nhằm hạn chế đến mức thấp nhất để không có học sinh có ý thức tổ chức kỷ
luật, phẩm chất đạo đức kém.
Chính vì vậy, chúng ta cần phải đem hết nhiệt tình giảng dạy cho con em
vùng đồng bào dân tộc theo phương châm “gọn, đủ, đúng, rõ’’, hệ thống câu hỏi
sao cho vừa đủ, ngắn gọn, dễ hiểu. Khuyến khích học sinh giơ tay phát biểu nhiều
lần sẽ ghi điểm miệng, không nhất thiết phải đúng hết các câu hỏi. Không ngần
ngại những lời khen ngợi hay các điểm số đối với các em khi chăm chú nghe giảng
và xây dựng bài, như “ em có nhiều tiến bộ trong giờ học, thầy (cô) ghi em 8, 9
điểm (10 điểm)...hôm sau cần phát huy hơn nữa’’.v. v.
Cho thấy, một số học sinh cá biệt bằng lòng nhân ái, khoan dung và tận tụy đã có
chuyển biến tích cực.
4. Gia đình:
- Vào những buổi họp phụ huynh đầu năm, giữa mỗi kì, gia đình cũng đã
phối hợp cùng GVCN và nhà trường bằng các cam kết hai chiều. Một bộ phận phụ
huynh cũng đã thường xuyên liên lạc bằng điện thoại trực tiếp với GVCN hay nhà
trường. Nhằm mục đích giáo dục, định hướng đúng đắn cho các em trong học tập,
trong giao tiếp, ứng xử có văn hóa. Tuy nhiên, sự đóng góp phối hợp thông tin hai
chiều vẫn đang ở mức độ hạn chế, chưa đạt kết quả cao.
- Gia đình hãy quan tâm đến việc học hành của con em một cách đúng mức: rằng
quan tâm, gần gũi, động viên, nhắc nhở con em học bài, thường xuyên kiểm tra vở
ghi bài của các em ở trên lớp, động viên rèn chữ viết. Đặc biệt là tạo cho con em
một góc học tập thật yên tĩnh thoáng mát và đầy đủ ánh sáng. Cũng nên dành thời
gian trò chuyện, tìm hiểu, nắm bắt tâm tư tình cảm, nguyện vọng của các em. Tạo
không khí thoải mái cho các em nói với cha mẹ thật cởi mở, chân thành. Bởi cha
mẹ là người hiểu con cái mình muốn gì hơn hết, là chỗ dựa tinh thần vững chắc
nhất trong cuộc đời (trừ những trường hợp ngoại lệ không mong muốn).
5. Chính quyền:
Chính quyền địa phương: trong việc xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng một
môi trường xã hội lành mạnh để các em không bị ảnh hưởng bởi những hiện tượng

tiêu cực của xã hội. Tham gia cùng nhà trường bảo vệ an ninh khu vực trường học,
kịp thời thông báo về gia đình học sinh những vi phạm cũng như dùng biện pháp
giáo dục HS có biểu hiện quá đà sa ngã.
* Tóm lại: Công tác giáo dục của chúng ta nhằm xây dựng toàn diện nhân
cách cho con người Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới cần có những con người lao
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

- 13 -


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

động sáng tạo, có trình độ, năng lực, có tay nghề giỏi, có tâm hồn trong sáng và
khả năng giao tiếp là rất quan trọng vì tất cả các mối quan hệ xã hội, quan hệ
người, quan hệ với các thiết bị công cụ lao động sản xuất đều gắn bó bằng cách
này hay cách khác thông qua mối quan hệ giữa người với người, trong các tổ chức
có các mối quan hệ giao tiếp sẽ làm cho con người phát triển về nhân cách.
Cũng như trong quá trình sống - trong gia đình, đến trường học, sinh hoạt trong
các tổ chức như: Trường, lớp, đoàn đội. Các tổ chức này kết hợp cùng với gia đình,
xã hội cũng chưa chắc đã là môi trường tốt. Vấn đề là ở chỗ cả gia đình và các tổ
chức trong xã hội đều phải hướng các em vào những hoạt động phù hợp với tâm lý
lứa tuổi, thu hút các em vào những hoạt động bổ ích để vun đắp cho những tâm
hồn nhân cách tốt. Kết quả của chúng ta mong muốn không có những học sinh
chậm tiến trong một môi trường giáo dục tốt.
Như vậy cả 3 môi trường: Gia đình, nhà trường và xã hội có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau để giáo dục học sinh trong quá trình học ở trường THCS từ lớp 6
đến lớp 9. Ban giám hiệu nhà trường và từng thầy, cô giáo phải thường xuyên có
kế hoạch chăm lo đến từng học sinh, về thời gian và không gian để không có
khoảng cách trong nhiệm vụ giáo dục của mình. Đặc biệt trong việc hình thành

nhân cách xã hội chủ nghĩa cho học sinh vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn kinh tế
khó khăn.
- Giáo dục lòng tự hào dân tộc, yêu quê hương, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam, thầy và trò nhà trường THCS Hàm Nghi thấm nhuần đạo lý
uống nước nhớ nguồn, phát huy truyền thống “Vượt khó để dạy tốt, học tốt”, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực trạng chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh vùng dân tộc thiểu
số khi chưa áp dụng:
* Lớp chủ nhệm:
Năm học

Tốt
(HS)

Tỉ lệ
(%)

Khá
(HS)

Tỉ lệ
(%)

Tb
(HS

Tỉ lệ
(%)

2006 - 2007


22

59.5

12

32,4

3

8,1

2007 - 2008

19

51,4

17

45,9

1

2,7

2009 - 2010

20


46,5

20

46,5

3

7,0

Thực trạng chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh vùng dân tộc thiểu
số khi áp dụng:
* Lớp chủ nhệm:
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

- 14 -


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

Năm học

Tốt
(HS)

Tỉ lệ
(%)


Khá
(HS)

Tỉ lệ
(%)

2006-2007

32

86,5

5

13,5

2007-2008

30

81,1

7

18,9

2009-2010

25


58,1

18

41,9

Phần III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN:
- Ở lứa tuổi 14-16, thậm chí có em 17 tuổi các em hay bị tổn thương do nhân
cách đang hình thành và sức chịu đựng chưa tốt bằng người đã trưởng thành. Sai
lầm lớn nhất ở một số phụ huynh và giáo viên là chì chiết, thiếu quan tâm, gần gũi
các em. Đó chính là sự khủng bố tinh thần với các em và hậu quả là những phản
ứng tiêu cực không kiểm soát được. Chính vì vậy, phụ huynh và các thầy, cô giáo
phải hiểu được tâm sinh lý của HS ở độ tuổi này để có biện pháp giáo dục phù hợp,
đúng phương pháp sư phạm.
Giáo viên, phụ huynh và toàn xã hội cũng cần phải thay đổi cách nghĩ, cách
nhìn bấy lâu nay về HS có cá tính, rằng đó chỉ là những em nghịch ngợm, thiếu ý
thức, luôn mang đến sự phiền nhiễu... Nhưng thực tế những hành vi của các em
đều bắt nguồn từ chúng ta. Vì vậy, chúng ta phải có phương pháp cảm hoá được
các em đều bằng cách thủ thỉ, tâm tình, lắng nghe các em nói bằng sự nhân hậu của
trái tim mình, bởi hơn ai hết, chúng ta là người hiểu rõ cái đích cuối cùng trong
giáo dục nhân cách HS không phải là để các em nhận ra tội lỗi của mình mà là
cách thức, phương pháp để các em có ý thức, trách nhiệm với những hành vi - vi
phạm mà mình đã gây ra.
Vì vậy, tôi viết đề tài này cũng không ngoài mục đích nêu lại một số kinh
nghiệm nho nhỏ về giáo dục và hình thành nhân cách cho HS ( đặc biệt ở vùng dân
tộc thiểu số) mà bản thân tôi đã trải nghiệm qua thực tế qua nhiều năm chủ nhiệm
lớp và công tác giảng dạy để đồng nghiệp tham khảo. Hy vọng rằng với chính lòng
nhiệt huyết yêu nghề của tôi cũng như của đội ngũ giáo viên trong nhà trường sẽ
đem lại nhiều cách giáo dục mới, hiệu quả hơn, để phục vụ tốt hơn nữa cho sự

nghiệp giáo dục mà chúng ta đã chọn.
Với tinh thần học hỏi kinh nghiệm, tôi xin đón nhận những ý kiến đóng góp
của các anh chị em đồng nghiệp nhằm góp phần giáo dục và hình thành nhân cách
cho HS vùng dân tộc thiểu số trường THCS hàm nghi xã Cưêbur theo hướng tích
cực hơn.
GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

- 15 -


SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO
HS VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỜNG THCS HÀM NGHI

KIẾN NGHỊ
- Muốn giáo dục và hình thành nhân cách cho HS vùng dân tộc thiểu số
Cưêbur thành công, có hiệu quả thì nhà trường phải huy động đồng bộ có hiệu quả
sự tham gia của học sinh, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương,
các đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội và nhân dân địa phương nơi trường đóng
cùng góp sức xây dựng nhà trường.
- Nhà trường cần liên hệ và kết hợp tốt với các giáo xứ, cha xứ nhà thờ,
người chủ trì đối với những em theo đạo giáo. Đối với những em không theo đạo
thì nên kết hợp chặt chẽ hơn nữa với chính quyền địa phương, liên gia, tổ - khối và
gia đình.
- Nhà trường cũng nên đuổi học, cảnh cáo một vài HS thoái quá mà cả ba
môi trường GD đã kết hợp và cả sự tham gia của pháp luật nhưng HS đó vẫn
không có sự chuyển biến tích cực mà vẫn cố tình vi phạm nhằm làm gương cho
những hs khác. ( theo thông tư 08 về khen thưởng kỷ luật HS )
- Đối với địa phương cũng nên tổ chức chương trình khuyến học, khuyến tài
phát thưởng cho học sinh, sinh viên có thành tích cao trong học tập mỗi năm 1
hoặc 2 lần vào ngày quốc tế thiếu nhi và tết trung thu. Nhằm đề cao vai trò học tập

và rèn luyện của con em trong địa phương. Động viên, khích lệ, tạo cơ sở tiền đề
cho việc nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo.
- Đối với gia đình cũng cần bớt chút thời gian lo toan cuộc sống để chăm lo
việc học của con em hơn. Nên dành cho con em một khoảng tinh thần thật thoải
mái, hướng cho con em tới cái đích cuối cùng là cơ hội nghề nghiệp.
Tôi xin cảm ơn BGH nhà trường cùng các anh chị em đồng nghiệp đã
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu viết đề tài này.
Người viết đề tài SKKN:

Lương Thị Nguyệt

GV thực hiện: Lương Thị Nguyệt.

- 16 -



×