Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN, Hệ thống câu hỏi (Tg> Nguyễn Thị Hà)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.55 KB, 13 trang )

ĐỀ TÀI

PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG HỆ THỐNG CÂU HỎI
TRONG VIỆC DẠY HỌC VĂN BẢN
Ở TRƯỜNG THCS I SÔNG ĐỐC
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các môn học như chúng ta đã biết môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan
trọng trong việc thực hiện mục tiêu chính của trường THCS. Góp phần hình thành
những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở. Đó là những con người có ý
thức tự tu dưỡng, biết thương yêu, biết quý trọng gia đình , bạn bè, có lòng yêu nước,
yêu CNXH, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, như lòng nhân ái, tinh
thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng lòng sáng tạo. Bước đầu có năng lực hình thành
và năng lực sử dụng tiếng Việt như một công cụ tư duy và thực hành. Đó cũng là
những con người ham muốn đem tài trí của mình để cống hiến cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cũng chính vì vậy mà yêu cầu đặt ra cho giáo viên dạy Ngữ
văn phải tâm huyết với nghề nghiệp, luôn luôn học hỏi tìm tòi để có kiến thức,
phương pháp phù hợp đáp ứng cho yêu cầu của việc dạy học.
Bản thân tôi là một giáo viên THCS đã trực tiếp giảng dạy trên mười năm, tôi
đã từng tham gia tất cả các đợt tập huấn chuyên môn, thay sách, học đổi mới về kiểm
tra, đánh giá. Tôi thấy rất khoa học, rất mới mẻ, nhưng áp dụng và thực hiện nó như
thế nào đó mới là vấn đề khó khăn. Tôi luôn luôn băn khoăn làm thế nào để truyền
đạt kiến thức đến với học sinh một cách đầy đủ, làm thế nào để học sinh yêu thích
môn Ngữ văn, hứng thú trong học tập hơn.
Trên thực tế đứng lớp, thực hiện chương trình, kiêm nhiệm thêm công tác tổ
trưởng tổ Văn – Sử GDCD, tôi đi dự giờ góp ý tiết dạy rất nhiều, tôi đã nhận thấy một
số khó khăn trong việc dạy Ngữ văn khai thác văn bản, mỗi giáo viên sử dụng các
phương pháp khác nhau, có tiết dạy rất “hấp dẫn”. Tức là học sinh thích ngồi nghe
giáo viên giảng, có tiết dạy lớp học trầm… chất lượng tiết dạy thấp dẫn tới chất lượng
học sinh thấp. Sau đó tôi nhận ra rằng việc đặt câu hỏi để khai thác kiến thức là vấn
đề vô cùng quan trọng. Có những tiết dạy giáo viên đặt câu hỏi rất nhiều, câu hỏi nào
học sinh cũng trả lời được, vì những câu hỏi đó học sinh chỉ cần nhìn vào sách giáo


khoa đọc lên, không cần suy luận. Có những tiết dạy giáo viên chỉ sử dụng những câu
hỏi ở trong sách giáo viên và ở phần câu hỏi đọc - hiểu văn bản, như vậy thì khả năng
phân tích, tìm hiểu, nêu suy nghĩ của các em sẽ không có, dẫn tới tình trạng khi viết
văn lời văn khô khan chỉ biết sao chép theo khuân mẫu không sáng tạo. Lại có những
tiết giáo viên liên tục đặt nhiều câu hỏi không học sinh nào trả lời được, không khí lớp
học nặng nề nhưng giáo viên không gợi ý, không thay đổi câu hỏi mà lại đọc lại câu
hỏi đó, hỏi như vậy học sinh trả lời không hướng vào câu hỏi cũng như kiến thức bài
học. Có khi giáo viên gặp đâu hỏi đó, hỏi vụn vặt, hỏi “tấn công” học sinh đến khi
nào không trả lời được mới thôi. Chính những câu hỏi như vậy khiến cho học sinh
không hứng thú học mà lo sợ khi giáo viên đặt câu hỏi… Từ những khó khăn của
1


chính bản thân mình, của đồng nghiệp tôi đã quyết tâm tập trung nghiên cứu, ghi
chép, học hỏi và suy nghĩ để tìm ra phương pháp xây dựng hệ thống câu hỏi trong
việc dạy học văn bản ở trường THCS I Sông Đốc sao cho phù hợp với bài dạy của
mình. Đó cũng chính là lý do tôi chọn viết đề tài này.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
Trong tiết dạy người giáo viên là người dẫn dắt, điều hành mọi hoạt động, giáo
viên phải kết hợp tốt các phương pháp và như vậy ngay từ khâu soạn bài giáo viên đã
phải chọn phương pháp cho phù hợp. Trong các phương pháp thì phương pháp đặt
câu hỏi cho học khai thác văn bản là quan trọng. Phải xây dựng hệ thống câu hỏi làm
sao cho phù hợp, sinh động, gợi hứng thú tìm tòi, suy nghĩ, óc phán đoán cho học sinh
mới là điều khó khăn, học sinh có hứng thú học khi giáo viên đặt câu hỏi, học sinh có
chịu suy nghĩ trả lời hay không, học sinh có hiểu bài nắm được kiến thức trọng tâm
hay không cũng phụ thuộc vào việc xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài dạy của mình.
Và như vậy giáo viên phải đầu tư ngay từ quá trình soạn bài, thiết kế một hệ thống
câu hỏi sao cho phù hợp với từng kiểu bài và phù hợp với đối tượng học sinh.
Với đề tài phương pháp xây dựng hệ thống câu hỏi tôi tin là sẽ giúp cho giáo

viên dạy Ngữ văn đặc biệt là dạy phân môn văn học cấp THCS rút ra được nhiều kinh
nghiệm khi đặt câu hỏi trong giờ dạy học của mình. Bởi vì hệ thống câu hỏi ở đề tài
này là những câu hỏi mà vai trò của giáo viên là người dẫn dắt học sinh tự khám phá
nội dung kiến thức của bài học từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Tức là đi từ
câu hỏi phát hiện, tái hiện để dấn sâu vào hính thức hỏi sáng tạo, nêu vấn đề. Từ đó sẽ
kích thích năng lực suy nghĩ, óc phán đoán, mở ra nhiều hướng tiếp nhận mới nhằm
khơi dậy hoạt động bên trong của người học. Đây chính là việc thể hiện vai trò, năng
lực của người giáo viên khi giảng dạy.
Trong quá trình tiến hành một tiết dạy môn Ngữ văn GV tiến hành đặt rất nhiều
câu hỏi để học sinh trả lời. Trong đề tài này tôi chỉ đề cập đến phương pháp xây dựng
hệ thống câu hỏi cho việc dạy học văn bản ở trường THCS I Sông Đốc. Mục đích của
việc đặt câu hỏi là kiểm tra việc học bài cũ, xây dựng bài, chú ý nghe giảng hay mức
độ tiếp thu, hiểu bài của học sinh. Để được như vậy GV phải nắm bắt được đặc điểm
đối tượng học sinh của lớp mình dạy, nắm được các kiểu bài, cách tiến hành tìm hiểu
từng phần, nội dung đơn vị kiến thức để từ đó có cách đặt câu hỏi khai thác kiến thức
cho phù hợp. Có rất nhiều dạng câu hỏi nhưng ở đây tôi chỉ đưa ra một số dạng câu
hỏi cơ bản chủ yếu nhất cần phải có trong tiết dạy văn học – khai thác văn bản. Các
dạng câu hỏi này nó bao quát cho tất cả các đối tượng học sinh, từ học sinh trung
bình, yếu, kém, đến học sinh khá giỏi đó là bốn loại câu hỏi cơ bản:
(1) Câu hỏi phát hiện
(2) Câu hỏi gợi mở
(3) Câu hỏi nêu vấn đề
(4) Câu hỏi so sánh.
2


Bốn dạng câu hỏi này giáo viên thường xuyên sử dụng trong quá trình tiến hành
tiết dạy của mình với các dạng văn bản thuộc các thể loại khác nhau.
II. Một số biện pháp cụ thể
1. Câu hỏi phát hiện

Đây là loại câu hỏi cho đối tượng học sinh yếu, trung bình phát huy khả năng
của mình, bởi vì loại câu hỏi này là những nội dung đã có sẵn, chỉ cần học sinh theo
dõi hoặc xem bài trước sẽ trả lời được. Học sinh có thể nhìn vào SGK phát hiện ra
kiến thức giáo viên hỏi. Tác dụng của loại câu hỏi này không làm cho học sinh chán
nản đặc biệt là học sinh có lực học trung bình và yếu, khi học sinh trả lời đúng câu hỏi
các em sẽ cảm thấy hứng thú, cảm thấy có cơ hội để chứng tỏ mình.
- Ví dụ : khi dạy văn bản “Đêm nay Bác không ngủ” (Ngữ văn 6- tập 2) khi tìm
hiểu bài thơ được viết theo thể thơ nào giáo viên có thể dùng câu hỏi phát hiện sau:
? Quan sát bao quát bài thơ, bài thơ có bao nhiêu khổ?
? Mỗi khổ thơ có bao nhiêu câu thơ? Và mỗi câu thơ có mấy tiếng?...
Với câu hỏi đó học sinh chỉ cần quan sát bài thơ và đếm các khổ thơ các số tiếng
trong bài thơ để tìm ra bài thơ được viết theo thể nào.
- Ví dụ : khi dạy văn bản “Quan Âm Thị Kính” (Ngữ văn 7- tập 2) khi tìm hiểu nỗi
oan của Thị Kính giáo viên đặt câu hỏi:
? Trong đoạn trích em thấy có mấy lần Thị Kính kêu oan?
? Thị Kính kêu oan với ai?...
- Ví dụ : khi dạy văn bản “Cô bé bán diêm” (Ngữ văn 8 tập 1) tìm hiểu về gia cảnh
của em bé giáo viên dùng một câu hỏi là “Nêu hoàn cảnh của cô bé bán diêm”? có thể
học sinh không trả lời được hoặc trả lời thiếu, thay vào đó giáo viên dùng các câu hỏi
phát hiện:
? Em sống với ai? Người bố đối xử với em như thế nào? Em làm công việc gì?...
Tìm những chi tiết trong văn bản thể hiện điều đó?...
Với những câu hỏi đó học sinh trả lời ngay được và rút ra được kết luận về gia cảnh
của cô bé bán diêm.
Đó là những câu hỏi phát hiện học sinh rất dễ trả lời, câu hỏi này làm cơ sở, tạo
tiền đề để cho giáo viên tiến hành hướng dẫn học sinh đi đến tìm hiểu kiến thức khác
được rút ra từ câu hỏi phát hiện, tạo không khí cho lớp học sôi nổi, học sinh hứng thú
học tập hơn.
Bên cạnh đó dạng câu hỏi này có nhiều hạn chế vì nếu như trong tiết dạy mà giáo
viên sử dụng quá nhiều câu hỏi như vậy thì sẽ không phát huy được óc suy nghĩ, phán

đoán, khả năng nêu cảm thụ văn chương của các em. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải sử
dụng câu hỏi này khéo léo, phù hợp với nội dung kiến thức từng phần và phải phù hợp
với đối tượng học sinh.
2. Câu hỏi gợi mở
Trong tiến hành dạy học không nhất thiết câu hỏi nào giáo viên đưa ra cũng yêu
cầu học sinh phải trả lời. Có câu hỏi giáo viên hỏi chỉ để hỏi, tức là hỏi rồi tự mình trả
lời, hỏi như vậy lôi cuốn học sinh chú ý tập trung vào bài học hơn, có khi giáo viên
3


đặt câu hỏi học sinh không trả lời được, vậy lúc này mới đòi hỏi tới sự chuẩn bị, khéo
kéo của người giáo viên, giáo viên phải biết dẫn dắt, khơi gợi vấn đề để hỏi, học sinh
đó là việc sử dụng câu hỏi gợi mở.
- Ví dụ: khi dạy bài “Tinh Thần yêu nước của nhân dân ta” (Ngữ văn 7 – tập 2)
giáo viên đưa ra câu hỏi sau:
? Cho biết chủ đề của văn bản? có thể học sinh không trả lời được giáo viên dùng
câu hỏi gợi mở.
? Văn bản đề cập đến vấn đề gì?
? Câu văn nào thể hiện rõ nhất vấn đề đó?
Hoặc: ? Theo em nghệ thuật nghị luận ở bài văn này có gì đặc sắc?
Dùng câu hỏi gợi mở:
? Bố cục của bài văn gồm mấy phần?
? Dẫn chứng Bác đưa ra để chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta có
chính xác, toàn diện, thuyết phục không?...
Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra được kết luận về nghệ thuật nghị luận của
bài văn qua các câu trả lời của học sinh.
- Ví dụ: khi dạy văn bản “Viếng lăng Bác” (Ngữ văn 9 – tập 2) giáo viên hướng
dẫn học sinh cách khai thác văn bản theo khổ thơ. Khi tìm hiểu khổ thơ đầu để làm
nổi bật được nội dung xuyên suốt bài thơ là mạch cảm xúc của tác giả, GV có thể hỏi:
? Câu đầu cho ta biết điều gì?

Dùng câu hỏi gợi mở:
? Giải thích nghĩa từ “viếng”, “thăm”?
? Tại sao ở nhan đề tác giả dùng từ “viếng”, ở câu đầu bài thơ dùng từ “thăm”?
? Nhận xét cách xưng hô của tác giả?...
Tác dụng của dạng câu hỏi này giúp học sinh dần dần nhận ra vấn đề cần tìm hiểu,
tạo sự lô-gic và xâu chuỗi kiến thức một cách có hệ thống. Tuy nhiên nếu trong tiết
dạy chúng ta sử dụng quá nhiều loại câu hỏi này sẽ dẫn tới tình trạng học sinh không
phát huy được óc sáng tạo và khả năng vận dụng. Vì vậy khi xây dựng hệ thống câu
hỏi đòi hỏi chúng ta cũng phải hết sức khéo léo.
3. Câu hỏi nêu vấn đề
Đây là dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực và hoạt động tư duy, tính năng
động trí tuệ cho học sinh qua giờ dạy. Khi GV đặt câu hỏi HS phải dùng óc suy nghĩ,
phán đoán để trả lời câu hỏi. Dạng câu hỏi này đa số HS khá giỏi mới trả lời được.
Trong giờ dạy GV phải biết xây dựng tình huống có vấn đề bằng việc thông
qua xây dựng hệ thống câu hỏi có vấn đề. Loại câu hỏi này chứa đựng một dung
lượng kiến thức lớn và mang tính chất tổng hợp gồm nhiều mối liên hệ giữa các yếu
tố, các kiến thức, nhằm làm sáng tỏ quan điểm của tác giả trong tác phẩm. Loại câu
hỏi này có tính chất phức tạp về nội dung vì nó thường gợi lên những mâu thuẫn giữa
cái biết và chưa biết, từ đó rèn luyện năng lực độc lập, suy nghĩ sáng tạo, nó còn
mang tính chất hệ thống, liên tục nhằm lôi cuốn học sinh hứng thú tìm hiểu tác phẩm.
Bằng thực tế tôi tiến hành lấy một số ví dụ trên một số văn bản như sau:
4


- Ví dụ: khi dạy văn bản “Lão Hạc” (Ngữ văn 8 tập 1) ở tiết 2 khi bắt đầu tìm hiểu
nguyên nhân dẫn đến cái chết của lão Hạc, giáo viên có thể đặt câu hỏi ngay:
? Nguyên nhân sâu xa nào dẫn đến cái chết của lão Hạc?
Khi tôi đặt câu hỏi này thì phải đến em học sinh thứ năm mới trả lời trọn vẹn được.
+ Học sinh thứ nhất: lão Hạc chết vì uống bả chó.
Giáo viên hỏi tại sao lão phải uống bả chó để rồi phải chết một cái chết đau đớn dữ

dội như vậy, tìm tiếp nguyên nhân?
+ Học sinh thứ hai: Lão Hạc chết vì lão không còn tiền.
Giáo viên lại hỏi “ có thật lão đã hết tiền không, lão vẫn còn tiền và ba sào vườn cơ
mà”?
+ Học sinh thứ ba: Lão chết vì lão sợ rằng lão sống lão ăn hết tiền của con lão.
Giáo viên hỏi vậy lão Hạc chết là do nguyên nhân nào?
+ Học sinh thứ tư: Lão chết vì lão thương con.
Giáo viên giảng kết hợp hỏi: một con người có phẩm chất tốt đẹp như lão Hạc đáng
ra con người đó phải được hưởng cuộc sống yên lành, hạnh phúc. Vậy tại sao lão Hạc
phải đau khổ, phải tìm đến cái chết.
+ Học sinh thứ năm: Lão chết, mặc dù là cái chết tình nguyện nhưng nguyên
nhân là do chế độ xã hội phong kiến bất công…
Đó là những câu hỏi giáo viên luôn luôn tạo ra tình huống có vấn đề để học học suy
nghĩ trả lời. Tuy nhiên khi dùng câu hỏi nêu vấn đề này học sinh sẽ khó trả lời và giáo
viên lại phải sử dụng câu hỏi gợi mở, có khi dùng tới câu hỏi phát hiện. Và như vậy
kiến thức bài học sẽ được khai thác một cách triệt để.
- Ví dụ: khi dạy văn bản: Những ngôi sao xa xôi (Ngữ văn 9 – tập 2) GV có thể đưa
một số câu hỏi nêu vấn đề như sau:
? Trong văn bản em yêu mến nhân vật nào nhất? Vì sao?
Với ý thứ nhất HS có thể trả lời ngay được là yêu thích nhân vật nào, nhưng yêu cầu
thứ hai HS phải giải thích được là vì sao mình yêu thích nhân vật đó. Lúc này HS phải
tư duy, lý giải tình huống có vấn đề và như vậy là HS đã nắm và hiểu được đặc điểm
của nhân vật…
Hoặc: Qua văn bản em hiểu được gì về thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kỳ
kháng chiến chống giặc ngoại xâm? Câu hỏi này đòi hỏi HS phải suy luận, mở rộng
vấn đề, liên hệ với các tác phẩm văn học khác.
Hoặc: Nêu suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với cuộc sống hiện tại?
Với những câu hỏi như trên HS phải tư duy, suy luận, phân tích và khái quát vấn đề.
Chính vì vậy dạng câu hỏi này có tác dụng giúp HS khắc sâu kiến thức bài học hơn,
học sinh trình bày vấn đề mang tính chất sáng tạo hơn và như vậy giáo viên cũng nắm

được qua bài dạy học sinh nắm được kiến thức ở mức độ nào. Bên cạnh những tác
dụng của việc sử dụng loại câu hỏi này thì còn có một số vấn đề mà giáo viên cần lưu
ý, đặc biệt là đối tượng học sinh và kiến thức bài học rộng hay hẹp…
4. Câu hỏi so sánh
Đây là một trong những loại câu hỏi có hiệu quả cao trong quá trình tìm hiểu văn
bản. So sánh nhằm mục đích tìm ra điểm giống nhau và khác nhau để làm sáng tỏ vấn
đề, khắc sâu kiến thức. Vận dụng loại câu hỏi này sẽ giúp việc phân tích văn bản sâu
5


hơn, phong phú sinh động, liên hệ được các kiến thức cùng đề tài. Có những câu hỏi
so sánh ngay kiến thức trong văn bản, có khi so sánh kiến thức giữa hai văn bản khác
nhau hay rộng hơn là kiến thức trong cùng một nội dung, một đề tài.
- Ví dụ khi tìm hiểu các đoạn trích của “Truyện Kiều” (Ngữ văn 9 tập 1) để làm nổi
bật lên số phận của Kiều: Một người con gái tài sắc vẹn toàn, có đầy đủ những phẩm
chất tốt đẹp nhưng lại phải chịu cảnh “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, phải mười
năm năm lưu lạc… giáo viên sử dụng câu hỏi so sánh:
? Em hãy so sánh số phận của Thúy Kiều với số phận của Vũ Nương?
Qua câu hỏi so sánh như vậy học sinh dễ tìm ra được điểm giống nhau về số phận
của người phụ nữ dưới chế độ xã hội xưa, và cũng thấy được nét khác biệt trong tính
cách của mỗi nhân vật.
- Ví dụ: khi dạy văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” (Ngữ văn 9 tập 1)
tìm hiểu về cái chết của Vũ Nương giáo viên dùng câu hỏi so sánh để mở rộng vấn đề
giúp học sinh khắc sâu kiến thức.
? Nhân vật Vũ Nương có điểm nào giống và khác với nhân vật Thị Kính mà các
em đã được học ở lớp 7? Hoặc giáo viên cho học sinh so sánh số phận của Vũ Nương
với thân phận của người phụ trong các bài ca dao than thân. Từ đó giáo viên cho học
sinh nêu suy nghĩ của mình về thân phận người phụ nữ dưới chế độ xưa như thế nào.
Đó là những câu hỏi so sánh xuyên suốt kiến thức trong cấp học, giúp học sinh có
kiến thức phổ rộng hơn. Cũng có những câu hỏi so sánh giáo viên cho giữa các khổ

thơ hoặc các đoạn văn với nhau để tìm sự phát triển mạch cảm xúc hay sự thay đổi
diễn biến tâm trạng của nhân vật. So sánh thường là tìm ra điểm giống và khác nhau
nhằm nâng cao và nhấn mạnh vấn đề đang đề cập.
- Ví dụ: khi dạy văn bản “Qua Đèo Ngang” (Ngữ văn 7 tập 1) để khắc sâu kiến
thức cho học sinh về tâm trạng buồn bã, cô đơn trước thực tại của Bà Huyện Thanh
Quan giáo viên dùng câu hỏi so sánh:
? Em hãy so sánh cụm từ “ta với ta” trong bài thơ này với cụm từ “ta với ta”
trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến?
Nói như vậy không nhất thiết là khi giáo viên đặt câu hỏi phải rạch ròi ra đâu là câu
hỏi gợi mở, đâu là câu hỏi nêu vấn đề… mà trong một tiết dạy phải khéo léo sử dụng
các loại câu hỏi này tùy theo đối tượng học sinh, tùy theo nội dung của từng bài cũng
như kiến thức của từng phần. Có khi tìm hiểu một ý giáo viên đã sử dụng nhiều loại
câu hỏi.
Nhìn chung còn rất nhiều dạng câu hỏi được sử dụng trong việc khai thác văn bản
nhằm đạt hiệu quả cao trong giờ dạy văn, mà cơ bản là các loại câu hỏi như tôi đã
trình bày ở trên. Có khi tìm hiểu một đơn vị kiến thức giáo viên đã kết hợp hầu hết
các loại câu hỏi. Sau đây là một bài soạn cụ thể của tôi, trong bài soạn tôi đã thể hiện
các dạng câu hỏi được đan xen với nhau trong mỗi phần, hệ thống câu hỏi này phù
hợp với nội dung kiến thức, với đối tượng học sinh tôi đứng lớp. Bài dạy này tôi đã
đưa vào dạy cho toàn tổ dự giờ và góp ý rút kinh nghiệm. Tất cả các đồng nghiệp của
tôi đều tán thành và nhận ra vai trò quan trọng của việc xây dựng hệ thống câu hỏi
phong phú đa dạng nhưng phù hợp cho một tiết dạy.
6


Tiết 37: Văn học

CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH
(Tĩnh dạ tứ)
Lý Bạch

I. Mức độ cần đạt
- Cảm nhận đề tài vọng nguyệt hoài hương (nhìn trăng nhớ quê) được thể hiện giản
dị, nhẹ nhàng mà sâu lắng, thấm thía trong bài thơ cổ thể của Lí Bạch.
- Thấy được tác dụng của nghệ thuật đối và vai trò của câu cuối trong một bài thơ
tứ tuyệt.
- Giáo dục thêm cho học sinh có tình cảm hơn đối với quê hương, đất nước.
II. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng
1. Kiến thức
- Tình quê hương được thể hiện một cách chân thành, sâu sắc của Lí Bạch.
- Nghệ thuật đối và vai trò của câu kết trong bài thơ.
- Hình ảnh ánh trăng – vầng trăng tác động tới tâm tình nhà thơ.
2. Kĩ năng
- Đọc – hiểu bài thơ cổ thể qua bản dịch tiếng Việt.
- Nhận ra nghệ thuật đối trong bài thơ.
- bước đầu tập so sánh bản dịch thơ và bản phiên âm chữ Hán, phân tích tác phẩm.
III. Chuẩn bị
- Giáo viên: SGK, SGV, tham khảo tài liệu, soạn giáo án, bảng phụ…
- Học sinh: Học bài cũ, đọc và soạn trước bài mới theo hệ thống câu hỏi SGK
IV. Tiến trình lên lớp
1. Ổn định lớp (1 phút)
2. Kiểm tra bài cũ (3 phút)
? Đọc thuộc lòng phần dịch thơ 2 bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” và “Đêm đỗ
thuyền ở Phong Kiều”, nêu thể loại của mỗi bài?
? Nêu nội dung chính của hai bài thơ?
3. Bài mới
a. Giới thiệu bài (1phút)
Lý Bạch là người sớm xa quê. Từ lúc ông 25 tuổi ông đã hăm hở đi du lịch và
tìm đường lập công danh sự nghiệp. Sau đó chưa một lần ông có dịp trở lại quê
7



hương. Ông nuôi khát vọng muốn góp phần cứu đời giúp dân giúp nước nhưng dường
như chưa bao giờ ông toại nguyện. Đã nhiều đêm, nhất là vào những đem trăng, Lý
Bạch đau dấu nỗi nhớ quê nhà. Bài “Cảm nghĩ trong đêm trong đêm thanh tĩnh” là bài
thơ cho ta hiểu được nỗi nhớ quê hương thường trực và sâu nặng trong tâm hồn nhà
thơ.
b. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy và học
Hoạt động của thầy

Hoạt động của trò

Hoạt động 1 (3 phút)
Gọi HS đọc chú thích

Nội dung
I. Đọc – tìm hiểu chung
1. Chú thích

HS đọc
Tìm hiểu chú thích
Hoạt động 2 (7 phút)

2. Đọc văn bản

Hướng dẫn đọc: Đọc giọng 1 HS đọc phần phiên âm
dứt khoát, truyền cảm.
1 HS đọc phần dịch nghĩa
1 HS đọc phần dịch thơ
GV nhận xét – Đọc mẫu
phần dịch thơ

? Bản dịch thơ này là của - Tương Như dịch
ai?
3. Thể loại: Ngũ ngôn tứ
tuyệt (cổ thể)
? Nêu thể loại của bài thơ?
? Đây có phải là bài thơ
Đường luật không?
Giảng: Bài thơ có 4 câu,
mỗi câu có 5 tiếng gọi là
ngũ ngôn tứ tuyệt, viết
theo hình thức cổ thể
(không phải thơ Đường
luật)
? Bài thơ này được viết
theo phương thức biểu đạt
nào?
? Lý Bạch thường tập
trung viết về đề tài nào?

- Ngũ ngôn tứ tuyệt

- Văn biểu cảm
- Viết về chiến tranh, thiên
nhiên, tình yêu và tình bạn.
4. Chủ đề: Vọng nguyệt
hoài hương

? Bài thơ này viết về chủ - Vọng nguyệt hoài hương
đề nào?
(nhìn trăng nhớ quê)

KL: Qua chủ đề ta biết
8


được phương thức biểu đạt
của văn bản.
Hoạt động 3 (25 phút)
? Nêu bố cục của bài thơ? - Bố cục 2/2
? Với bố cục đó em có thể - Phân tích theo bố cục
chọn cách phân tích nào?

II. Đọc – hiểu văn bản

a. Hai câu đầu
? Có người cho rằng 2 câu
đầu bài thơ là thuần túy tả
cảnh, 2 câu cuối thuần túy
tả tình. Em có tán thành ý
kiến đó không? Vì sao?
? Xác định vị trí ngắm
trăng của tác giả?
? Từ nào cho em biết điều
đó?
? Em thử suy nghĩ thường
thì người ta ngắm trăng ở
đâu?
GV mở rộng: thi nhân xưa
ngồi uống rượu vừa làm
thơ vừa ngắm trăng…
? Tại sao tác giả lại nằm

trên giường để ngắm
trăng? Em đặt giả thiết?
? Giải nghĩa từ “quang”?
? Bản dịch thơ là từ nào?
Đồng nghĩa với rọi là gì?
? Vậy ngay ở câu đầu này
tác giả có thiên về tả ánh
trăng không?

? Vậy tại sao tác giả lại
trằn trọc không ngủ được?
Và vì không ngủ được nên
tác giả đã cảm nhận thấy gì
ở câu thơ thứ hai?

HS suy nghĩ trả lời

- Nằm trên giường
- “sàng”
- Ngồi trên sân thượng,
dưới sân nhà…
- Ánh trăng sáng xuyên
qua cửa sổ rọi vào đầu
giường.
- Có thể nằm giường để
ngủ, không ngủ được bất
chợt nhìn thấy ánh trăng
xuyên qua cửa sổ.
- Sáng: ánh sáng tỏa rộng
- Rọi: chiếu ánh sáng có

chủ đích
- Không: tác giả không
thuần túy tả ánh trăng, dù
câu này không nói gì đến
tác giả nhưng ta suy luận - Ánh trăng chuyển thành
được là Lý Bạch nằm trên màu trắng giống như
giường trằn trọc không ngủ sương phủ tên mặt đất.
được mới nhìn thấy ánh
trăng.
- Vì không ngủ được nên
tác giả nhìn ánh trăng
tưởng như mặt đất phủ
sương “Ngỡ…phủ sương”
9


KL: Như vậy hai câu đầu
không thuần túy tả cảnh.
? Vì tưởng là sương, ngỡ là
sương phủ trên mặt đất nên
tác giả tiếp tục làm gì?
? Và khi “Ngẩng đầu nhìn
trăng sáng” vầng trăng
cũng đơn côi, cũng lạnh
lẽo thì lập tức tác giả lại
như thế nào?
? Hành động cúi đầu của
tác giả lần này có phải để
nhìn mặt đất không? Vậy
hành động cúi đầu đó nói

lên điều gì?
KL: toàn bài thơ là mối
quan hệ giữa cảnh và tình,
? Qua bài thơ em có nhận
xét gì về con người Lý
Bạch?
? Em biết bài thơ nào viết
ánh trăng? Đọc những câu
thơ đó?
? So sánh ánh trăng được
miêu tả ở các câu thơ em
vừa đọc với ánh trăng
trong bài thơ thơ này?...

b. Hai câu cuối
- Ngẩng đầu nhìn trăng - Đưa tầm mắt lên cao, ra
sáng
xa, hòa nhập mình vào
cảnh đêm trăng.
- Lập tức “Cúi đầu nhớ cố - Thu mình vào suy nghĩ
hương”
(nhớ quê)
→ Tác giả thao thức không
- Không. Cúi đầu là suy ngủ được nhìn trăng – càng
ngẫm về cố hương
nhớ quê. Thể hiện tình yêu
quê hương thường trực,
sâu nặng.

- HS nhận xét

(tình yêu quê hương sâu
nặng)
HS trình bày
So sánh

c. Nghệ thuật
? Thành công nhất của bài
thơ này tác giả đã sử dụng
nghệ thuật nào?
? Chú ý các cặp từ trong
câu 3 -4?
Cho HS thảo luận (2HS)
? Quan sát câu 3-4 trình
bày về phép đối trong thơ
cổ?
(1) Về số lượng câu chữ:
bằng nhau
(2) Về cấu tạo ngữ pháp:
giống nhau
(3) Về từ loại: tương ứng

- Phép đối (cặp từ trái
nghĩa)
- Sử dụng phép đối

(1) Về số lượng câu chữ
(2) Về cấu tạo ngữ pháp
(3) Về từ loại
(4) Về ý
10



câu trên và câu dưới
(4) Về ý: Đối rất chỉnh:
nhìn trăng sáng/ nhớ quê
hương. Trong từng câu có
phép tiểu đối.
KL: Đối đầu / đầu, trùng
thanh trùng chữ, thơ
Đường luật không đối như
vậy.
? Trong bài thơ tác giả đã
sử dụng các động từ chỉ
cảm nghĩ và hoạt động, chỉ
ra các động từ đó?
? Nêu tác dụng của việc sử
dụng các động từ này?
? Tìm chủ ngữ cho 5 động
từ này?
? Bị lược bỏ chủ ngữ em
có biết chủ ngữ là ai
không?
? Tác dụng của việc sử
dụng câu rút gọn?
? Qua bài thơ em hiểu gì
về hồn thơ Lý Bạch? Nghệ
thuật được sử dụng nổi bật
tạo nên giá trị bài thơ?

- Động từ cảm nghĩ: nghi, - Sử dụng các động từ


- Động từ chỉ hoạt động:
cử, vọng, đê
- Chủ ngữ đều bị lược bỏ

- Sử dụng câu rút gọn

- Chủ ngữ là tác giả.
HS suy nghĩ trả lời

Hs đọc ghi nhớ SGK
Hoạt động 4 (5 phút)
KL giá trị nội dung, nghệ
thuật
? So sánh bài thơ của Lý - Nêu tương đối đủ
Bạch với hai câu thơ?
? Xét về nội dung, ý đủ - Không
không?
? Trong bài thơ Lý Bạch
có dùng phép so sánh
không?...

* Ghi nhớ: SGK
III. Luyện tập

4. Củng cố, dặn dò
- Đã củng cố từng phần.
- Về nhà học thuộc phần dịch thơ, thuộc ghi nhớ, thử dịch bài thơ của Lý Bạch
sang thể thơ lục bát…
11



- Trả lời câu hỏi bài “Từ trái nghĩa” vào vở bài soạn…
Đó là bài giáo án tôi thiết kế hệ thống câu hỏi. Sau tiết dạy tôi tiến hành cho
học sinh làm bài khảo sát, kết quả khảo sát lớp 7A5 như sau:
Số HS
41

Giỏi
SL
9

Khá
TL
22.0

SL
14

Trung bình
SL
TL
16
39.0

TL
34.1

Yếu
SL

2

TL
4.9

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trên đây là phương pháp thiết kế hệ thống câu hỏi trong dạy văn học mà tôi đã
tìm hiểu, nghiên cứu trong các năm vừa qua.
Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu và áp dụng tôi đã được sự góp ý tán thành
của đồng nghiệp, tất cả đều nhất trí và thấy được mặt tích cực, tác dụng của việc xây
dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học văn bản. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu
và thực hiện phương pháp này còn có một số hạn chế nhất định. Nó đòi giáo viên phải
đầu tư ngay từ khâu soạn giáo án xây dựng hệ thống câu hỏi và dự kiến học sinh trả
lời như thế nào để có câu hỏi phù hợp hợp hơn.
Qua thực tế đứng lớp, tôi đã áp dụng phương pháp này từ năm học 2006-2007
đến nay. Tôi không chỉ sử dụng hệ thống câu hỏi này cho phân môn văn học mà còn
sử dụng cho cả phân môn tiếng Việt và tập làm văn. Tôi thấy các em yêu thích môn
Ngữ văn hơn trước, kỹ năng viết bài Tập làm văn trôi chảy hơn, sáng tạo hơn, các
kiến thức được vận dụng trong bài viết linh hoạt hơn, chính xác hơn. Trong giờ học
không khí học tập sôi nổi. Bởi vì tất cả các em đều được tạo điều kiện suy nghĩ, tiếp
xúc với văn bản, đều có cơ hội được trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra.
Sau các năm dạy học áp dụng phương pháp này thì chất lượng học sinh các lớp
tôi phụ trách không ngừng được nâng cao trong các năm. Tổng hợp trung bình chất
lượng của riêng cá nhân tôi trước khi chưa sử dụng phương pháp này với sau khi đã
vận dụng có sự tiến bộ rõ rệt như sau:
Năm học

Khi chưa
vận dụng


Khi đã vận dụng
2010-2011

2005-2006

2006-2007

2007-2008

2008-2009

2009-2010

Giỏi

3%

3,6%

4.0%

6.0%

8.0%

10.9%

Khá

10%


10,5%

15.0%

17.0%

18.0%

21.8%

TB

51%

61.0%

58.0%

63.0%

60.0%

54.3%

Yếu

26%

16.0%


20.0%

14.0%

14.0%

13.0%

Kém

10%

8,9%

3.0%

0%

0%

0%

(Lưu ý: năm học 2010 – 2011 lấy kết quả giữa kì II)
12


Tất cả các vấn đề mà tôi trình bày ở trên đã được đưa ra thảo luận, áp dụng
không những bản thân tôi mà còn cả các thành viên trong tổ tôi để được hoàn thiện
hơn nữa về cở lý tuận và phương pháp dạy học này. Tôi tin rằng phương pháp xây

dựng hệ thống câu hỏi cho tiết dạy không chỉ có tác dụng với phân môn văn học mà
còn có tác dụng cho nhiều các môn học khác.
Trên đây là những nghiên cứu, những suy nghĩ của tôi tuy đã được sự góp ý
thêm của đồng nghiệp nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, nên tôi rất mong được sự bổ
sung, góp ý thêm của đồng nghiệp, của lãnh đạo cấp trên để bản sáng kiến kinh
nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn nữa. Tôi chân thành cảm ơn.
Sông Đốc, ngày 10 tháng 4 năm 2011
Người viết
Nguyễn Thị Hà

13



×