Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.21 KB, 72 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tư cách là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật, quy luật phủ định của phủ định luôn là nền tảng lí luận, kim chỉ nam cho
hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của những người mác xít.
Việc thiết kế, xây dựng được một xã hội mới về chất trên nền tảng vốn có của
xã hội cũ, về thực chất, đó là quá trình vận dụng và thực hiện quan điểm phủ
định biện chứng trong thực tế.
Phủ định biện chứng là quá trình phủ định bao hàm trong nó những
nhân tố tích cực của cái bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng mang tính
kế thừa những yếu tố tích cực và gạt bỏ những yếu tố không phù hợp với sự
phát triển của cái mới. Song, khi vận dụng quan điểm phủ định của phủ định
vào đời sống thực tiễn để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng đã có những
quan điểm xem xét sự vật và hiện tượng một cách cứng nhắc, siêu hình hoặc
là xóa bỏ tất cả hoặc là kế thừa một cách nguyên si. Hơn bất cứ lĩnh vực nào,
lĩnh vực văn hóa ở nước ta trước đổi mới đã có những quan điểm chỉ đạo và
cách làm chưa đúng. Và hệ quả là nhiều di sản văn hóa của dân tộc bị xâm hại
và phá hỏng, nền văn hóa đân tộc bị tổn thất lớn. Chúng ta nói về phủ định
biện chứng, song chưa hiểu và chưa nắm được thực chất của nó.
Vì vậy, làm rõ quan điểm phủ định biện chứng và vận dụng một
cách đúng đắn, thích hợp vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta là điều hết sức
cần thiết.
Hiện nay, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta
phải xây dựng một nền văn hóa mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại, phù
hợp với thực tiễn của đất nước. Ngày nay trước xu thế toàn cầu hóa, hợp
tác hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội giúp cho chúng ta có cơ
hội để tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu thêm bản



Nguyễn Thị Nội

1

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

sắc văn hóa dân tộc mình. Hơn nữa, trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa thì vấn đề giữ gìn nền văn hóa
mang đậm tính dân tộc ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng. Bên cạnh
những mặt tích cực, mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang làm chao
đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc
biệt, một số giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng vốn có vị trí quan trọng
trong hệ thống giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam đang có
nguy cơ bị mai một và tha hóa.
Đồng thời, ở nước ta vẫn tồn tại những tàn dư của xã hội cũ để lại,
đó là những hủ tục lạc hậu, bảo thủ, mê tín dị đoan,... Chính vì vậy, việc
xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở quán
triệt quy luật phủ định của phủ định của chủ nghĩa duy vật biện chứng là
một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Trong các
Văn kiện, Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng gần đây, Đảng ta đã nhận
thức rõ điều này và đã đưa ra quan điểm chỉ đạo cho việc xây dựng nền văn
hóa mới: coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực, là mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng nền

văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [9, tr.59]. Và điều
này còn được tiếp tục khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX:
“Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [11, tr.114].
Với lí do, trên tôi chọn đề tài: “Sự vận dụng quy luật phủ định của
phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Mục đích của đề tài nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định và nội
dung của sự vận dụng này vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
Nguyễn Thị Nội

2

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đà bản sắc dân tộc; chỉ ra thực trạng của sự vận dụng đó; đề xuất một số giải
pháp chủ yếu để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trên cơ sở vận dụng quy luật phủ định của phủ định.
* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu lý luận chung về quy luật phủ định của phủ định và nội
dung sự vận dụng quy luật phủ định của định vào việc xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Tìm hiểu thực trạng của sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định

vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở vận dụng quy luật phủ định
của phủ định.
3. Tình hình nghiên cứu
Trước những yêu cầu, đòi hỏi mới của đất nước và thời đại thì vấn đề
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được
nhiều nhà nghiên cứu khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tiêu
biểu như:
+ Cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Giáo sư Phan Ngọc. Trong
tác phẩm tác giả đã bình luận vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam ở
nhiều góc độ, so sánh sự khác nhau giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung
Quốc, chỉ ra bề dày của văn hóa Việt Nam và bản sắc văn hóa Việt Nam trong
giao lưu văn hóa.
+ PGS - TS Trần Ngọc Thêm với cuốn “Tìm hiểu về bản sắc văn hóa
Việt Nam” đã trình bày một cách toàn diện và xúc tích về văn hóa Việt Nam
trên các phương diện: Văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn
hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Như vậy, các tác giả, các học giả Việt Nam đã đề cập và nghiên cứu
đến văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, sự giao thoa văn hóa Việt

Nguyễn Thị Nội

3

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Nam với các nền văn hóa khác trong quá trình tiếp thu, cũng như đã đề cập
đến quy luật phủ định biện chứng và vai trò của nó trong xã hội.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu đó, tôi đã lựa chọn đề tài:
“Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khóa luận nghiên cứu sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định
vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: sự vận dụng quy luật phủ định
của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trong giai đoạn từ năm1998 đến nay.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng làm phương pháp nghiên cứu của
đề tài.
- Khóa luận sử dụng phương pháp chuyên ngành: lô gíc lịch sử là
chủ yếu, đồng thời kết hợp với phương pháp nghiên cứu khác như: phân
tích - tổng hợp, khái quát - trừu tượng,... để làm rõ mục đích và nhiệm vụ
của đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài giúp ta nhận thức, đánh giá một cách khoa học những giá trị văn
hóa Việt Nam, những yêu cầu khách quan phải xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc dựa trên cơ sở quy luật phủ định của
phủ định. Từ đó, đề xuất một số giải pháp hữu hiệu nhất góp phần vào xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,

khóa luận được chia làm 3 chương và 9 tiết.
Nguyễn Thị Nội

4

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2
Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀ
NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
1.1. Quy luật phủ định của phủ định
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Trong ý thức thông thường, khái niệm “phủ định” thường được thể hiện
bằng từ “không”; phủ định có nghĩa là nói “không”, là bác bỏ một cái gì đó.
Trong triết học có hai quan điểm: quan điểm siêu hình và quan điểm
biện chứng về sự phủ định. Quan điểm siêu hình hiểu sự phủ định là sự can
thiệp của những lực lượng bên ngoài dẫn tới thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát
triển của nó. Quan điểm biện chứng cho rằng, phủ định là một khâu tất yếu
của bất kì sự phát triển nào. Đó là sự thay thế sự vật này bằng một sự vật khác
trên cơ sở mất đi của cái cũ, xuất hiện cái mới tiến bộ hơn và có sự kế thừa
những yếu tố phù hợp của cái cũ, là quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại của
bản thân sự vật bị phủ định.
Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát
triển dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định (là kết quả
của quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật ấy quyết định).

1.1.2. Nội dung quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên
theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Đó
là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi
phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi
hỏi phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê
phán. Chống kế thừa nguyên si máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư
vô với quá khứ.
Nguyễn Thị Nội

5

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do
mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là quá trình đấu
tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật, giữa mặt
khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất được thực hiện một cách
căn bản sẽ làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập của mình. Lần phủ định
tiếp theo dẫn tới sự ra đời một sự vật mới mang nhiều đặc trưng đối lập với
cái trung gian. Như vậy về hình thức, sẽ trở lại cái xuất phát, song thực chất,
không phải giống nguyên như cũ, mà dường như lặp lại cái cũ, nhưng trên cơ
sở cao hơn. Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua
phủ định của phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ,

nhưng trên cơ sở cao hơn. Do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không
phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc.
Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một
chu kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là
một bước trung gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái
lập cái ban đầu, nhưng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của
sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó gọi là phủ định của phủ định. Phủ định
của phủ định làm xuất hiện cái mới như là kết quả tổng hợp của tất cả những
yếu tố tích cực đã được phát triển từ trong cái ban đầu và cả trong những lần
phủ định tiếp theo những yếu tố tích cực được khôi phục, được duy trì và phát
triển. Cái tổng hợp này là sự thống nhất biện chứng tất cả những cái tích cực ở
các giai đoạn trước và cái mới xuất hiện trong quá trình phủ định. Do vậy, cái
mới với tư cách là kết quả phủ định của phủ định có nội dung toàn diện và
phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết quả của lần phủ định thứ
nhất. Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển,
đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát
triển. Sự phát triển đi lên đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo
Nguyễn Thị Nội

6

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đường “xoáy ốc”. Đề cập tới con đường đó của sự phát triển biện chứng

V.I.Lênin viết: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua,
nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ
định); sự phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không phải theo
đường thẳng” [18, tr.65].
Từ một số lập luận trên đây, chúng ta có thể hiểu nội dung cơ bản của
quy luật phủ định của phủ định như sau: Quy luật này nói lên mối liên, sự kế
thừa của cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện
chúng không phải là phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả những cái phát triển
trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển; nó duy trì và giữ gìn nội dung tích
cực của giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát,
nhưng trên cơ sở cao hơn. Do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không
phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc.
Phủ định biến chứng có hai tính chất cơ bản sau đây: Thứ nhất, nó
mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển; Thứ hai, nó mang tính
kế thừa, là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn
trong bản thân sự vật quy định. Hơn nữa, phủ định của sự vật cũng không tùy
thuộc vào ý muốn chủ quan con người. Mỗi sự vật có phương thức phủ định
riêng, do đó mà có sự phát triển riêng.
Phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn
cái bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định
biện chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nhân tố tích của cái bị phủ
định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính chất kế thừa. Với
ý nghĩa như vậy, phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Diễn đạt tư tưởng
đó, V.I.Lênin viết “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải phủ định
không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng
Nguyễn Thị Nội

7


K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện
chứng...mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự
phát triển, với sự duy trì cái khẳng định” [19, tr.245].
Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó
trong sự ra đời cái mới. Không có cái mới nào ra đời từ hư vô. Nhờ giữ lại
nhân tố tích cực của cái bị phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự phát triển
của mình.
Cái quá khứ không biến đi mà không để lại một dấu vết nào trong dòng
chảy vô tận của thời gian. Thật ra, nó đang tham gia vào việc tạo ra cái hiện
tại, nó tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình
thức quan trọng của cái được kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống.
Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để
tạo ra cái mới.
Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ lại,
nó vẫn duy trì dưới dạng lọc bỏ. Chẳng hạn, trong khi phủ định chủ nghĩa tư
bản với tư cách là một chế độ lỗi thời, chủ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ
nhưng thành quả của sự phát triển tiến xã hội đã đạt được trong chủ nghĩa tư
bản. Song, những yếu tố những yếu tố được giữ lại đó cũng phải được cải tạo,
được biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành
những yếu tố nội tại của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là phủ định có
khẳng định cứ không phải là phủ định sạch trơn và không bao hàm bất kỳ một
sự khẳng định nào như phủ định trong phép siêu hình. Đây là sự khác biệt căn

bản của phủ định trong phép biện chứng và phủ định trong phép siêu hình. Vì
thế, phủ định biện chứng là phủ định mang tính khoa học, định hướng cho
mọi hoạt động thực tiễn của con người.

Nguyễn Thị Nội

8

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta
cần lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ
thay thế cái lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những cái gì
tích cực của cái cũ. Và phủ định của phủ định là sự tự phủ định, là sự phủ
định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ.
Trong thực tiễn cuộc sống, chúng ta cần phải biết phát hiện ra và quý
trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới, mặc dù lúc
đầu nó còn ít ỏi, yếu ớt, phải ra sức bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện
cho nó chiến thắng cái cũ. Và trong quá trình đấu tranh với cái cũ, chúng ta
phải biết sàng lọc, biết giữ lấy những cái gì là tích cực, là có giá trị của cái cũ
cho phù hợp với điều kiện mới, phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong
khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá quá khứ.
Phủ định của phủ định được thực hiện thông qua giải quyết mâu thuẫn.
Vì nguyên nhân của phủ định của phủ định là do những mâu thuẫn nội tại của

sự vật, hiện tượng quy định. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự
vật sẽ đưa đến sự chuyển hóa lẫn nhau, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Quá
trình đó diễn ra thường xuyên ngoài ý muốn của con người và đó cũng là yếu
tố tất yếu của sự phát triển. Phủ định biến chứng là sự phủ định mang tính
khách quan. Đó là sự tự phủ định của sự vật và hiện tượng không phải do ý
muốn chủ quan của con người, cũng không phải do Thượng đế hay Chúa trời
điều khiển.
Trong thực tế, sự phát triển có cả bước tiến lẫn bước thụt lùi, cả tiến bộ
lẫn thoái hóa, sự phát triển đôi khi không phải là một đường thẳng tắp mà đôi
khi có bước quanh co, thụt lùi tạm thời. Ở đây chúng tôi muốn nói nhấn mạnh
sự ra đời của cái mới trên cơ sở của cái cũ, nhưng cái mới sẽ có trình độ phát
triển cao hơn trình độ mà cái cũ đã đạt được và quá trình cái mới phủ định cái

Nguyễn Thị Nội

9

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

cũ để khẳng định sự tồn tại của nó không phải là quá trình đơn giản và nhanh
chóng. Mức độ ảnh hưởng của cái cũ trong hiện thực, quá trình ra đời cái mới,
điều kiện khách quan và chủ quan để cái mới ra đời thay thế cho cái cũ,... Tất
cả những điều đó sẽ quyết định quá trình tự phủ định cái cũ và khẳng định cái
mới là quá trình lâu dài.
Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, là sự phủ định có tính chất kế

thừa, nó không làm cho sự vật cũ bị diệt vong hay biến mất hoàn toàn. Nó là
sự phủ định có giữ lại, có bảo tồn. Cái cũ và cái mới không tuyệt đối tách rời,
đối lập nhau mà có sự gắn liền giai đoạn sau với giai đoạn trước, bằng cách
bảo tồn những mặt tích cực của giai đoạn trước, cải biến và chuyển hóa nó
trong giai đoạn sau. Điều đó đòi hỏi chúng ta khi vận dụng quan điểm biện
chứng mác - xít về phủ định biện chứng trong xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải biết phát hiện cái mới, cái hợp quy
luật, nhưng đồng thời cũng phải thấy được những cái “mới” không phải được
áp đặt từ đâu đó vào mà nó là kết quả của phủ định biện chứng. Đồng thời
phải chống lại những thái độ phủ định sạch trơn, hoặc kế thừa một cách
nguyên si, cản trở tới sự phát triển văn hóa của đất nước cũng như của từng
dân tộc. Vấn đề là ở chỗ phải biết kế thừa có phê phán, có chọn lọc những cái
vốn là tinh hoa văn hóa nhân loại, sử dụng chúng như là tiền đề nảy sinh cái
mới, tiến bộ hơn trong sự vận động tiến lên của văn hóa dân tộc.
1.2. Một số vấn đề lí luận về nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc
1.2.1. Khái niệm văn hóa
Khái niệm văn hóa là một khái niệm đa chiều và đa góc cạnh. Cho đến
nay, đã thống kê được hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Song, các
nhà văn hóa đều có chung nhận định đó là văn hóa bao gồm có văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.

Nguyễn Thị Nội

10

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Từ “Văn hóa” bắt nguồn từ tiếng Latinh ở phương Tây, “Cultura” ban
đầu có nghĩa là canh tác và gieo trồng thực vật. Sau này, trong quá trình sử
dụng ngôn ngữ này mang thêm một nghĩa mới đó là: sự mở mang kiến thức,
bồi dưỡng về thể chất và tinh thần đối với con người, là sự vun xới về mặt
tinh thần hay “trồng trọt tinh thần”. Sang thế kỷ XVII - XVIII, việc sử dụng
thuật ngữ “Văn hóa” với nghĩa là canh tác tinh thần bên cạnh nghĩa gốc là
quản lí, canh tác nông nghiệp.
Đến thế kỷ XIX, thuật ngữ “Văn hóa” được các nhà nhân học phương
Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa
(văn minh) thế giới có thể phân loại từ trình độ thấp đến cao nhất và văn hóa
của họ chiếm cao nhất. Bởi vì họ tin rằng bản chất của văn hóa là hướng về trí
lực và sự vươn lên phát triển thành văn minh.
Đến thế kỷ XX, năm 1909 thuật ngữ “Văn hóa học”(tiếng Đức:
Kunturkunde”, tiếng Anh: Culturolog) mới được ra đời. Người đặt ra thuật ngữ
này là Wilhelm Ostwald nhà khoa học và triết học Đức. Thuật ngữ này dùng để
chỉ môn học mới mà ông gọi là” khoa học về các hoạt động văn hóa, tức là hoạt
động đặc biệt của con người”, hoạt động mà chỉ con người mới có. Ông viết:
“Chúng ta gọi những gì phân biệt con người với động vật là văn hóa”.
Ở phương Đông ( Trung Quốc) từ “Văn hóa” có trong đời sống ngôn
ngữ từ rất sớm. Trong Chu dịch có câu: “Quan hồ nhân dĩ hóa thành thiên
hạ”, tức “Thánh nhân quan sát nhân văn lấy Thi, Thư, Lễ nhạc làm phép tắc
và để giáo hóa làm cho thiên hạ được khai hóa”. Như vậy, quan niệm cổ đại ở
Trung Quốc về văn hóa là học thuyết lấy Nho gia là chính, nội dung chủ yếu
của văn hóa là Thi, Thư, Lễ nhạc, chế độ chính trị, luân thường đạo lý và
hàng loạt quan niệm tập tục trở thành lễ tục. Giáo hóa văn trị ở chỗ thực hiện
Tam cương, Ngũ thường, Thi, Thư, Lễ nhạc. Đó chính là cốt lõi của quan
niệm về văn hóa ở Trung Quốc cổ đại.


Nguyễn Thị Nội

11

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì văn hóa chỉ gắn liền với con người và
xã hội loài người, với quá trình sáng tạo của con người. Nếu như hoạt động
của con vật là hoạt động bản năng thì hoạt động của con người là hoạt động tự
giác, hoạt động nhằm để hiểu biết, khám phá và sáng tạo. Con người vừa sáng
tạo ra bản thân mình vừa đồng thời sáng tạo ra thế giới văn hóa.
Theo C.Mác, hoạt động của con người không chỉ thỏa mãn nhu cầu ăn,
mặc, ở,... mà còn là kết tinh năng lực sáng tạo, là cách sống, phương thức
sống, phương thức bộc lộ nhân tính, biểu hiện ra trong toàn bộ sản phẩm vật
chất, tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Như
vậy, văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở hình thành và phát triển
của chính con người. Chính vì vậy, các giá trị văn hóa đều có tính chất kế
thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ thời đại qua thời đại và có sự giao thoa
ảnh hưởng giữa các dân tộc.
Khi bàn về văn hóa, V.I.Lênin cho rằng trong xã hội có giai cấp luôn
tồn tại hai nền văn hóa, nền văn hóa của giai cấp thống trị và nền văn hóa của
nhân dân lao động. Ông khẳng định tính tất yếu của cách mạng văn hóa, cuộc
cách mạng này hết sức khó khăn vì trình độ dân trí và cơ sở hạ tầng lạc hậu.
Song không phải ngồi chờ lực lượng sản xuất phát triển mới làm cách mạng

văn hóa, mà phải chủ động tạo ra các tiền đề căn bản của nền văn hóa cách
mạng, yếu tố cơ bản của xã hội mới. V.I.Lênin đã xác định tính kế thừa biện
chứng của sự phát triển văn hóa khi ông giải quyết mối quan hệ dân tộc, giai
cấp và văn hóa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Văn hóa được biểu hiện
như toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội và tiêu biểu cho trình độ đạt được
trong lịch sử xã hội”[17, tr.656].

Nguyễn Thị Nội

12

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Như chúng ta đã biết, tính đến nay có tới hàng trăm định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Trong khi trên thế giới còn bàn cãi rất nhiều về định nghĩa
văn hóa thì ở nước ta từ năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định
nghĩa về văn hóa mang tính chất hệ thống: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt
hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
nhu cầu của đời sống và đòi hỏi sinh tồn” [21, tr.431].

Trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh xác định văn hóa là sự phát triển
tất yếu, mang tính xã hội cao, là phương thức sống, hoạt động và không
ngừng nâng cao theo đà phát triển của xã hội. Sáng tạo ra giá trị nhân văn là
nội dung cốt lõi của giá trị văn hóa.
Theo tổ chức văn hóa,giáo dục và khoa học Liên hợp quốc (UNESCO)
thì: “Văn hóa được đặc trưng bởi diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức,
tình cảm,... khắc họa nên bản sắc của một quốc gia, cộng đồng, gia đình, làng
xóm, xã hội,... Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương, mà cả
những lối sống, những quyền cơ bản, những hệ thống giá trị, những truyền
thống tín ngưỡng” [6, tr.47]. Như vậy, trong định nghĩa này chúng ta thấy có
các di sản văn hóa “vô hình” như phong tục, tập quán, truyền thống, ngôn
ngữ, các nghi lễ dân gian.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều các nhà văn hóa nghiên cứu về văn hóa.
Tuy nhiên mỗi người lại có cách tiếp cận khác nhau, do đó định nghĩa về văn
hóa cũng khác nhau: PGS. TS Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa
như sau: “Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con

Nguyễn Thị Nội

13

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [27, tr.27].

Theo GS Phan Ngọc: “Văn hóa là quan hệ giữa thế giới biểu tượng
trong óc một cá nhân hay tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá
nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu
tượng” [25, tr.19].
Như vậy, chúng ta thấy rằng “Văn hóa” là một khái niệm mở, là một
phạm trù hết sức rộng lớn, phong phú và đa dạng, nó bao hàm những giá trị
trên tất cả các lĩnh vực mà con người sáng tạo ra trong đời sống xã hội, do đó
khó có thể định nghĩa hoàn chỉnh về văn hóa mà trong đó bao hàm được tất cả
các lĩnh vực mà văn hóa có mặt. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về
văn hóa, song những định nghĩa đó không nhằm bài trừ lẫn nhau mà đồng thời
bổ sung cho nhau làm cho khái niệm văn hóa ngày càng trở nên đầy đủ và
hoàn thiện hơn.
Từ những định nghĩa khác nhau về văn hóa và từ quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nổi lên những đặc trưng
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, văn hóa là phản ánh những giá trị nhân văn. Văn hóa được
hình thành và phát triển trong mối quan hệ cải tạo với tự nhiên và đấu tranh xây
dựng xã hội. Do đó, bản chất của văn hóa là phản ánh các giá trị nhân văn là xử
lý mối quan hệ giữa con người với con người, đề cao giá trị của con người.
Thứ hai, văn hóa mang tính dân tộc. Văn hoá mang bản chất nhân văn
nhưng lại mang bản sắc riêng của từng dân tộc và dấu ấn riêng của từng giai cấp.
Thứ ba, văn hóa còn được thể hiện trong sự giao lưu văn hóa giữa các
dân tộc giữa các quốc gia.
Thứ tư, văn hóa là một hiện tượng mang tính lịch sử. Trải qua mỗi thời
kì lịch sử sẽ có một nền văn hóa tương ứng với mỗi thời kì lịch sử đó.

Nguyễn Thị Nội

14


K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.2.2. Sự cần thiết phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
Trong suốt chặng đường lãnh đạo nhân dân, tiến hành thắng lợi các
cuộc kháng chiến chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm toàn diện, nhận thức sâu sắc về vị trí,
vai trò và sức mạnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Ý thức rõ về sức mạnh văn hóa đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc
khỏi ách áp bức của đế quốc xâm lược, “Đề cương văn hóa Việt Nam” tháng
2 năm 1943 - Cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng đã ra đời, làm nền tảng
lý luận cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc những
năm tiếp theo, xác định: văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị,
văn hóa; vì vậy, phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được
công cuộc cải tạo xã hội và “Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên
phong”; đồng thời Đảng ta cũng xác định nền văn hóa Việt Nam có ba tính
chất: dân tộc, khoa học, đại chúng.
“Đề cương văn hóa Việt Nam” là sự khẳng định tư tưởng của Hồ Chí
Minh: Văn hoá “soi đường cho quốc dân đi”, góp phần động viên, tập hợp đội
ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu quốc, tạo sức mạnh to lớn làm
nên cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược, sức mạnh nội sinh của
văn hóa được phát huy mạnh mẽ, trở thành niềm cổ vũ to lớn chiến sĩ và nhân
dân ta. Trên nền tảng văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời đại, những tác

phẩm thơ, văn, ca, múa, nhạc, họa được sáng tác, phục vụ kịp thời, tiếp thêm
sức mạnh cho dân tộc, thôi thúc phong trào thi đua mạnh mẽ giữa tiền tuyến và
hậu phương, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Nguyễn Thị Nội

15

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Thời kỳ hòa bình, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội IV của
Đảng đã tiếp tục khẳng định: Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong
đó tập trung “Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa”
với những giá trị đạo đức, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống cao đẹp.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện về kinh
tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Đảng đã chủ trương đổi
mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 05 về văn hóa - văn nghệ trong cơ chế thị trường và
những chỉ thị quan trọng về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học
- nghệ thuật, công tác quản lý văn học - nghệ thuật và một số nhiệm vụ văn
hóa - văn nghệ. Đến Hội nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) tháng 7 năm 1998,
Đảng ra Nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”, khẳng định vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân
tộc và tương lai đất nước. Xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội với mục

đích làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư,
vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh
thần cao đẹp”. Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) khẳng định: “Bảo đảm sự
gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều
kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất
nước” [11, tr.114 - 115]; Đại hội lần thứ X của Đảng (4 - 2006) khẳng định:
“Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh
tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”
[12, tr.106].
Nguyễn Thị Nội

16

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Trong quá trình hội nhập và phát triển, bên cạnh những cơ hội thuận lợi,
Đảng ta đã ý thức về tính chất nguy hiểm trước vấn nạn của “luồng văn hóa
độc hại” xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường khác nhau, kịp thời ban
hành Nghị quyết 23 - NQ/TƯ: Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới và Chỉ thị số 46 - CT/TƯ của Ban Bí Thư Trung ương
Đảng, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo

vệ “bản sắc văn hoá” trong thời kỳ hội nhập quốc tế; yêu cầu các Cấp ủy Đảng,
Chính quyền, Mặt trận, Đoàn thể và đội ngũ đảng viên, cán bộ chung tay góp
sức, kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn
hóa độc hại, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội.
Tiếp thu và phát triển đường lối văn hóa của Đảng, Dự thảo Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung và
phát triển trong năm 2011 đã nêu lên định hướng về văn hóa đó là: Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm
cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Những năm qua, lĩnh vực văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống - lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có
những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, do những tác động tiêu cực từ mặt
trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, lĩnh vực văn hóa cũng đã bộc
lộ những hạn chế nhất định, tác động không nhỏ đến văn hóa truyền thống của
dân tộc. Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng

Nguyễn Thị Nội

17

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một
trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm
vụ xây dựng Đảng. Tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, coi
thường pháp luật,… những biểu hiện “thương mại hóa”, xu hướng vọng
ngoại, lai căng, xa rời bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc ở một bộ phận
chưa được ngăn chặn một cách hữu hiệu. Những sáng tạo văn học nghệ thuật
mới có giá trị nghệ thuật cao chưa nhiều. Thực trạng đó là những nguy cơ
tiềm ẩn làm xói mòn văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, làm cản trở bước
đường đi tới hạnh phúc và phồn vinh của dân tộc ta. Chính vì vậy, việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại
mới là vấn đề quan trọng có ý nghĩa hàng đầu.
1.2.3. Những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất
hữu cơ giữa tính tiên tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của
việc tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm qua. Trong mỗi giai đoạn lịch
sử cụ thể, Đảng ta đều đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, phù
hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã xác định nền văn hóa
mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trình
độ tiên tiến của nền văn hóa không mâu thuẫn với bản sắc văn hóa dân tộc,
ngược lại, hai đặc tính thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại và
quy định lẫn nhau. Tuy nhiên, để tìm hiểu đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến,


Nguyễn Thị Nội

18

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có thể cần làm rõ từng nội dung “tiên tiến”
và “đậm đà bản sắc dân tộc”.
1.2.3.1. Nền văn hóa tiên tiến
Việt Nam là nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do
đó chúng ta có lợi thế là có điều kiện học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý
báu, phù hợp với đất nước từ các nước đi trước. Trong bối cảnh đó đòi hỏi
chúng ta phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến, phù hợp với giai đoạn phát triển
mới của đất nước. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII)
đã xác định, bản sắc văn hóa dân tộc không được tách rời, càng không thể đối
lập với tính tiên tiến của nền văn hóa nhân loại. Tính tiên tiến và văn hóa dân
tộc phải gắn liền, thống nhất hữu cơ với nhau.
Vậy, thế nào là tính tiên tiến trong văn hóa dân tộc?
Thứ nhất, nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa được định hướng
bởi chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là văn hóa phù hợp với
xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, thúc đẩy lịch sử phát triển hợp quy luật,
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó nó phải vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Nói đến tính tiên tiến của văn hóa là
nói đến trình độ cao của văn hóa, trình độ học vấn, dân trí, khoa học công

nghệ, tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, lối sống,... Trong “Đề cương văn hóa”
(1943), Đảng ta đã xác định nền văn hóa Việt Nam có ba tính chất: Dân tộc,
Khoa học, Đại chúng. Tính chất “khoa học” chính là nói tới tính tiên tiến của
văn hóa. Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 ( khóa VIII) đã làm rõ một số nội
dung cơ bản nói lên tính tiên tiến của nền văn hóa nước ta: “Tiên tiến là yêu
nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất
cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, hoàn thiện

Nguyễn Thị Nội

19

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã
hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình
thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung,...” [9, tr.55 - 56].
Thứ hai, văn hóa là sản phẩm tinh thần của dân tộc. Tính chất tiên tiến
của nền văn hóa còn phải thể hiện ở tinh thần yêu nước, kết tinh truyền thống
quý báu của dân tộc. Yêu nước được coi là giá trị hàng đầu của mỗi con người
Việt Nam qua mọi thời đại, trở thành thước đo phẩm giá của con người Việt
Nam. Đó là ý chí kiên cường, bất khuất trước kẻ thù, quyết hi sinh để bảo vệ
độc lập tự do của Tổ quốc. Nhân dân ta rất ưa chuộng hòa bình, tôn trọng tự
do nhưng khi đất nước bị xâm chiếm thì mọi người đề chung sức chung lòng

“thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tinh thần yêu
nước ấy là ý thức tự tôn dân tộc, vươn lên sánh vai cùng với các cường quốc
năm châu trên thế giới. Mục tiêu văn hóa nước ta hướng tới phải là: Độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, mục tiêu này phải được thực hiện nhất quán và
phải được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải cố gắng hết sức để vượt qua
những khó khăn, thử thách trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, chúng ta cũng phải chuẩn bị mọi điều kiện để chớp lấy thời cơ, vận hội
trong hoàn cảnh mới để thoát khỏi những yếu kém, lạc hậu và trì trệ để đưa
đất nước phát triển vững mạnh. Tuy nhiên, trong quá trình chúng ta tiếp thu
và học hỏi những kinh nghiệm bên ngoài phải lựa chọn sao cho phù hợp với
dân tộc và định hướng nền văn hóa dân tộc.
Thứ ba, tính chất tiên tiến của nền văn hóa còn phải thể hiện tinh thần
nhân văn nhằm giải phóng con người, phát triển con người một cách toàn
diện. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của nhân tố con người ngày càng được

Nguyễn Thị Nội

20

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đề cao, nó giữ vai trò hàng đầu quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Mọi
hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức
cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn
hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành
nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống
cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [11, tr.114]. Chính vì vậy, mà những chuẩn
mực đặt ra với nhân tố con người ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn. Chủ nghĩa xã hôi chính là ước mơ cao đẹp của loài người tiến bộ, là
hướng phấn đấu và trở thành chuẩn mực sống của toàn xã hội. Chúng ta đang
phấn đấu để nâng mình lên một tầm cao mới, tuy nhiên để làm được điều này
phải xây dựng và phát triển trên nền tảng của một hệ tư tưởng tiên phong, đó
là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đã thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, một nền văn hóa tiên tiến còn mang tính chất dân chủ, đây là một
trong những yếu tố làm thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội, đời sống văn
hóa. Một xã hội dân chủ sẽ tạo điều kiện cho con người ngày càng phát triển
và sáng tạo ra giá trị văn hóa với trình độ ngày càng văn minh. Điều đó có ý
nghĩa nâng cao giá trị của con người, hướng tới chủ nghĩa nhân văn cao đẹp
để hoàn chỉnh “nền văn minh trí tuệ”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đề ra yêu cầu: xây dựng nền văn hóa
mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung
nhân đạo, dân chủ, tiến bộ.

Nguyễn Thị Nội

21

K35 Giáo dục công dân



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Thứ năm, ngoài những thành tố hệ tư tưởng và các yếu tố khác của văn
hóa thì nền tảng văn hóa tiên tiến phải mang tính hiệ đại về dân trí, khoa học
công nghệ để làm sao bắt kịp với trình độ hiện đại của thế giới.
Thứ sáu, tính chất tiên tiến của văn hóa không chỉ thể hiện ở mặt nội dung
tư tưởng mà nó còn thể hiện cả trong hình thức biểu hiện của nó.
Bên cạnh đó, nền văn hóa Việt Nam hiện đại còn phải hướng tới góp phần
giải quyết những vấn đề mang ý nghĩa toàn cầu: ô nhiễm môi trường, bệnh tật
hiểm nghèo, chiến tranh...
Trên đây là những yêu cầu của một nền văn hóa tiên tiến, tuy nhiên chúng
ta cũng phải thấy được rằng nền văn hóa tiên tiến trong đó đã bao hàm cả
những giá trị truyền thống dân tộc và để xây dựng nền văn hóa tiên tiến thì
phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
1.2.3.2. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
Văn hóa chỉ tồn tại và phát triển khi chứa đựng và thể hiện đầy đủ bản sắc
dân tộc đã tạo ra nó. Mỗi dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển đề lựa
chọn thái độ, phương thức sống và hoạt động ứng phó với hoàn cảnh, vừa tiếp
thu, vừa cải biến có chọn lọc các giá trị để nâng cao tinh thần tự chủ, tự cường
tạo nên những nét riêng biệt hợp thành bản sắc văn hóa của dân tộc đó.
Theo từ điển Hán - Việt, “Bản” có nghĩa là cái gốc, còn “Sắc” là khái
niệm dùng để chỉ màu sắc, sắc thái. “Bản sắc văn hóa” có nghĩa là sắc thái
văn hóa gốc, là những đặc trưng riêng không thể trộn lẫn trong cội nguồn của
nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản
ánh diện mạo, cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân
tộc; là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc
khác. Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tập trung trong truyền thống văn hóa

dân tộc. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền lại, được các thế
hệ sau kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình, tạo nên dòng chảy

Nguyễn Thị Nội

22

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

liên tục của lịch sử văn hóa. “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun
đắp qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình, làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự
tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống,... Bản sắc văn hóa dân tộc
còn đậm nét trong các hình thức thể hiện mang tính dân tộc độc đáo...” [9,
tr.55 - 56].
Văn hóa dân tộc bao giờ cũng gắn với đặc trưng của một đất nước, một
dân tộc nào đó, đó là những biểu hiện giá trị vật chất và tinh thần đặc thù, sắc
thái riêng biệt trong đời sống sinh hoạt của mỗi cộng đồng dân tộc từ cách ăn,
mặc, đi lại,... cho đến chiều sâu tâm hồn, cách tư duy, lối ứng xử, qua đó
chúng ta phân biệt được nền văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân
tộc khác.
Việc xác định nền văn hóa dân tộc là một trong những vấn đề quan trọng

để tạo dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Khi nói đến bản
sắc văn hóa dân tộc là nói tới cơ sở để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này
với nền văn hóa của dân tộc khác. Điều đó không có nghĩa là cái riêng của
nền hóa của dân tộc này không có ở nền văn hóa của dân tộc khác, hiểu như
vậy không đúng bởi vì quy luật của văn hóa là giao lưu, trong quá trình đó các
nền văn hóa tất yếu sẽ học hỏi lẫn nhau. Vì vậy, mà có thể có những nét tương
đồng về văn hóa giữa các dân tộc.
Trải qua bao thăng trầm, biến động của lịch sử bản sắc văn hóa dân tộc là
cái đảm bảo cho dân tộc Việt Nam tồn tại và đứng vững cho đến ngày hôm
nay. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều đó. Trong quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước, chúng ta đã trải qua hàng nghìn năm độ hộ của

Nguyễn Thị Nội

23

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

phong kiến phương Bắc, và chịu sự xâm lược của các nước phương Tây. Mục
đích xâm lược của bọn chúng là đồng hóa, làm mất đi lối sống truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Nhưng nhờ có bản sắc văn hóa dân tộc, nhờ có sức
mạnh văn hóa tinh thần của nhân dân ta, chẳng những chúng ta không bị đồng
hóa về văn hóa mà trái lại còn tiếp thu, cải biến và Việt hóa một cách tài tình
yếu tố văn hóa ngoại nhập làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Ví
dụ như: Chữ Nôm của Việt Nam ra đời trên cơ sở vận dụng chữ Hán, chữ

Quốc ngữ được thông dụng trên cơ sở theo mẫu chữ Latinh,... hay nhiều loại
hình thức nghệ thuật phương Tây xưa kia rất lạ lẫm đối với văn hóa Việt
Nam, nhưng nhờ biết tiếp thu, vận dụng và thích ứng nó đã trở thành sản văn
hóa của dân tộc: tiểu thuyết, kịch, điện ảnh, nhiếp ảnh,... Bản sắc văn hóa dân
tộc là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh
thần của dân tộc. Đứng trước sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công
nghệ và sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc gia, dân
tộc, nhất là các nước đang phát triển đều ý thức sâu sắc việc bảo vệ, giữ gìn
các giá trị đặc sắc và đa dạng của văn hóa dân tộc, chống nguy cơ bị đồng
hóa. Vì vậy, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu cầu
khách quan và là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam hiện nay.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ việc tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc
văn hóa dân tộc, không được đánh mất mình, trở thành bóng mờ hay bản sao
chép của người khác. Và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5
(khóaVIII) cũng xác định: bản sắc văn hóa dân tộc không tách rời càng không
thể đối lập với tính tiên tiến của văn hóa nhân loại. Tính tiên tiến và tính dân
tộc trong văn hóa phải gắn liền, thống nhất hữu cơ với nhau.

Nguyễn Thị Nội

24

K35 Giáo dục công dân


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


1.3. Nội dung của sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
1.3.1. Tính khách quan trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Phủ định biện chứng là phủ định được diễn ra do sự phát triển của bản
thân sự vật hiện tượng, có kế thừa những yếu tố tích cực của sự vật hiện
tượng cũ để phát triển sự vật hiện, tượng mới. Nguyên nhân của sự phủ định
nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết quả của quá trình giải
quyết mâu thuẫn lượng đổi dẫn đến chất đổi, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Vì
vậy, phủ định biện chứng mang tính tất yếu, khách quan và tạo điều kiện làm
tiền đề cho sự phát triển. Và sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng mang
tính khách quan.
Trong thời đại ngày nay do sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật,
do những biến đổi nhanh chóng của từng khu vực trên thế giới đã tạo nên thời
đại chưa từng có trong lịch sử loài người, đó là thời đại của “văn minh trí
tuệ”. Mỗi dân tộc nếu không muốn tụt hậu thì phải hòa mình vào bước tiến
chung của thời đại. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Văn hóa Việt
Nam phải thể hiện được tính tiên tiến, phải trở thành một điểm sáng của văn
hóa nhân loại.
Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn mà các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc phải đối diện với những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Hội nhập
quốc tế đang là một nhu cầu khách quan, nó đòi hỏi chúng ta phải mở cửa
giao lưu với cộng đồng thế giới để đón nhận và tiếp thu những giá trị mới,
tiến bộ của nhân loại. Một dân tộc nào đó sẽ không còn là chính mình nếu
đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Theo đó, hội nhập quốc tế và giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc là hai mặt thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đại

Nguyễn Thị Nội


25

K35 Giáo dục công dân


×